Tải bản đầy đủ (.doc) (191 trang)

Hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ ở bộ an ninh nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.06 KB, 191 trang )

BỘGIÁO DUCC̣ VÀĐÀO TAO

HOC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

̀

HÔCHÍMINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

SONTHAVIXAY HER

HIỆU QUẢ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƢ
TƢỞNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SĨ Ở BỘ AN
NINH NHÂN DÂN LÀO

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CÔNG TÁC TƢ TƢỞNG

HÀ NỘI - 2019


BỘGIÁO DUCC̣ VÀĐÀO TAO

HOC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

̀

HÔCHÍMINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

SONTHAVIXAY HER


HIỆU QUẢ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƢ
TƢỞNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SĨ Ở BỘ AN
NINH NHÂN DÂN LÀO
Chuyên ngành
Mã số

: Công tác tƣ tƣởng

:

9310201

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CÔNG TÁC TƢ TƢỞNG

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. HOÀNG QUỐC BẢO
2. TS. LƢƠNG NGỌC VĨNH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, tư liệu trong luận án đều được khai
thác từ các tài liệu có nguồn gốc rõ ràng; những phát
hiện, đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác
giả luận án.
Tác giả luận án


Sonthavixay Her


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Trang
1
8

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Về khái niệm giáo dục chính trị - tư tưởng
1.2. Về khái niệm hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục
chính trị - tư tưởng
1.3. Về hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ lực
lượng an ninh
1.4. Thành tựu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Chƣơng 2: HIỆU QUẢ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƢ TƢỞNG CHO
CÁN BỘ, CHIẾN SĨ LỰC LƢỢNG AN NINH NHÂN DÂN LÀO - MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. Giáo dục chính trị - tư tưởng và giáo dục chính trị - tư tưởng cho
cán bộ, chiến sĩ lực lượng an ninh nhân dân Lào
2.2. Hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ lực
lượng An ninh nhân dân Lào
2.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng
cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng an ninh nhân dân Lào

Chƣơng 3: HIỆU QUẢ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƢ TƢỞNG CHO
CÁN BỘ, CHIẾN SĨ Ở BỘ AN NINH NƢỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Khái lược về Bộ An ninh và đặc điểm của cán bộ, chiến sĩ đang
công tác tại Bộ An ninh nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
3.2. Thực trạng hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ,
chiến sĩ ở Bộ An ninh Lào từ năm 2012 đến nay
3.3. Những vấn đề đặt ra với việc nâng cao hiệu quả giáo dục chính
trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ ở Bộ An ninh Lào
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƢ TƢỞNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SĨ Ở BỘ
AN NINH NHÂN DÂN LÀO

4.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng
cho cán bộ, chiến sĩ ở Bộ An ninh nhân dân Lào
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng cho
cán bộ, chiến sĩ ở Bộ An ninh nhân dân Lào

8
16
23
26
31
31
40
52
62
62
69

97
103
103

KẾT LUẬN

113
147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

149
150
159


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Trình độ nhận thức của hạ sỹ quan, chiến sỹ về CNMLN, tư
tưởng Cay Xỏn Phôm Vy Hẳn.................................................................................................. 72
Biểu đồ 2.2. Biểu đồ đánh giá nhận thức của cán bộ, sỹ quan và hạ sỹ quan,
chiến sỹ về mức độ thiết thực của việc học tập lý luận chính trị........................... 72
Biểu đồ 2.3. Mức độ ghi nhớ nội dung học chính trị trong năm 2017 của hạ sỹ
quan, chiến sỹ..................................................................................................73
Biểu đồ 2.4. Biểu đồ thể hiện sự hứng thú của cán bộ, sỹ quan khi học tập
Nghị quyết của Đảng.......................................................................................75
Biểu đồ 2.5. Biểu đồ thể hiện mức độ tin tưởng vào tính khả thi của các Nghị
quyết của Đảng................................................................................................................................. 75

Biểu đồ 2.6. Đánh giá niềm tin của cán bộ, sỹ quan về tương lai phát triển của
đất nước...........................................................................................................77
Biểu đồ 2.7. Thể hiện nhận thức sự cần thiết của cán bộ, sỹ quan về giáo dục
niềm tin, lý tưởng hiện nay............................................................................. 78
Biểu đồ 2.8. Thái độ của hạ sỹ quan, chiến sỹ đối với tương lai của đất nước
trước những hiện tượng tiêu cực xã hội..........................................................82


BBT

:

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ban Bí thư

BCHTU

:

Ban Chấp hành Trung ương

BCT

:

Bộ Chính trị

CHDCND

:


Cộng hòa dân chủ nhân dân

CNMLN

:

Chủ nghĩa Mác - Lênin

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

ĐCS

:

Đảng Cộng sản

GDCT-TT

:

Giáo dục chính trị - tư tưởng

NDCM

:


Nhân dân cách mạng

TTHCM

:

Tư tưởng Hồ Chí Minh

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
GDCT-TT là một hoạt động cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng
nhân dân cách mạng Lào. Với mục tiêu chính là xây dựng thế giới quan, nhân
sinh quan cách mạng và niềm tin cộng sản, GDCT-TT giữ vị trí quan trọng
hàng đầu trong công tác tư tưởng của Đảng. Đối với lực lượng an ninh,
GDCT-TT là nhân tố quyết định bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ luôn trung
thành tuyệt đối với Đảng NDCM Lào, với Nhà nước CHDCND Lào và với
nhân dân các bộ tộc Lào, luôn có ý chí cách mạng kiên cường, quyết tâm sắt
đá, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ chuyên môn vững vàng, sẵn
sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao phó. Trong GDCT-TT, hiệu quả là yếu tố cấu thành, là sản
phẩm cuối cùng phản ánh mức độ sự tác động của chủ thể tới đối tượng. Nếu

