Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

khuynh hướng sử thi trong dấu chân người lính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.98 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
I. Khái quát văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 .............................................2
1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội nước ta năm 1945 – 1975 ..........................................2
1.2. Hiện thực kháng chiến chống Mĩ trong văn xuôi Việt Nam từ 1965 – 1975 .2
1.3. Khuynh hướng sử thi trong văn học thời kỳ kháng chiến chống Mĩ ...............3
II. Vài nét về tác giả Nguyễn Minh Châu và tiểu thuyết “Dấu chân người lính”......4
2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu ................................4
2.1.1 Cuộc đời ......................................................................................................4
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác .....................................................................................5
2.2. Tiểu thuyết Dấu chân người lính .....................................................................5
III. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong tiểu thuyết “Dấu chân người lính” ....7
3.1. Hiện thực chiến trường ....................................................................................7
3.2. Hình tượng người chiến sĩ anh hùng .............................................................13
3.2.1. Yêu nước mãnh liệt..................................................................................13
3.2.2. Ý thức trách nhiệm ..................................................................................16
3.2.3. Dũng cảm, mưu trí ...................................................................................19
3.2.4. Tinh thần chiến đấu lạc quan ...................................................................24
3.2.5. Tình đồng chí, đoàn kết ...........................................................................25
3.2.6. Tình cảm gia đình, tình yêu trong chiến tranh.........................................28
IV. Nghệ thuật ..........................................................................................................29
4.1. Xây dựng nhân vật anh hùng – nhân vật sử thi .............................................29
4.2. Không gian sử thi ...........................................................................................30
4.3. Thời gian sử thi ..............................................................................................31
4.4. Giọng văn .......................................................................................................31
V. Tổng kết ..............................................................................................................31


I. Khái quát văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975
1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội nước ta năm 1945 – 1975
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan xiềng xích nô lệ của
thực dân Pháp trong gần một thế kỉ, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại


suốt một nghìn năm, đánh đuổi phát xít Nhật và mở ra một kỉ nguyên mới của lịch
sử dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Nhân dân Việt Nam đã làm chủ được vận mệnh của mình,
quý trọng nền độc lập tự do của dân tộc và sẵn sàng chiến đấu hi sinh để bảo vệ
nền độc lập tự do ấy. Bên cạnh đó nước ta còn gặp một số khó khăn như: chính
quyền cách mạng vừa mới thành lập, lực lượng vũ trang còn non yếu; giặc đói giặc
dốt hoành hành; ngân sách Nhà nước hầu như trống rỗng; sự xâm lược trở lại của
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ,…
Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trường kì suốt 30
năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc,
trong đó có văn nghệ, tạo nên những đặc điểm riêng biệt của một nền văn học hình
thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, ác liệt.
Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng khỏi sự xâm lược của thực dân Pháp vào
ngày 16/5/1955, tiến hành khôi phục nền kinh tế, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trải qua hơn mười năm thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đã
trở thành hậu phương, căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam với lực
lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh.
Ở miền Nam, Mĩ thay Pháp đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền âm
mưu chia cắt Việt Nam, biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự ở
Đông Dương và Đông Nam Á. Do đó, nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền và
nhân dân miền Nam phải tiếp tục cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, thực hiện hòa
bình thống nhất nước nhà.
1.2. Hiện thực kháng chiến chống Mĩ trong văn xuôi Việt Nam từ
1965 – 1975
Ở giai đoạn này một nền văn học mới – văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa
phát triển. Những người cầm bút đã trải qua một cuộc kháng chiến, đã nhận đường
từ lâu, họ biết phải làm gì để góp phần thực hiện khẩu hiệu: “Tất cả để chiến
thắng. Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Chất liệu cho những sáng tác của các
nhà văn đều bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu. Họ sống và xúc cảm cùng chiến
tranh, nhìn nhận và tái hiện lại khung cảnh kháng chiến một cách chân thực nhất.

