Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tòa án nhân dân hai cấp tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH DOANH
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TOÀ ÁN NHÂN DÂN HAI CẤP
TỈNH HƯNG YÊN

ĐÀO THÚY HÀ

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH DOANH
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TOÀ ÁN NHÂN DÂN HAI CẤP
TỈNH HƯNG YÊN

ĐÀO THÚY HÀ
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107


Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN NGỌC LIÊM

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết
các vụ án kinh doanh thương mại theo pháp luật Việt Nam từthực tiễn Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên” là do bản thân tự thực hiện và không sao chép
các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình. Những
nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS.
Trần Ngọc Liêm. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được
trích dẫn và nêu rõ nguồn trong phần tài liệu tham khảo. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2019
Tác giả luận văn

Đào Thúy Hà


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài luận văn, dưới sự hướng dẫn tận tình của
giáo viên hướng dẫn và được nhà trường tạo điều kiện thuận lợi, tôi đã có một quá
trình nghiên cứu, tìm hiểu và học tập nghiêm túc để hoàn thành luận văn. Kết quả
thu được không chỉ do nỗ lực của cá nhân tôi mà còn có sự giúp đỡ của quý thầy cô,
gia đình và bạnbè.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Trần Ngọc Liêm, là người
đã dẫn dắt, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Mở Hà Nội đã
quan tâm, tạo điều kiện; cung cấp cho tôi những tư liệu quan trọng, cần thiết phục

vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè - những người đã luôn
ở bên cạnh động viên, giúp đỡ, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập để tôi luôn
vững tin và nỗ lực hoàn thành luậnvăn.
Tác giả luận văn

Đào Thúy Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI.........................................................................................7
1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại và thẩm quyền của Tòa
án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại .......................................7
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại ............................................7
1.1.2. Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại ..................................................................................................................9
1.2. Cơ sở pháp lý để phân định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết
các tranh chấp kinh doanh, thương mại ....................................................................14
1.2.1. Cơ sở pháp lý để phân định thẩm quyền của Tòa án và trọng tài trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại .........................................................14
1.2.2. Cơ sở pháp lý của việc phân định thẩm quyền theo cấp và lãnh thổ trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại .........................................................18
Kết luận Chương 1 ....................................................................................................25
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ...........................................................26
2.1. Thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án ................................................................26

2.1.1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại ....................26
2.1.2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ và quyền chuyển giao công nghệ ...........30
2.1.3. Tranh chấp giữa những người chưa phải là thành viên công ty nhưng có
giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty ............38
2.1.4. Tranh chấp trong nội bộ công ty .....................................................................43


2.1.5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại ...........................................48
2.2. Thẩm quyền theo cấp Tòa án .............................................................................50
2.2.1. Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện .................................................................50
2.2.2. Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh ....................................................................55
2.2.3. Quy định về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ .........................................59
2.2.4. Quy định về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn ........63
Kết luận Chương 2 ....................................................................................................69
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ
KINH DOANH - THƯƠNG MẠI VÀ KIẾN NGHỊ ..........................70
3.1. Giới thiệu về Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên ......................................70
3.2. Thực trạng áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên
trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại ..................................71
3.2.1. Những kết quả đạt được ..................................................................................71
3.2.2. Khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân ...........................................................74
3.3. Một số kiến nghị nhằm triển khai có hiệu quả các quy định pháp luật của
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại .....................................................................................................84
3.3.1. Kiến nghị về pháp luật ....................................................................................84
3.3.2. Kiến nghị liên quan đến tổ chức thực hiện .....................................................86
Kết luận Chương 3 ....................................................................................................91
KẾT LUẬN ..............................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................93



DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

Công ty TNHH : Công ty Trách nhiệm hữu hạn
SHTT

: Sở hữu trí tuệ

TAND

: Tòa án nhân dân


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Kết quả thụ lý và giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại theo
cấp xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên .............................71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm trở lại đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền
kinh tế nước ta đang trên đà phát triển và đã đạt được những thành công nhất định.