GDCT-TT không quan tâm tới hiệu quả thì rất dễ nảy sinh “bệnh hình thức”,
và “bệnh thành tích”, ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của cán bộ, đảng
viên và nhân dân đối với Đảng, đến sự sống còn của Đảng và chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Qua hơn nửa thế kỷ xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng An
ninh nhân dân không quản ngại khó khăn, gian khổ, luôn nêu cao tinh thần tận
tụy, quên mình, sẵn sàng xả thân vì nước, vì dân, lấy lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân làm mục tiêu, lý tưởng cao nhất để phấn đấu; chiến công nối tiếp chiến công
của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ an ninh đã bồi đắp nên truyền thống vẻ vang của
lực lượng an ninh nhân dân Lào. Có được điều đó là nhờ Đảng ủy An ninh nhân
dân và Bộ An ninh nhân dân luôn nhận thức được tầm quan trọng của GDCT-TT
cho cán bộ, chiến sĩ an ninh có ý nghĩa hết sức quan trọng, quyết định nâng cao
chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng an ninh. Trong những
năm qua, Đảng ủy An ninh Trung ương và Bộ An ninh nhân dân Lào đã có nhiều
chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tăng


2
cường GDCT-TT, nhất là tập trung thực hiện có hiệu quả các mặt công tác trọng
tâm, đột phá, qua đó tạo những chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị và xây dựng lực lượng an ninh. Trật tự, kỷ cương ngày càng được
siết chặt, tinh thần trách nhiệm và hiệu quả các mặt công tác được nâng lên. Nhờ
quan tâm đến hiệu quả nên GDCT-TT đã tạo được sự chuyển biến sâu sắc trong
nhận thức cũng như việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước,
chỉ thị, mệnh lệnh, kỷ luật, kỷ cương, thực hiện quy chế, quy trình công tác, tư
thế, lễ tiết tác phong, nếp sống văn hóa của cán bộ, chiến sĩ an ninh. GDCT-TT
đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu xây dựng lực lượng an ninh cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình,
ổn định góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


Bộ An ninh nhân dân (sau đây viết gọn là Bộ An ninh) là cơ quan quản
lý nhà nước cấp chiến lược thuộc chính phủ nước CHDCND Lào có chức
năng, nhiệm vụ chính là quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội;
phản gián; điều tra phòng chống tội phạm; phòng cháy chữa cháy và cứu hộ;
thi hành án hình sự, thi hành án không phải phạt tù, tạm giữ, tạm giam; bảo
vệ, hỗ trợ tư pháp; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ và là cơ quan quản lý lực lượng an
ninh nước CHDCND Lào. Để hoàn thành sứ mệnh bảo vệ an ninh quốc gia
trong các thời kỳ cách mạng, Bộ An ninh phải tiến hành đồng bộ nhiều mặt
công tác, trong đó GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ cơ quan Bộ luôn giữ một vị
trí hết sức quan trọng. GDCT-TT không chỉ làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ có
động cơ đúng đắn, tích cực, tự giác trong thực hiện nhiệm vụ mà còn là hoạt
động bồi dưỡng niềm tin, lòng trung thành với Đảng của người cán bộ, chiến
sĩ an ninh. Vì vậy, nâng cao hiệu quả GDCT TT cho cán bộ, chiến sĩ Bộ An ninh không chỉ để hoàn thành nhiệm vụ chính
trị của cơ quan Bộ, mà còn góp phần tăng cường sức mạnh chính trị


3
của toàn lực lượng an ninh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài
của cách mạng Lào.
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của GDCT-TT, những năm qua, Cơ
quan Bộ An ninh luôn chú trọng và tiến hành nhiều biện pháp để nâng cao
hiệu quả GDCT -TT cho cán bộ , chiến sĩ . Những kết quả đạt được đã góp
phần quan trọng giúp Bộ An ninh hoàn thành tốt nhiệm vụ là cơ quan chiến
lược của Đảng và Nhà nước trong bảo vệ an ninh quốc gia và xây dựng đơn vị
vững mạnh toàn diện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hiệu
quả GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ vẫn chưa tương xứng với mục đích đề ra
và sự đầu tư về công sức, kinh phí, cơ sở vật chất, thời gian của Bộ. Trong quá
trình thực hiện GDCT-TT ở một số đơn vị còn có tình trạng chạy theo thành

tích, “bệnh hình thức”, đối phó, chưa chú trọng đến hiệu quả. Nhận thức chính
trị, niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tính tự giác trong hoạt động
chính trị của cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế. Bên cạnh đó, sự nghiệp xây dựng
lực lượng an ninh trong thời kỳ cách mạng mới và sự chống phá quyết liệt của
các thế lực thù địch đòi hỏi hiệu quả GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng
an ninh nói chung, trong cán bộ, chiến sĩ cơ quan Bộ nói riêng phải được nâng
lên một tầm cao mới.
Nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, tiêu chí, quan điểm, phương pháp
đánh giá hiệu quả; thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả GDCT-TT
cho cán bộ, chiến sĩ cơ quan Bộ An ninh là vấn đề cấp thiết không chỉ có ý
nghĩa thiết thực với cơ quan Bộ An ninh mà còn góp phần bổ sung, hoàn thiện
lý luận về hiệu quả GDCT-TT của Đảng NDCM Lào.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của vấn đề nghiên cứu, luận án đề xuất quan điểm và một số giải pháp nâng
cao hiệu quả GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ cơ quan Bộ An ninh nước
CHDCND Lào trong thời gian tới.


4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả
GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng an ninh nhân dân.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ ở Bộ An
ninh những năm gần đây và xác định những vấn đề cần giải quyết.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp nâng cao hiệu quả GDCT-TT
cho cán bộ, chiến sĩ ở Bộ An ninh nước CHDCND Lào hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ cơ
quan Bộ An ninh.