2


Một số nhà văn vượt sông Bến Hải tìm chia lửa với đồng bào miền Nam. Họ
xông xáo tìm nguồn sáng tạo nơi có bom đạn giặc. Nguyễn Đình Thi viết Vào lửa
(1966) và Mặt trận trên cao (1967). Hiện thực được nhà văn phản ánh là hiện thực
anh hùng, có chiến đấu thì phải có sự mất mát hi sinh. Hi sinh của những người
thân yêu đã khắc sâu hơn sự căm thù trong lòng chiến sĩ, để từ đó họ chiến đấu
mãnh liệt hơn. Nguyễn Khải tập trung viết về người anh hùng chiến đấu ở những
chiến trường ác liệt với những tác phẩm như Đường trong mây, Ra đảo, Chiến sĩ,
họ là những người anh hùng bình dị mà đẹp đẽ, có khi là những người lính trong
đơn vị, có khi là những con người lao động bình thường nhưng vô cùng gan dạ.
Một số nhà văn tập kết như Phan Tứ đã trở lại chiến trường miền Bắc để tích
lũy tư liệu cho những sáng tác của mình trở nên sâu sắc hơn như Về làng (1964),
Gia đình má Bảy (1973), Mẫn và tôi (1973). Tác phẩm của ông viết về sự vùng dậy
của một xã nghèo liên khu 5, những người dân nghèo đã thấm nhuần chân lí cách
mạng và hiên ngang chiến đấu. Hay là sự chiến dấu hết sức gian khổ của nhân dân
làng Cả, ta và địch chạy đua hết sức căng thẳng để dành thế đứng trong một vành
đai sát ngay căn cứ quân sự lớn Chu Lai. Nhân dân ta vừa chống địch vừa chống
lại những phần tử dao động, thoái hóa trong nội bộ, chống cả lũ lụt thiên tai.
Trong số đó, hiện thực ở những sáng tác của Nguyễn Minh Châu được dư
luận đánh giá cao. Các nhà phê bình, nghiên cứu từ trước đến nay đều thừa nhận
những tác phẩm của ông đã phản ánh được khí thế hào hùng và phẩm chất cao đẹp
của con người Việt Nam trong chiến đấu. Đặc biệt là tiểu thuyết Dấu chân người
lính (1972) ghi lại những khoảnh khắc cuộc chiến tranh hào hùng của quân dân ta
ở Khe Sanh và hình tượng anh hùng sử thi được thể hiện một cách đậm nét.
Các tác giả của nền văn học trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ đã góp
phần thực hiện vẻ vang nhiệm vụ lịch sử đánh đuổi bọn Mĩ Ngụy thống nhất nước
nhà. Họ thực sự xem văn học là vũ khí, bản thân mình là một chiến sĩ và coi sự
nghiệp sáng tác của mình là một hành động đấu tranh.

1.3. Khuynh hướng sử thi trong văn học thời kỳ kháng chiến chống Mĩ
Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê: “Sử thi là tác phẩm lớn thuộc loại
văn tự sự, miêu tả sự nghiệp của những người anh hùng và các sự kiện lịch sử
lớn.”
Khuynh hướng sử thi:
Theo sự phát triển của lịch sử xã hội và văn học, thể loại sử thi không còn
nữa nhưng chất sử thi vẫn còn tồn tại trong những sáng tác thời kì kháng chiến
3


chống giặc ngoại xâm – những sáng tác gắn liền với vận mệnh dân tộc, luôn đề cập
đến những sự kiện có tính chất toàn dân tộc.
Cô Lại Thị Hồng Vân trong luận án thạc sĩ với đề tài “Chất sử thi và chất
trữ tình trong tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu” có nói rằng: “Chất sử thi là sự nhìn
nhận con người qua góc độ xã hội dân tộc. Tác giả sử thi tư duy bằng tư tưởng của
dân tộc, xã hội. Tư duy sử thi nêu lên những vấn đề có tầm vóc lớn, thể hiện tình
yêu nước ở qui mô lớn nhất và thuần khiết nhất.”
Những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi luôn thể hiện sự lạc quan, tin
tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước, vào thắng lợi hào hùng vẻ vang của
dân tộc. Đây là cảm hứng chi phối mạnh mẽ đến các sáng tác của các nhà văn, nhà
thơ trong thời kỳ kháng chiến, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Nhân vật mang cảm hứng sử thi là những con người tiêu biểu cho lí tưởng
và phẩm chất cộng đồng. Trong một số tác phẩm thời kì kháng chiến chống Mĩ,
hình mẫu lí tưởng mà đa số nhà văn hướng đến là những con người mang trong
mình phẩm chất anh hùng, được kết tụ bởi sức mạnh và ý chí chung của cả cộng
đồng. Họ sẵn sàng hi sinh, coi sự nghiệp chiến đấu là bổn phận, là trách nhiệm; tự
nguyện vì cộng đồng dân tộc là niềm hạnh phúc lớn lao của bản thân mình.
Ngôn ngữ trong tác phẩm mang khuynh hướng sử thi thường có tính chất
trang trọng, giàu hình ảnh và giàu giá trị biểu cảm. Giọng điệu mang âm hưởng
hùng tráng, thiên về ngợi ca với thái độ chiêm ngưỡng, lay động cảm xúc người