Đặc biệt không thể không nhắc đến sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại
quốc tế WTO, đây có thể coi là một bước ngoặt lớn của nền kinh tế nước nhà, tác
động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh, thương mại. Cụ thể, các hoạt động kinh
doanh, thương mại diễn ra đa dạng, phức tạp hơn, phủ rộng trên nhiều lĩnh vực, tính
cạnh tranh cao hơn, những điều này kéo theo sự gia tăng đáng kể số lượng các tranh
chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Có những biện pháp giải quyết tranh
chấp mà các bên khi tiến hành các hoạt động kinh doanh thương mại có thể tự mình
giải quyết được như hòa giải, thương lượng, tuy nhiên cũng có trường hợp những
tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh mà các chủ thể kinh doanh, thương mại không thể tự
mình giải quyết được, đòi hỏi phải được giải quyết một cách thỏa đáng bằng một cơ
chế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp và việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng con đường Tòa án vẫn thường được nhắc
đến như là một biện pháp giải quyết mang lại hiệu quả nhất. Tòa án chính là công cụ
để nhà nước quản lý trật tự xã hội trong mọi lĩnh vực, trong đó có trật tự về kinh tế.
Đóng vai trò là một thiết chế phán công, Tòa án có nhiều lợi thế khi giải quyết các
tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại. Vì vậy, Tòa án được đương sự ưu
tiên lựa chọn để giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các tranh chấp về kinh
doanh thương mại nói riêng. Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm bằng việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng con đường Tòa án thì phương thức giải
quyết tranh chấp này trên thực tế cũng bộc lộ không ít những nhược điểm khiến các
chủ thể hoạt động kinh doanh thương mại băn khoăn như: thủ tục phức tạp, rườm rà,
thời gian giải quyết kéo dài, v.v... trong đó phải kể đến những bất cập trong việc xác
định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh của Tòa án.
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 ra đời đã là một
bước tiến lớn của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Sau hơn mười năm thi hành,

1


có thể nói Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) đã khắc phục được nhiều nhược điểm

của các văn bản quy phạm pháp luật trước đó, góp phần quan trọng trong việc bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cho đến
nay, nhiều quy định của BLTTDS cũ vẫn còn phù hợp và đang phát huy tác dụng
tích cực. Tuy nhiên, qua tổng kết thực tiễn cho thấy cũng có nhiều quy định của
BLTTDS đã bộc lộ những hạn chế, bất cập không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của
người dân trong việc giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quan hệ dân sự nói
chung cũng như trong hoạt động kinh doanh thương mại nói riêng. Chính vì vậy, tại
kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII,
thông qua ngày 25/11/2015 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, có hiệu lực
vào ngày 01/7/2016 ra đời như một kết quả tất yếu.
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 ra đời chứa đựng nhiều nội dung mới so với Bộ
luật cũ, ví dụ như Bộ luật đã đưa ra quy định Tòa án không được từ chối giải quyết
vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; cho phép Tòa án áp dụng tập
quán để giải quyết vụ việc dân sự, trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và
pháp luật không quy định; không chỉ có vậy, BLTTDS 2015 còn đưa ra nhiều nội
dung mới liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
quá trình tham gia thủ tục tố tụng dân sự (như vị trí, vai trò của Viện kiểm sát; việc
tham gia các phiên tòa, phiên họp; việc phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân
tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm; quy định về thẩm quyền xác minh, thu thập tài
liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát; quy định về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân…) cùng rất nhiều
nội dung mới khác. Một trong những điểm mới nổi bật của BLTTDS 2015 không
thể không nhắc đến đó là các quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại của Tòa án. Đây là một vấn đề nhận được sự quan tâm rất lớn từ
phía Tòa án cũng như các chủ thể hoạt động kinh doanh thương mại. Bởi lẽ, xác
định được đúng thẩm quyền của mình, Tòa án mới có thể thụ lý đơn của đương sự,
cũng từ đó tranh chấp, yêu cầu mới được giải quyết tiếp tục theo thủ tục tố tụng dân