- Phạm vi nghiên cứu: GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ đang công tác tại Cơ
quan Bộ An ninh nước CHDCND Lào. Thời gian khảo sát từ năm 2012 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sởlýluân
- Luận án dựa trên cơ sở những nguyên lý của CNMLN, tư tưởng Cay
Xỏn Phôm Vi Hẳn; các quan điểm của Đảng NDCM Lào về GDCT-TT nói
chung và GDCT-TT cho lực lượng an ninh nói riêng; các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, luật pháp của Nhà nước CHDCND Lào; tiếp thu, kế thừa có chọn
lọc kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học của Nước CHDCND Lào,
Việt Nam và các nước có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luâṇ án sử dungC̣ phương pháp luâṇ duy vâṭbiê C̣ n chứng vàduy vâṭlich
sử và phương pháp nghiên cứu liên ngành của các khoa học: Chính trị học,
Giáo dục học, Xã hội học, Tâm lý học trong đó các phương pháp của Chính trị
học là chủ đạo.
Các phương pháp cụ thể: lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, so
sánh đối chiếu, hệ thống, quy nạp, diễn dịch, thống kê, nghiên cứu tài liệu,
quan sát thực tiễn...


5
- Phương pháp lịch sử và logic: Mọi sự vật, hiện tượng đều đặt trong
bối cảnh lịch sử cụ thể, gắn với hoàn cảnh chung của đất nước, khu vực và
quốc tế. Sử dụng những tư liệu, dữ kiện lịch sử, chọn lọc những trường hợp
điển hình để hệ thống hóa, mô hình hóa sự kiện. Đồng thời, các sự vật, hiện
tượng phải đặt trong quá trình vận động và phát triển theo quy luật khách
quan, trong mối liên hệ, tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng liên quan.
Phương pháp lôgic và lịch sử còn được dùng để khái quát hóa các vấn đề
nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước theo các chủ đề, vấn đề xác định và

trình bày theo thời gian công bố các công trình nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích: Đây là những phương pháp được
sử dụng để thu thập và đánh giá các nguồn tài liệu, khai thác thông tin từ các
nguồn có sẵn, bao gồm các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các báo cáo
định kỳ và báo cáo chuyên đề của Bộ An ninh, các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước liên quan đến đề tài. Về hiệu quả GDCT-TT, luận án đã
sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thu thập được và phiếu điều tra xã hội
học trong diện khảo sát. Phân tích nội dung được áp dụng cho cả định lượng
và định tính.
- Phương pháp so sánh: So sánh, đối chiếu giữa mục đích với kết quả,
giữa kết quả với việc huy động nguồn lực huy động cho GDCT-TT, từ đó
đánh giá những ưu điểm, hạn chế của từng hình thức, phương pháp GDCTTT. Đồng thời, tác giả so sánh, nhận xét quan điểm của các tác giả trong nước
với các tác giả ngoài nước về các vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp hệ thống cho phép xem xét nghiên cứu các vấn đề trong
tổng thể chung, trong mối liên hệ, tương tác với các sự vật, hiện tượng khác
trong hệ thống. Theo đó, với phương pháp này, vấn đề nghiên cứu là hiệu quả
GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ Bộ An ninh cần được đặt trong quan hệ đối
chứng với hiệu quả GDCT-TT cho cán bộ, đảng viên nói chung và cho cán bộ,
chiến sĩ lực lượng an ninh nói riêng; trong quan hệ biện chứng với sự tác


6
động của nhiều yếu tố: yếu tố truyền thống, yếu tố thời đại, yếu tố trong nước,
yếu tố quốc tế, các yếu tố khách quan và chủ quan…
- Các phương pháp quy nạp và diễn dịch được dùng để làm rõ các vấn
đề về nội dung, phương pháp, hình thức GDCT-TT.
- Phương pháp thống kê dùng để thống kê tài liệu, con số, sự kiện, dữ
liệu... có được trong quá trình nghiên cứu, thu thập thông tin.
Các phương pháp thu thập và xử lý thông tin
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập, sắp xếp các nguồn tài liệu

trong nước và quốc tế liên quan đến đề tài, từ những quan điểm, lý thuyết đến
các số liệu thống kê, các công trình khoa học, phân tích làm rõ các vấn đề liên
quan đến cơ sở lý luận, phương pháp luận và những vấn đề thực tiễn mà đề tài
đặt ra. Do số lượng phiếu điều tra ghạn chế, tác giả sử dụng phương pháp
truyền thống để xử lý thông tin thu thập được.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận án
- Góp phần xây dựng và hoàn thiện khái niệm và bộ tiêu chí đánh giá
hiệu quả GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng an ninh.
- Chỉ ra được hạn chế và một số vấn đề đặt ra cần giải quyết trong việc
nâng cao hiệu quả GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ ở Bộ An ninh nước
CHDCND Lào trong tình hình hiện nay.
- Đề xuất được quan điểm và các giải pháp dưới góc độ khoa học công
tác tư tưởng để nâng cao hiệu quả GDCT-TT.
7. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án
- Kết quả nghiên cứu góp phần gia tăng tri thức về hiệu quả GDCT-TT
nói riêng và hiệu quả công tác tư tưởng nói chung.
- Cung cấp luận cứ khoa học cho lãnh đạo, chỉ huy Bộ An ninh đề ra
quan điểm, biện pháp nâng cao hiệu quả GDCT-TT cho cán bộ, chiến sĩ cơ
quan Bộ.
- Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu nghiệp vụ cho cán bộ
chính trị Bộ An ninh; làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học


7
tập chuyên ngành an ninh, chính trị ở các trường an ninh Lào và chuyên
ngành công tác tư tưởng ở các học viện, trường đại học Việt Nam.
8. Kết cấu của Luận án
Luận án được cấu trúc gồm: mở đầu, 4 chương, 13 tiết, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.