2



sự một cách kịp thời, có hiệu quả. Xuất phát từ thực tế nêu trên, tác giả quyết định
chọn đề tài: “Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án kinh doanh
thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Hưng Yên” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau quá trình nghiên cứu và tìm tòi, tác giả nhận thấy các vấn đề liên quan
đến giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, trong đó có nội dung về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án đã được đề cập khá
nhiều như Luận án tiến sĩ của Đào Văn Hội với đề tài “Giải quyết tranh chấp kinh
tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” [22]; Luận án tiến sĩ của Nguyễn
Thị Kim Vinh với đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con
đường Toà án ở Việt Nam” [66]; tác giả Lê Thị Thu Thuỷ với chuyên đề “Hoàn
thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế”
[48], Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Thị Ban “Giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân - Thực trạng và giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động” [4]; Luận văn Thạc sĩ Luật học“Giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự - Những vướng mắc
và giải pháp khắc phục” của Cung Mỹ Anh [1]; Luận văn Thạc sĩ Luật học của
Nguyễn Thị Thu Huyền “Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo thủ
tục sơ thẩm từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” [27]… ngoài ra
còn có các nhà khoa học viết bình luận Bộ luật tố tụng dân sự như cuốn Bình luận
khoa học bộ luật tố tụng dân sự 2015 của Bùi Thị Huyền (chủ biên) [28], cuốn Bình
luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2015 của Trần Anh Tuấn (chủ biên) [61].
Các bài viết đăng trên Tạp chí, có thể kể đến: Tạp chí nghiên cứu lập pháp,
số 2/2004; tác giả Viễn Thế Giang với chuyên đề “Giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại theo quy định BLTTDS 2004” [17]; tác giả Triệu Thị Huỳnh Hoa với
chuyên đề “Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp kinh

doanh, thương mại bằng Toà án” [20]; tác giả Vũ Thị Hồng Vân với chuyên đề “Về

3


mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp huyện trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại theo BLTTDS” [62]; tác giả Vũ Thị Hồng Vân với chuyên đề
“Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án theo
BLTTDS” [63]; tác giả Nguyễn Thị Vân Anh với chuyên đề “Một số kiến nghị liên
quan đến quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo
Điều 29 BLTTDS” [2],… Có thể thấy, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đánh
giá và chỉ ra những bất cấp trong việc phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại của Tòa án, đồng thời đưa ra những kiến nghị để khắc phục
những điểm bất cập đó. Tuy nhiên, có một điểm chung giữa các công trình nghiên
cứu đã công bố nêu trên đó là những phân tích, nhận định của các tác giả đều áp dụng
đối với BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011. Nhưng việc nghiên cứu
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án, tiếp cận từ các
quy định mới của BLTTDS 2015 thì học viên ít thấy có công trình nghiên cứu công
bố. Bên cạnh đó, bản thân là Thẩm phán công tác tại Tòa án nhân dân thành phố
Hưng Yên, qua quá trình làm công tác thực tiễn, có một số kinh nghiệm và mong
muốn góp phần nhỏ bé chỉ ra hiện trạng và nâng cao công tác xét xử tại Tòa án nhân
dân (TAND) hai cấp tỉnh Hưng Yên. Đây cũng là kinh nghiệm và giải pháp không
chỉ của riêng Hưng Yên mà rất nhiều Tòa án trên cả nước đang gặp phải.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành (BLTTDS
2015 có hiệu lực vào ngày 01/07/2016, Luật Thương mại 2005, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân 2014) về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại và thực tiễn thực hiện công tác xét xử tại Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Hưng Yên.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thứ nhất, về lý luận, luận văn sẽ nghiên cứu các vấn đề chung về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án như khái niệm, đặc
điểm, các căn cứ để phân định thẩm quyền v.v...

4


- Thứ hai, về thực trạng pháp luật, luận văn nghiên cứu các quy định pháp
luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại theo BLTTDS 2015 trong quan hệ so sánh với các quy định của
BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
- Thứ ba, về thực trạng thực hiện quy định pháp luật, luận văn sẽ đánh giá thực
tiễn thi hành pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại theo BLTTDS của BLTTDS 2015. Từ đó, đánh giá những
tác động của quy định pháp luật hình thành trong thực tiễn áp dụng, đồng thời tiếp tục
đóng góp ý kiến hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong
việc giải quyết tranh các tranh chấp kinh doanh, thương mại và những đề xuất để sớm
triển khai có hiệu quả và thực thi những quy định này trong thời gian tới.
- Ngoài ra, luận văn chỉ nghiên cứu về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong
việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại, không nghiên cứu đến các
trường hợp tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết bởi Tòa án nước ngoài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu, làm rõ các quy định mới
của BLTTDS về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa
án; đánh giá mức độ đáp ứng của các quy định mới đó đối với thực tiễn hoạt động
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án; nghiên cứu thực trạng xét
xử tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm
thực hiện có hiệu quả các quy định của BLTTDS.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn của mình, học viên sử dụng phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp phân tích (để làm rõ các quy
định mới của BLTTDS về thẩm quyền của Tòa án), phương pháp so sánh (để đối
chiếu các quy định mới với quy định cũ về thẩm quyền của Tòa án từ đó đánh giá
xem các quy định mới có những điểm tiến bộ nào, còn những vấn đề gì chưa được
khắc phục) và phương pháp xã hội học như lấy số liệu, sử dụng các kết quả thống

5


kê, phương pháp khảo sát khi đưa ra các con số và vụ việc thực tiễn. Cuối cùng,
biện pháp tổng hợp được sử dụng để làm nổi bật rõ vấn đề.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn đưa ra và đánh giá những điểm mới về thẩm quyền của Tòa án về tranh
chấp kinh doanh, thương mại được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Luận văn chỉ ra những hạn chế còn tồn tại về thẩm quyền của Tòa án về tranh
chấp kinh doanh, thương mại được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Luận văn đưa ra giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả việc xác định
thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trước hết, kết quả nghiên cứu đề tài “Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết các vụ án kinh doanh thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên” có thể được dùng để làm tài liệu tham khảo cho
các cơ quan thực thi pháp luật trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; sau đó là tạo những gợi
ý có những giá trị cho các nhà làm luật hoàn thiện hơn về hệ thống pháp luật về
thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung
gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Chương 2: Quy định pháp luật hiện hành về thẩm quyền của Tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong
giải quyết các tranh chấp về kinh doanh - thương mại và kiến nghị.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại và thẩm quyền của Tòa
án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại
Tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp kinh doanh, thương mại nói riêng
đã trở nên rất phổ biến trong đời sống xã hội. Vấn đề này không chỉ xuất hiện trong
văn bản pháp luật mà còn xuất hiện thường ngày trên các phương tiện thông tin đại
chúng cũng như trong đời sống kinh tế…
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “tranh chấp là sự giành nhau một cách giằng co
cái không rõ thuộc về bên nào. Tranh chấp cũng có nghĩa là đấu tranh, giằng co
khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề về quyền lợi giữa hai bên khi tham
gia một quan hệ pháp luật bất kỳ” [65, tr.972]. Trong khoa học pháp lý ở Việt Nam
tồn tại một số khái niệm như: tranh chấp kinh tế; tranh chấp thương mại; tranh chấp
kinh doanh, thương mại… Nhìn chung, ở một phương diện nào đó, các khái niệm
trên có cùng nội hàm.Tuy nhiên, qua từng thời kỳ, đứng trước bối cảnh kinh tế cụ
thể mà các nhà làm luật lại sử dụng những thuật ngữ khác nhau. Theo BLTTDS
2015, tranh chấp kinh doanh, thương mại đã được quy định theo hướng khái quát
hóa thay vì sử dụng phương pháp liệt kê như quy định của tại BLTTDS năm 2004

được sửa đổi, bổ sung năm 2011, cụ thể:
“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.