8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Là một hoạt động quan trọng của công tác tư tưởng, GDCT-TT được
nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, người làm công tác chính trị ở Việt Nam,
Lào và các nước nghiên cứu ở các mức độ khác nhau. Trên cơ sở khảo cứu
các công trình liên quan đến GDCT-TT, có thể khái quát thành các vấn đề cơ
bản như sau:
1.1. Về khái niệm giáo dục chính trị - tƣ tƣởng
Giáo dục chính trị - tư tưởng là thuật ngữ được nhiều ngành khoa học
sử dụng như: xây dựng Đảng, chính trị học, giáo dục học, tâm lý học quân
sự...Tuỳ theo tính chất, đặc điểm, mục đích, yêu cầu nghiên cứu mà có cách
tiếp cận khác nhau.
Trước khi Liên Xô sụp đổ, có nhiều công trình, tài liệu về công tác tư
tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô được được dịch sang tiếng Việt, như:
“Phương pháp luận công tác tư tưởng” của D.A. Vôn-cô-gô-nốp [13, tr.190],
“Hình thành niềm tin cho thế hệ trẻ” của V.A.Xu-khôm-lin-xki [62, tr.195],
“Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô” của X.I.Xu-rơ-ni-tren-cô
[tr.196]… Các công trình này sử dụng thuật ngữ giáo dục chính trị - tư tưởng
để chỉ hoạt động truyền bá nôịdung về chính trị, nhưng chưa luận bàn về khái
niệm. Cuốn “Từ điển bách khoa quân sự Xô - Viết” (tiếng Nga) đã đưa ra một
định nghĩa: “Giáo dục chính trị - tư tưởng trong các lực lượng vũ trang là hệ
thống các biện pháp nhằm hình thành cho sĩ quan và chiến sĩ có đủ trình độ
tư tưởng và sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu để giành chiến
thắng trong chiến tranh” [xem 57, tr.10]. Cuốn “Công tác đảng - Chính trị
trong lực lượng vũ trang Xô - Viết” đề cập khá rõ mục đích của GDCT-TT là
hình thành giác ngộ chính trị cao và niềm tin cộng sản vững chắc cho quân
nhân. Nội dung của nó là “Chủ nghĩa Mác - Lênin, chính sách, nghị quyết của



9
Đảng Cộng sản Liên Xô, những thành tựu trong xây dựng CNXH, truyền
thống cách mạng của Đảng, lực lượng an ninh và nhân dân; tình hữu nghị
giữa các dân tộc và các nước XHCN anh em; tình hình thời sự chính trị quốc
tế và hoạt động đối ngoại của Đảng, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù…” [7,
tr.65-66]. Cuốn “Đảng lãnh đạo lực lượng an ninh của lực lượng an ninh
Liên Xô, Cu-ba, CHDC Đức, Triều Tiên” khẳng định, một trong những nhiệm
vụ hàng đầu của tổ chức Đảng và cơ quan chính trị các cấp trong lực lượng an
ninh các nước XHCN đều phải giáo dục CNMLN, đường lối quan điểm của
Đảng, “làm cho các chiến sĩ trong công tác của họ tin tưởng tuyệt đối Đảng,
vào những nghị quyết của Đảng và trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin,
giáo dục bản chất cách mạng của người lính xã hội chủ nghĩa, ý thức giai
cấp, ý thức dân tộc và tinh thần chiến đấu độc lập” [17, tr.42].
Những năm gần đây, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều công trình về công
tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc ... Theo bản dịch tiếng Việt, các
nhà nghiên cứu Trung Quốc chỉ sử dụng một thuật ngữ duy nhất là công tác
giáo dục chính trị tư tưởng. Trong các tác phẩm này, tác giả đã chỉ ra những
đặc trưng cơ bản của GDCT-TT. Trong cuốn sách Tu dưỡng đạo đức tư tưởng
(bản dịch tiếng Việt), các nhà khoa học Trung Quốc sử dụng cả 02 cách trình
bày thuật ngữ là: GDCTTT (không có dấu gạch ngang) và giáo dục tư tưởng
[18, tr.32], tuy nhiên, thuật ngữ GDCTTT được dùng phổ biến hơn. Trong
cuốn giáo trình “Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới” của Cục
cán bộ, Ban Tuyên huấn Trung ương, Đảng Cộng sản Trung Quốc, các tác giả
coi giáo dục niềm tin vào lý tưởng là nội dung cốt lõi; giáo dục lý luận cơ
bản, đường lối cơ bản, cương lĩnh cơ bản của Đảng, chủ nghĩa yêu nước, chủ
nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội là n ội dung hàng đầu của công tác chính trị
tư tưởng [8, tr.226-270]. Trong Tạp chí Cầu thị (Trung Quốc) năm 2009, tác
giả Lý Vĩnh Thắng có bài viết “Giáo dục chính trị tư tưởng là linh hồn của