7


Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hoặc thành
viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức
tổ chức của công ty.
Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật” [37].
Từ những nội dung và nhận định nêu trên, có thể hiểu:Tranh chấp kinh doanh,
thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại do không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý của mình.
- Đặc điểm pháp lý của tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại thực chất là một loại tranh chấp dân sự.
Vì vậy, bên cạnh việc mang những nét đặc trưng của tranh chấp dân sự thì tranh
chấp kinh doanh, thương mại còn có những đặc điểm riêng biệt như sau:
Một là, tranh chấp kinh doanh, thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể phát sinh trong hoạt động
thương mại. Đặc điểm này nhằm giúp phân biệt với tranh chấp dân sự thông thường

bởi lẽ hoạt động thương mại gắn liền với mục đích lợi nhuận. Thông thường các
chủ thể tham gia quan hệ thương mại đều nhằm mục đích cuối cùng là lợi nhuận
nên khi hợp tác với nhau, các bên đều muốn giành được nhiều lợi ích về phía mình,
do đó mâu thuẫn phát sinh là điều không tránh khỏi.
Hai là, tranh chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu phát sinh giữa các thương
nhân (cá nhân kinh doanh, tổ chức kinh doanh) với nhau. Ngoài ra, trong những
trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng
có thể là chủ thể tranh chấp thương mại như: tranh chấp giữa công ty với thành viên
công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của

8


công ty hay tranh chấp về giao dịch giữa một bên không nhằm mục đích sinh lời với
thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên không nhằm
mục đích sinh lời đó chọn áp dụng luật thương mại. Trong khi đó, hiện nay chủ thể
của tranh chấp dân sự chủ yếu là cá nhân và pháp nhân.
Ba là, các quan hệ kinh doanh, thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản
nên nội dung tranh chấp thường phản ánh những xung đột chủ yếu liên quan đến tài
sản, liên quan tới lợi ích kinh tế các bên.
Bốn là,do hoạt động kinh doanh, thương mại là một quá trình liên tục với
nhiều công đoạn khác nhau có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Vì vậy,các tranh chấp
kinh doanh, thương mại thường rất phức tạp và thường liên quan đến nhiều ngành
nghề, nhiều chủ thể, thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến một thị trường, một quốc
gia... mà không chỉ đơn thuần là tranh chấp giữa các chủ thể đơn lẻ như trong tranh
chấp dân sự. Các tranh chấp kinh doanh, thương mại nếu không được giải quyết
một cách triệt để, kịp thời có thể gây ra những hậu quả mang tính phản ứng dây
chuyền làm đình trệ hoạt động kinh doanh, thương mại và gây tác động xấu đến lợi
ích của các chủ thể tham gia vào thương trường [30, tr.12].

Tóm lại, tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp phát sinh trong đời
sống kinh tế, xã hội, nó hội tụ đầy đủ các đặc điểm của một tranh chấp dân sự nói
chung. Tuy nhiên, tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp phát sinh trong
quá trình sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh doanh khi thực hiện hoạt động
thương mại, đòi hỏi phải có những phương thức giải quyết tranh chấp một cách
nhanh gọn, hiệu quả đáp ứng được nhu cầu của các chủ thể kinh doanh. Việc xác
định nội hàm của khái niệm “tranh chấp kinh doanh, thương mại” có ý nghĩa quan
trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong việc xác định cơ chế, thẩm
quyền, trình tự và thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
1.1.2. Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại
Về bản chất, tranh chấp kinh doanh, thương mại chính là sự xung đột về lợi
ích của các bên khi tham gia quan hệ kinh doanh, thương mại. Khi các tranh chấp

9


kinh doanh, thương mại xuất hiện có nghĩa là lợi ích kinh tế của một trong các bên
đã bị xâm phạm và sự mâu thuẫn về lợi ích này làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của chủ thể. Lúc này, vấn đề giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại được đặt ra nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể, đảm bảo sự phát triển ổn định của các quan hệ kinh tế.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là việc các bên tranh chấp
thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ những
mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích kinh tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của họ. Điều 317 Luật Thương mại 2005 quy định các hình thức giải quyết
tranh chấp trong thương mại bao gồm: Thương lượng; Hòa giải; Giải quyết tại
Trọng tài hoặc Toà án [40]. Một trong các hình thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại đang được áp dụng phổ biến nhất đó là: giải quyết tranh chấp tại
Tòa án. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án là hình thức giải

quyết thông qua hoạt động của cơ quan tài phán nhà nước, nhân danh quyền lực nhà
nước để đưa ra phán quyết, buộc các bên phải chấp hành, kể cả bằng sức mạnh
cưỡng chế. Từ khái niệm như vậy, có thể thấy việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án có một số đặc điểm:
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp của Tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt
các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng.
Thứ hai, Tòa án giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử công khai.Xét xử
công khai là nguyên tắc đặc thù trong hoạt động của Tòa án, xuất phát từ bản chất của
hoạt động xét xử là bảo vệ công lý, lẽ công bằng được nhà nước ghi nhận bằng pháp
luật, xã hội thừa nhận bằng sự tự nguyện, tuân thủ vô điều kiện. Ngoài ra, nguyên tắc
xét xử công khai của Tòa án còn có tác dụng giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của
mọi người, đồng thời răn đe, cảnh báo những hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp thông qua quyết định của Tòa án có thể
qua nhiều cấp xét xử.Hiện nay, hoạt động xét xử của Tòa án thông qua hai cấp xét
xử: sơ thẩm và phúc thẩm. Trong một số trường hợp cụ thể, các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật còn có thể xét xử thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm và tái

10


thẩm. Nguyên tắc nhiều cấp xét xử đảm bảo cho quyết định của Tòa án được chính
xác, công khai, khách quan và đúng pháp luật.
Thứ tư, các phán quyết của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng chính sức
mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Thứ năm, Tòa án giải quyết các tranh chấp theo nguyên tắc xét xử tập thể và
theo nguyên tắc đa số.
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án không chỉ góp
phần làm ổn định các quan hệ kinh tế thị trường mà còn tác động tích cực vào các
quan hệ đó, đảm bảo cho các quan hệ kinh tế này tồn tại và phát triển phù hợp với
định hướng phát triển chung của đất nước. Ngoài ra, trên thực tế, thông qua việc

giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án, Nhà nước sẽ kịp thời phát
hiện, ghi nhận những khiếm khuyết, vướng mắc của các quy định pháp luật từ đó
tiếp tục sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy định pháp luật mới nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật của nước ta, tạo dựng một môi trường pháp lý ổn định cho các chủ
thể tham gia các quan hệ kinh tế.Việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc
giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong tố tụng dân sự; xác định đúng thẩm quyền sẽ giúp các Tòa án chủ động trong
xét xử, khiến việc xét xử diễn ra một cách kịp thời, nhanh chóng, từ đó giảm thiểu
tối đa thời gian cũng như chi phí của những người tham gia tố tụng. Điều này là một
trong những yếu tố then chốt, ảnh hưởng lớn đến lợi ích của các chủ thể tham gia
hoạt động kinh doanh, thương mại.
Để có thể làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta phải làm rõ được vấn đề thẩm
quyền của của Tòa án là gì?
Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu khái niệm của thuật ngữ “thẩm quyền”.
Xét dưới góc độ ngôn ngữ, “thẩm quyền” được giải thích trong từ điển Tiếng Việt
đó là “quyền được xem xét và quyền được quyết định” [67, tr.992].
Xét dưới góc độ pháp lý, theo từ điển Luật học thì thẩm quyền là “tổng hợp
các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống
bộ máy nhà nước do pháp luật quy định” [10, tr.459].

11


Trên thực tế, khái niệm thẩm quyền gắn liền với chức năng nhiệm vụ của các
cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Trong tiếng Pháp, thẩm quyền “Compétence”
được hiểu là quyền của cơ quan nhà nước, hành chính hay tư pháp, quan chức hành
chính hay tư pháp được làm một số việc, được quyết định và ra một số văn bản về
một số vấn đề trong phạm vi được pháp luật cho phép. Trong tiếng Anh, người ta sử
dụng thuật ngữ “Jurisdistion” để chỉ quyền lực của một Tòa án để xét xử những vụ
án và vấn đề được yêu cầu [6, tr.3-8]. Mỗi cơ quan nhà nước có những chức năng