giáo dục phẩm chất”. Bài báo này coi giáo dục chính trị tư tưởng là linh


10
hồn của giáo dục phẩm chất con người. Mục đích của hoạt động này là hình
thành phẩm chất chính trị tư tưởng, yếu tố “về căn bản quyết định lý tưởng,
đức tin, phẩm chất đạo đức và phương thức hành vi của nó” [48, tr.2]. Giáo
trình “Công tác chính trị của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc” dùng
trong các học viện, nhà trường trong thời kỳ mới, của Nxb Đại học Quốc
phòng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, năm 1986 [41] coi công tác
giáo dục tư tưởng là một hoạt động quan trọng của công tác chính trị trong
quân đội với ba nội dung cơ bản là: giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác và “bốn
nguyên tắc” cơ bản; giáo dục những vấn đề cơ bản xây dựng hiện đại hoá
CNXH Trung Quốc và xây dựng hiện đại hoá, chính quy hoá quân đội cách
mạng; giáo dục chính trị tư tưởng thường xuyên. Trong đó, nội dung giáo dục
chính trị tư tưởng thường xuyên gồm: giáo dục nhiệm vụ và tình thế, phẩm
chất đạo đức, truyền thống, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, pháp chế và dân chủ XHCN, kỷ luật tổ chức…
Các nước phương Tây không có thuật ngữ GDCT-TT nhưng trên mạng
internet, có thể tìm thấy các tài liệu đề cập đến hoạt động tuyên truyền chính trị
bằng tiếng Anh, như: “Propaganda” [105], “What are Tool of Propaganda?”
[103 “Propaganda in NaZi Germany” [104]… Trong số tài liệu này, các học giả
phương Tây sử dụng phổ biến thuật ngữ tuyên truyền (propaganda) hoặc tuyên
truyền chính trị (political propaganda) để chỉ hoạt động truyền bá các nội dung
liên quan đến việc giành, giữ chính quyền của các đảng phái chính trị. Trong đó,
mục đích của tuyên truyền chính trị là nhằm thay đổi quan điểm và hành vi của
đối tượng, từ chỗ phản đối, thờ ơ đến việc ủng hộ cương lĩnh, đường lối, chính
sách của đảng tranh cử hoặc đảng cầm quyền.

Như vậy, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài tuy tên gọi khác nhau

nhưng đều khẳng định công tác tư tưởng có một hoạt động hướng vào xây
dựng niềm tin, lý tưởng chính trị với nội dung truyền bá chủ yếu là tri thức về
lĩnh vực chính trị theo nghiã rôngC̣ nhất của từ này.


11
Các công trình của các tác giả Việt Nam về công tác tư tưởng có số
lượng khá lớn, nội dung đa dạng, hình thức phong phú. Mỗi tác giả, mỗi công
trình, tài liệu, bài viết về công tác tư tưởng tuy có cách tiếp cận, phạm vi, mức
độ, lĩnh vực nghiên cứu khác nhau nhưng ít nhiều đều đề cập đến hoạt động
truyền bá nội dung chính trị. Nhìn chung, các tác giả sử dụng đồng thời các
thuật ngữ nêu trên, trong đó thuật ngữ công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có
xu hướng được sử dụng phổ biến hơn. Thuật ngữ công tác giáo dục chính trị
chủ yếu được sử dụng trong quân đội. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng nhìn
chung nội hàm của chúng là tương đối giống nhau.
Trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, tên gọi hoạt động này
cũng có sự khác nhau. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X
và lần thứ XI [15, tr.161] đều dùng thuật ngữ công tác giáo dục chính trị tư
tưởng. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá
XI sử dụng thuật ngữ công tác giáo dục chính trị, tư tưởng [xem 16, tr.35] nhưng
đến Văn kiện Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá
XII lại sử dụng thuật ngữ công tác giáo dục chính trị tư tưởng.
Trong cuốn “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên cơ sở”, tác giả Vũ Ngọc Am đưa ra định nghĩa: công tác giáo dục
chính trị tư tưởng là “quá trình tổ chức giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân đến với quần chúng nhân dân, thực chất là quá trình truyền bá,
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối,
quan điểm và những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân” [1, tr.22]. Theo tác giả, “công tác giáo dục
chính trị tư tưởng thuộc hình thái của công tác tuyên truyền, một trong ba hình

thái của công tác tư tưởng” [1, tr.22]. Mục đích của công tác giáo dục chính trị
tư tưởng là truyền bá, giáo dục CNMLN-TTHCM, đường lối, quan điểm của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm cho hệ tư tưởng trở thành hệ tư tưởng chi
phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, giúp cho cán bộ, đảng viên và


12
nhân dân xây dựng thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn, khắc phục
những tư tưởng lạc hậu, nâng cao nhận thức chính trị, ngày càng nắm chắc và
biết vận dụng vào thực tế cuộc sống, thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ
chính trị; cổ vũ, động viên khơi dậy nhiệt tình cách mạng, tinh thần tự giác và
tính tích cực trong quá trình cải tạo, xây dựng xã hội mới XHCN.
Cuốn giáo trình “Nguyên lý công tác tư tưởng”, tập 1, do tác giả Lương
Khắc Hiếu chủ biên, coi GDCT-TT là một hoạt động của công tác tư tưởng và
chỉ rõ sự khác biệt giữa GDCT-TT với các hoạt động giáo dục tư tưởng khác
chính là ở nội dung của nó. Tương ứng với lĩnh vực hoạt động thực tiễn nào
có tư tưởng về lĩnh vực ấy, vì vậy nội dung giáo dục tư tưởng rất rộng, bao
gồm: giáo dục thế giới quan khoa học, GDCT-TT, giáo dục đạo đức, giáo dục
kinh tế, giáo dục lao động…Trong đó, GDCT-TT là một nội dung cơ bản vì
chức năng của nó là: “trang bị cho nhân dân lao động một hệ thống những
kiến thức về lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó hình thành ý
thức giác ngộ chính trị, hình thành những quan niệm, quan điểm đúng đắn về
các vấn đề chính trị, mà quan trọng nhất là hiểu rõ và nắm vững đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân” [24,
tr.183]. Mục đích của GDCT-TT là hình thành văn hoá chính trị cho nhân dân
lao động. Cấu trúc văn hoá chính trị ở cấp độ cá nhân bao gồm tri thức chính
trị, niềm tin chính trị và tính tích cực chính trị - xã hội. Nội dung GDCT-TT
bao hàm: hệ thống tri thức chính trị mà cốt lõi là CNMLN-TTHCM, đường
lối, chính sách của Đảng; truyền thống chính trị và những giá trị chính trị
được đúc kết trong lịch sử; lý tưởng chính trị của giai cấp, dân tộc, niềm tin

vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo; giáo dục bản lĩnh, sự nhạy bén
chính trị và đấu tranh khắc phục sự mơ hồ về chính trị; giáo dục tính tích cực
chính trị - xã hội, đấu tranh chống sự thụ động và thói thờ ơ chính trị…Kết
quả nghiên cứu này đã phân biệt khá rõ mục đích, nội dung của GDCT-TT với
các hoạt động khác của công tác tư tưởng.