nhất định, chức năng ấy chi phối việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan
đó. Sự phân biệt giữa cơ quan này với cơ quan khác theo chức năng chính là sự
phân biệt khác nhau về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước. Từ những nghiên
cứu trên, thẩm quyền có thể được hiểu là “khả năng xem xét, giải quyết một vấn đề
của tổ chức, cá nhân trong phạm vi pháp luật quy định của pháp luật”.
Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [43]. Trong đó, Tòa án là cơ
quan thực hiện quyền tư pháp. Căn cứ vào Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
2014 thì tòa án có chức năng chính là xét xử [45]. Như vậy, Tòa án thực hiện thẩm
quyền của mình trong xét xử các vụ án vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy
định của pháp luật; để bảo vệ pháp luật, đảm bảo sự công bằng xã hội. Thuật ngữ
“thẩm quyền” lúc này không những chỉ ra phạm vi, ranh giới hoạt động của Tòa án
mà còn giúp phân biệt chức năng của Tòa án với các cơ quan nhà nước khác.Đề cập
tới thẩm quyền của Tòa án, tác giả Nguyễn Đức Mai cho rằng “Thẩm quyền của
Tòa án là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau đó
là thẩm quyền hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức thể
hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét của Tòa án (thẩm quyền xét xử và
phạm vi xét xử) còn thẩm quyền về nội dung thể hiện ở quyền hạn giải quyết, quyết
định của Tòa án đối với những vấn đề được xem xét” [32, tr.8].
Trong khoa học pháp lý, khái niệm thẩm quyền đã được nhiều tác giả nghiên
cứu và cũng có nhiều quan niệm khác nhau về thẩm quyền của Tòa án. Trong tố

12


tụng dân sự theo Lê Thị Hà thì thẩm quyền của Tòa án là: “Toàn bộ những quyền
do pháp luật quy định, theo đó Tòa án tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc
cụ thể theo quy định của pháp luật”. Trong tố tụng hình sự, Nguyễn Đức Mai quan

niệm thẩm quyền của Tòa án là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan
chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về mặt hình thức và thẩm quyền về nội dung.
Thẩm quyền về hình thức của Tòa án được thể hiện ở thẩm quyền xét xử và giới
hạn (phạm vi) xét xử của các cấp Tòa án đối với các vụ án. Thẩm quyền về nội
dung (hay quyền hạn) của Tòa án xác định Tòa án có quyền quyết định các vấn đề
cụ thể về các vụ án khi xem xét chúng. Trong Tố tụng hành chính, thẩm quyền của
Tòa án là “Phạm vi thực hiện quyền lực nhà nước của Tòa án trong việc giải quyết
các hành chính giữa một bên là công dân, tổ chức và bên kia là cơ quan công quyền
phải theo thủ tục Tố tụng hành chính nhằm đảm bảo và bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” [32].
Như vậy có thể thấy rằng, các tác giả đều thừa nhận thẩm quyền của Tòa án
bao gồm các quyền khác nhau của Tòa án khi giải quyết vụ việc đó là Tòa án sẽ xác
định cụ thể những loại vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và Tòa
án có quyền ra những quyết định gì khi giải quyết vụ việc đó.
Dựa trên những tìm hiểu và phân tích trên về thẩm quyền và thẩm quyền của
Tòa án có thể hiểu như sau: Thẩm quyền của Tòa án là quyền mà Tòa án dựa trên
các quy định của pháp luật được phép xem xét giải quyết một vụ việc cụ thể trong
các lĩnh vực khác nhau như như Hành chính, Hình sự hay Dân sự nhằm đưa các
bản án, quyết định khi giải quyết vụ việc đó.
Qua tìm hiểu khái niệm về thẩm quyền của Tòa án và khái niệm tranh chấp
kinh doanh, thương mại có thể đưa ra khái niệm thẩm quyền của Tòa án trong giải
quyết các vụ án kinh doanh thương mại trong tố tụng dân sự như sau: Thẩm quyền
của Tòa án trong giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại là quyền mà Tòa án
xem xét giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và quyền ra các quyết
định khi xem xét giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự.

13



1.2. Cơ sở pháp lý để phân định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết
các tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.2.1. Cơ sở pháp lý để phân định thẩm quyền của Tòa án và trọng tài trong giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ
quan tài phán Nhà nước thực hiện (là cơ quan công quyền). Tòa án nhân danh
quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Hoạt động xét xử của Thẩm phán tại Tòa
án là hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Thẩm quyền trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án là thẩm quyền đương nhiên theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp
“tư”, là một phương thức thay thế cho Tòa án trong những phạm vi và lĩnh vực nhất
định. Phạm vi và lĩnh vực đó do pháp luật quy định. Về bản chất, trọng tài không
phải là cơ quan công quyền, mà chỉ là tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hoạt động theo
sự “trao quyền” của các bên trên cơ sở quy định của pháp luật. Nói là trao quyền là
bởi vì, bên cạnh việc tuân thủ pháp luật, trọng tài viên khi giải quyết tranh chấp phải
tuân thủ thỏa thuận của các bên có tranh chấp mà việc không tuân thủ cả hai khía
cạnh này đều có thể dẫn đến làm hỏng việc trọng tài. Đặc trưng “tư” và hoạt động
trong khuôn khổ thỏa thuận của các bên khiến cho trọng tài khác hoàn toàn với yếu
tố “công”. Điều khác biệt cơ bản nhất ở đây là trọng tài không có thẩm quyền
đương nhiên như Tòa án mà thẩm quyền của họ được xác lập theo một thỏa thuận
trọng tài có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận theo quy định của Luật Trọng tài thương
mại. Không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc trọng tài.
Như vậy, cơ sở pháp lý để phân định thẩm quyền của Tòa án và trọng tài
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại dựa vào các quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự và Luật Trọng tài thương mại.

14



* Về thẩm quyền của trọng tài: Căn cứ vào Luật thương mại thì thẩm quyền
của trọng tài được xác định trên cơ sở pháp luật quy định tranh chấp đó được giải
quyết bằng Trọng tài; Về điều kiện (Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu
các bên có thỏa thuận trọng tài).
Luật trọng tài thương mại quy định tại các Điều 2, Điều 5, Điều 6 [42].
Điều 2. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng Trọng tài”.
Điều 5. Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
“1. Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng
tài.Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
2. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất
năng lực hành vi, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người
đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
3. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm
dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi
hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận
quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
Điều 6. Tòa án từ chối thụ lý trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài
“Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một
bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận
trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
* Thẩm quyền của Tòa án: Thẩm quyền theo loại việc được quy định tại các
điều sau của Bộ luật tố tụng dân sự: Điều 30 (Những tranh chấp về kinh doanh,


15


thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án), thẩm quyền theo cấp Tòa án
(Điều 35, Điều 37) và Thẩm quyền theo Lãnh thổ quy định tại Điều 39 [46].
Ngoài ra, Điều 7, Điều 18 Luật trọng tài thương mại cũng xác định các
trường hợp sau thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án [42]:
Điều 7. Xác định Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài
“1. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận lựa chọn một Tòa án cụ thể thì
Tòa án có thẩm quyền là Tòa án được các bên lựa chọn.
2. Trường hợp các bên không có thỏa thuận lựa chọn Tòa án thì thẩm quyền
của Tòa án được xác định như sau:
a) Đối với việc chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ
việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là cá
nhân hoặc nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức. Trường hợp có nhiều bị
đơn thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của một trong
các bị đơn đó.
Trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở ở nước ngoài thì Tòa án có
thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn;
b) Đối với việc thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa
án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp;
c) Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về
thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng
trọng tài ra quyết định;
d) Đối với yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì Tòa án có thẩm quyền là
Tòa án nơi có chứng cứ cần được thu thập;
đ) Đối với yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án
có thẩm quyền là Tòa án nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng;
e) Đối với việc triệu tập người làm chứng thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa

án nơi cư trú của người làm chứng;

16


g) Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ
việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết
trọng tài;
3. Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Điều 18. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu
“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
3. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều
16 của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập
thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”.
Do đó, Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại thì Tòa án yêu cầu một hoặc các bên
cho biết tranh chấp đó các bên có thỏa thuận trọng tài hay không. Tùy từng trường
hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:
- Trường hợp tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc đã có bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định, phán quyết có hiệu lực
pháp luật của Trọng tài xác định vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài thì Tòa
án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.

- Trường hợp tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài
không thuộc trường hợp quy định tại Điều 18 Luật trọng tài thương mại thì Tòa án

17


×