13
Cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ quân sự” sử dụng thuật ngữ giáo
dục chính trị - tư tưởng và cho rằng: “giáo dục chính trị - tư tưởng, quá trình
tác động liên tục, có cơ sở khoa học, có định hướng vào đối tượng giáo dục
nhằm bồi dưỡng cho họ khả năng nhận thức chính trị đúng đắn, thái độ chính
trị phù hợp với quan điểm cách mạng, tinh thần kiên định đấu tranh vì chủ
nghĩa xã hội” [9, tr.259]. GDCT-TT là một nội dung cơ bản trong việc đào
tạo, rèn luyện quân nhân cách mạng, được tiến hành một cách thường xuyên,
có hệ thống đối với mỗi quân nhân trong suốt quá trình tại ngũ, bằng huấn
luyện chính trị theo các chương trình phù hợp với từng cấp quân nhân, bằng
công tác tuyên truyền và vận động chính trị và bằng sinh hoạt tập thể trong
lực lượng an ninh.
Luận án tiến sĩ tâm lý học “Những điều kiện tâm lý sư phạm nâng cao
hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân ở đơn vị cơ sở”, tác giả
Cao Xuân Trung quan niệm: chính trị - tư tưởng là hệ thống các quan niệm, quan
điểm, hệ tư tưởng của giai cấp, nhà nước, các lực lượng xã hội về các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra khái niệm “ giáo dục chính trị tư tưởng cho quân nhân là hoạt động có mục đích, có tổ chức và bằng phương
pháp khoa học của người giáo dục tác động vào nhận thức, tình cảm, ý chí của
quân nhân nhằm hình thành, phát triển ở họ thế giới quan, lý tưởng, niềm tin,
phẩm chất chính trị - tư tưởng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của Đảng,
của lực lượng an ninh trong từng giai đoạn cách mạng” [56, tr.30].

Tác giả Nguyễn Văn Cần trong luận án tiến sĩ Triết học “Nâng cao chất

lượng giáo dục chính trị - tư tưởng trong lực lượng an ninh trước yêu cầu
mới của cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta hiện nay”, đã đưa ra định nghĩa:
Giáo dục chính trị - tư tưởng trong lực lượng an ninh là quá trình tác
động có mục đích, có tổ chức, có hệ thống của Đảng vào ý thức của cán bộ,
chiến sĩ để truyền bá những tư tưởng chính trị cơ bản, cốt lõi là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp


14
luật của Nhà nước, làm cho chúng thấm sâu, chiếm vị trí thống trị tuyệt đối
trong đời sống tinh thần, định hướng suy nghĩ và hành động của cán bộ,
chiến sĩ; xây dựng cho họ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, bản
lĩnh chính trị vững vàng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; bồi dưỡng cho
họ năng lực thực hiện những tư tưởng chính trị của Đảng trong chiến đấu và
mọi hoạt động chính trị xã hội khác; tập hợp, đoàn kết, động viên, cổ vũ họ
hành động tích cực, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, góp phần củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong
lực lượng an ninh [5, tr.11].
Theo tác giả, GDCT-TT trong lực lượng an ninh là hoạt động đấu tranh
tư tưởng của cấp uỷ, chỉ huy các cấp để xác lập vị trí thống trị tuyệt đối của
CNMLN-TTHCM trong đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ; bồi dưỡng,
rèn luyện cho quân nhân thế giới quan khoa học, bản lĩnh chính trị vững vàng,
đạo đức, lối sống cách mạng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Có một cách tiếp cận khác là nghiên cứu công tác tư tưởng dưới góc độ
thực tiễn, gắn với chức trách, nhiệm vụ của người chính uỷ, chính trị viên.
“Giáo trình công tác đảng, công tác chính trị” do TCCT Quân đội nhân dân
Việt Nam xuất bản dùng trong các nhà trường quân đội sử dụng thuật ngữ
công tác giáo dục chính trị để chỉ các hoạt động “truyền bá lý luận MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ của lực lượng an ninh, đơn vị và những giá
trị chuẩn mực đạo đức cách mạng, những kiến thức văn hoá - xã hội, lịch sử

truyền thống của Đảng, của dân tộc, của lực lượng an ninh, của đơn vị” [55,
tr.314]. Công trình này coi giáo dục chính trị, tư tưởng là một hình thức của
công tác giáo dục chính trị, bao gồm các hình thức cụ thể là học tập chính trị,
sinh hoạt chính trị tư tưởng và nghiên cứu chuyên đề của sĩ quan.
Luận án tiến sĩ chính trị học, chuyên ngành công tác tư tưởng của
Lương Ngọc Vĩnh về “Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong


15
học viên các học viện quân sự hiện nay” đưa ra khái niệm: “Công tác GDCTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của công tác tư tưởng nhằm
truyền bá CNMLN-TTHCM, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật Nhà nước, các tri thức và giá trị chính trị của nhân loại, những
truyền thống chính trị của giai cấp công nhân và dân tộc, những sự kiện
chính trị trong nước và quốc tế…để nâng cao nhận thức chính trị, hình thành
niềm tin và cổ vũ tính tích cực chính trị - xã hội của cán bộ, đảng viên và
quần chúng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN"
[69]. Trong đó, tác giả cũng đi sâu làm rõ các yếu tố cấu thành công tác
GDCT-TT gồm chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức tiến hành.
Nước CHDCND Lào hiện nay có rất ít công trình đề cập trực tiếp đến
GDCT-TT, chỉ có một số cuốn sách đề cập đến công tác tư tưởng như: Cay
Xỏn Phôm Vi Hẳn, Toàn tập, tập 3, [91, tr.62]. Cuốn sách này tập hợp các bài
viết của chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
trong đó có bài viết về công tác giáo dục tư tưởng trong xây dựng lực lượng
an ninh ở Lào. Nội dung bài viết cho rằng, đối với mỗi cán bộ làm công tác an
ninh trước hết phải có trình độ nhận thức và có khả năng thực hiện nhiệm vụ
đầy khó khăn, phức tạp, cần đến sự cống hiến, hy sinh. Trong đó vấn đề đầu
tiên là phải có hiểu biết về chính trị, biết vận động quần chúng, đồng thời
cũng phải có sự hiểu biết về phương pháp luận và quan trọng là phải biết nắm
thông tin tình báo để đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Cuốn “40 năm trưởng thành và phát triển các lực lượng an ninh” của

Bộ An ninh nhân dân Lào [76, tr.66]. Đây là cuốn sách tổng kết khá công phu
về quá trình ra đời, trưởng thành và phát triển lực lượng an ninh nhân dân Lào
qua các thời kỳ lịch sử. Công trình đã khẳng định nhờ làm tốt giáo dục tư
tưởng nên lực lượng an ninh nhân dân Lào đã trở thành một bộ phận của lực
lượng vũ trang cách mạng, là lực lượng trung thành của Đảng, của nhân dân
các bộ tộc Lào do Đảng NDCM Lào thành lập, lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và


16
toàn diện, là lực lượng xuất thân từ nhân dân, do nhân dân và vì dân. Ngoài ra
còn một số cuốn sách khác cũng đề cập đến công tác GDCT-TT như: Những
phương hướng chung và nhiệm vụ chủ yếu của công tác chính trị - tư tưởng
trong tình hình mới [73], Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho cán bộ,
đảng viên ở thủ đô Viên chăn [82], Đào tạo và bồi dưỡng lực lượng an ninh ở
Bộ An ninh nhân dân Lào [83]…
Như vậy, GDCT-TT dưới góc độ khoa học công tác tư tưởng và công
tác giáo dục chính trị dưới góc độ là một nhiệm vụ thực tiễn tuy đều là một bộ
phận của công tác tư tưởng nhưng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, vị
trí, mối quan hệ với công tác tư tưởng.
1.2. Về khái niệm hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục
chính trị - tƣ tƣởng
1.2.1. Về khái niệm hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng
Cuốn “Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô” đưa ra khái
niệm hiệu quả công tác tư tưởng “…là sự tương quan giữa kết quả tác động
tư tưởng đã đạt được so với những mục tiêu xây dựng giác ngộ cộng sản chủ
nghĩa và phẩm hạnh cộng sản chủ nghĩa của con người” [71, tr.299]. Như
vậy, hiệu quả công tác tư tưởng là sự tương quan giữa kết quả và mục đích,
trong đó mục đích của công tác tư tưởng là nhằm xây dựng phẩm chất chính
trị và phẩm chất đạo đức cộng sản chủ nghĩa cho nhân dân. Hiệu quả của hoạt
động tư tưởng chịu ảnh hưởng của nhiều điều kiện khách quan và nhân tố chủ

quan. Những điều kiện khách quan là: lối sống XHCN, chế độ dân chủ, môi
trường xã hội…Nhân tố chủ quan là: trình độ lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tư tưởng; sự thành thạo chuyên môn của cán bộ làm công tác tư tưởng;
thường xuyên cải tiến hình thức, phương pháp; đảm bảo sự thống nhất của các
biện pháp kinh tế - xã hội, tư tưởng, tổ chức và hành chính…
Trong bài viết Đánh giá tính hiệu quả của công tác giáo dục chính trị
tư tưởng (tiếng Trung) của các tác giả Tào Tổ Minh và Trần Đình trên


17
website Trường Đảng tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, cho rằng: đánh giá tính hiệu
quả của công tác giáo dục chính trị tư tưởng là “thể hiện ở việc đáp ứng nhu cầu
tương ứng và đạt được mục đích tương ứng của người học, phán đoán kết quả
của hoạt động công tác giáo dục chính trị tư tưởng với việc phù hợp mục tiêu dự
kiến và khả năng phát huy chức năng của giáo dục” [39, tr.167-168].

Ở Việt Nam, vấn đề hiệu quả được quan tâm cả trong lĩnh vực sản xuất
vật chất và sản xuất tinh thần. Trong kinh tế học, hiệu quả là một khái niệm cơ
bản và được phân định khá rõ ràng với khái niệm kết quả và chất lượng. Kết
quả là toàn bộ sản phẩm mà quá trình sản xuất tạo ra, bao gồm cả số lượng và
chất lượng, trong đó chất lượng là những tính chất của sản phẩm mà có thể
đem đến sự thoả mãn nhu cầu của người sử dụng.
Trong lĩnh vực quân sự, tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng các tác giả
đều đề cập đến vấn đề chi phí khi nói đến hiệu quả. Trong luận án tiến sĩ triết
học “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong lực lượng an ninh nhân dân
Việt Nam hiện nay”, tác giả Trần Ngọc Tuệ quan niệm hiệu quả công tác tư
tưởng là sự so sánh giữa kết quả với mục đích và chi phí nhưng mở rộng hơn
thuật ngữ chi phí, đó là “…việc sử dụng tối ưu mọi khả năng vào thực hiện
mục đích trong những điều kiện nhất định” [60, tr.23]. Như vậy, chi phí không
đơn thuần chỉ là tiền bạc mà còn có những yếu tố khác. Tương tự các quan

niệm nêu trên, tác giả Cao Xuân Trung cho rằng “hiệu quả giáo dục chính trị
- tư tưởng là mối tương quan giữa kết quả đạt được so với mục đích đề ra
trên cơ sở đầu tư về mọi mặt và ảnh hưởng thực tế của nó” [56, tr.40].
Luận án tiến sĩ của tác giả Lương Ngọc Vĩnh cũng đưa ra khái niệm
hiệu quả công tác GDCT-TT một cách cụ thể hơn, đó là “sự tương quan giữa
kết quả lĩnh hội tri thức chính trị, hình thành niềm tin chính trị và tính tích
cực chính trị - xã hội ở đối tượng sau tác động giáo dục của chủ thể với mục
đích đã xác định và sử dụng hợp lý các nguồn lực để đạt kết quả đó trong
những điều kiện cụ thể”.


18
Trong công trình này, tác giả thay thế từ chi phí bằng nguồn lực để biểu
đạt các chi phí một cách đầy đủ hơn bao gồm cả thời gian, công sức, tiền bạc,
cơ sở vật chất.
Cuốn sách “Cơ sở lý luận công tác tư tưởng” của tác giả Lương Khắc
Hiếu, Nxb Chính trị quốc gia năm 2017 đưa ra một khái niệm mới về hiệu
quả công tác tư tưởng, đó là “sự tương quan giữa kết quả với mục đích đã xác
định và chi phí nguồn lực để đạt kết quả đó trong những điều kiện cụ thể”
[23, tr.290].
Qua các công trình nghiên cứu trên đây có thể thấy, hiệu quả công tác
tư tưởng, GDCT-TT hay công tác GDCT-TT là một vấn đề được đông đảo các
nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm. Hầu hết các công trình đều cho
rằng, hiệu quả là sự tương quan hoặc so sánh giữa kết quả với mục đích và chi
phí. Một số công trình đã đề cập đến khái niệm nguồn lực thay vì sử dụng từ
chi phí vốn khá nhạy cảm trong lĩnh vực tư tưởng. Một số công trình chỉ đề
cập đến sự so sánh giữa hai yếu tố kết quả và chi phí hoặc giữa kết quả và
mục đích. Không chỉ đưa ra khái niệm, các công trình nghiên cứu còn đưa ra
cách phân loại và các yếu tố tác động đến hiệu quả công tác tư tưởng.
1.2.2. Về tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng

Trong cuốn “Công tác Đảng-chính trị trong các lực lượng vũ trang XôViết”, các nhà khoa học Liên Xô cho rằng: “Thước đo kết quả của việc giáo dục
chính trị cho quần chúng tất nhiên là những việc cụ thể. Tính tư tưởng cộng sản
chủ nghĩa - đó là một hợp kim bền vững của kiến thức, niềm tin và hành động
thực tiễn” [7, tr.125]. Các tác giả trong cuốn “Hoạt động tư tưởng của Đảng
Cộng sản Liên Xô” cho rằng có ba nhóm tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là trình
độ hiểu biết CNMLN, đường lối, chính sách của đảng, pháp luật nhà nước,
những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật và văn hoá; ý thức giác ngộ
cộng sản chủ nghĩa, niềm tin cộng sản chủ nghĩa và tính tích cực xã hội, trong đó
tính tích cực xã hội là tiêu chuẩn quyết định hiệu quả của công tác tư


19
tưởng [xem 71, tr.305-306]. Tuy nhiên, các tác giả cũng chưa xác định rõ đâu
là nhận thức chính trị, đâu là ý thức giác ngộ và niềm tin cộng sản chủ nghĩa.
Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cũng quan tâm đến tiêu chí và
phương pháp đánh giá hiệu quả tuyên truyền chính trị. Trong đó, tiêu chí đánh
giá chủ yếu dựa vào sự hiểu biết, thái độ và hành vi của đối tượng. Trong một
công trình nghiên cứu về lý thuyết tuyên truyền “Propaganda”, tác giả đã chỉ
ra 4 phương pháp (measure the effects of the propaganda) để đo hiệu quả
tuyên truyền, bao gồm: nghiên cứu thực nghiệm có kiểm soát (controlled
experiment), phân tích dữ liệu thống kê (content analysis), quan sát thực tiễn
(practicipant observers) và phỏng vấn nhóm nhắc lại (panel interview repeated interview) [xem 105].
Nhiều nhà khoa học Việt Nam đã quan tâm nghiên cứu về tiêu chí đánh
giá hiệu quả công tác tư tưởng theo các góc độ khác nhau nhưng đều đề cập
đến nhận thức và hành động ở đối tượng. Trong tuyển tập “Một số vấn đề về
công tác tư tưởng”, tác giả Đào Duy Tùng cho rằng: tiêu chuẩn đánh giá hiệu
quả công tác tư tưởng là ở nhận thức và hành động nhưng không phải mọi
hành động tích cực của con người đều là kết quả của giáo dục. Ở bình diện xã
hội đó là kết quả hình thành đường lối chính trị; mức độ quán triệt, truyền bá
đường lối; mức độ chi phối của hệ tư tưởng, bầu không khí tâm lý xã hội lành

mạnh; kết quả xây dựng con người mới XHCN. Trong mỗi nhiệm vụ chính trị
cụ thể, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả là: nhận thức chính trị; nhiệt tình cách
mạng, ý thức trách nhiệm; tri thức chuyên môn; hành động cụ thể và mức độ
chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người. Ngoài ra, còn có thể đánh giá
tiêu chuẩn của từng binh chủng trong công tác tư tưởng [xem 61, tr.133-153].
Cuốn “Công tác tư tưởng” của tác giả Đào Duy Quát đưa ra ba tiêu chuẩn
đánh giá hiệu quả gồm: hoàn thành nhiệm vụ chính trị; sự trưởng thành của cán
bộ, đảng viên và nhân dân; các tổ chức trong sạch vững mạnh. Ở tầm quốc gia,
hiệu quả công tác tư tưởng là chính trị ổn định; kinh tế, xã hội, văn hoá phát


×