đọc.
Khuynh hướng sử thi góp phần phản ánh hiện thực đời sống, cho người đời
sau có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn về lịch sử chiến đấu của dân tộc, cho
chúng ta thấy được dấu ấn của dân tộc và hơi thở của một thời đại đã đi qua.
II. Vài nét về tác giả Nguyễn Minh Châu và tiểu thuyết “Dấu chân người lính”
2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu
2.1.1. Cuộc đời
Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) quê ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Nguyễn Minh Châu sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả, nhưng sa sút sau
Cách mạng tháng Tám. Từ nhỏ, ông là một cậu bé nhút nhát, nhưng thông minh,
ham học.
Năm 1944 – 1945, Nguyễn Minh Châu học Trường Kỹ nghệ Huế. Năm
1945 ông tốt nghiệp bậc Thành chung. Đầu năm 1950 ông học chuyên khoa trường
4


Huỳnh Thúc Kháng (Hà Tĩnh) và sau đó theo học Trường sỹ quan Trần Quốc
Tuấn. Từ năm 1952-1956 ông công tác tại Ban Tham mưu tiểu đoàn 722, 706
thuộc sư đoàn 302. Từ năm 1956-1958 ông là trợ lý văn hoá trung đoàn 64 thuộc
sư đoàn 320. Năm 1962 ông về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển
sang tạp chí Văn nghệ quân đội.
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Minh Châu thuộc lớp nhà văn xuất hiện và trưởng thành trong
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sáng tác đầu tiên được in báo là một bài thơ, tiếp
đến là tập truyện ngắn Sau một buổi tập (Tạp chí Văn nghệ Quân đội 1957). Đến
năm 1967, ông cho ra đời tiểu thuyết Cửa sông. Trong kháng chiến chống Mĩ,
Nguyễn Minh Châu đã đi qua rất nhiều vùng đất, ông hết sức thông thuộc, am hiểu
những khó khăn, mất mát của con người trong cuộc chiến. Qua những tác phẩm
của mình, ta nhận thấy được sự trăn trở của Nguyễn Minh Châu trong con đường
lao động nghệ thuật, với tinh thần trách nhiệm đầy lo âu, ông luôn dõi theo từng

bước đi của dân tộc một cách kỹ càng và sâu sắc. Những sáng tác của Nguyễn
Minh Châu thời kỳ trước 1975, phản ánh chiến tranh và cổ vũ những phẩm chất
yêu nước, những người anh hùng của nhân dân trong cuộc kháng chiến.
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn quân đội, những năm cuối đời ông mang
quân hàm đại tá, là Uỷ viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Ông để lại cho
nền văn học nước nhà một khối lượng tác phẩm đáng kể: 7 cuốn tiểu thuyết: Cửa
sông (1967), Dấu chân người lính (1972), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Miền
cháy (1977), Những người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1986);
bộ ba tiểu thuyết cho lứa tuổi thiếu niên: Từ giã tuổi thơ, Những ngày lưu lạc, Đảo
đá kỳ lạ (1985); 4 tập truyện ngắn: Những vùng trời khác nhau (1970), Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Cỏ lau (1987); một tập tiểu
luận, phê bình: Tiểu luận văn học (1994).
2.2. Tiểu thuyết Dấu chân người lính
Tiểu thuyết Dấu chân người lính được ra đời năm 1972 viết về một chiến
dịch lớn trong thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Với lối viết chân thực, sinh động
Nguyễn Minh Châu đã miêu tả khá thành công hình ảnh một vùng quê chiến đấu.
Dấu chan người lính phản ánh khá rõ ràng những diễn biến của chiến dịch Khe
Sanh. Âm mưu của địch là chiếm giữ căn cứ Khe Sanh nhằm ngăn chặn và chia cắt
mọi hoạt động gia lưu giữa miền Bắc với miền Nam, giữa Việt Nam Và Lào.
Trong chiến dịch Khe Sanh quân dân ta đã hy động một lực lượng chiến đấu lớn.

5


“Dấu chân người lính” thể hiện được sức mạnh lớn lao của dân tộc trong cuộc
chiến này.
Tác phẩm bao gồm 17 chương, được chia làm 3 phần: phần 1 là Hành quân,
phần 2 là Chiến dịch bao vây, phần 3 là Đất giải phóng. Hai chương đầu của tác
phẩm miêu tả cuộc hành quân của sư đoàn dọc Trường Sơn để bao vây Khe Sanh.
Nguyễn Minh Châu đã miêu tả được khí thế rất mạnh mẽ, hùng hồn của những

cánh quân hội tụ nơi núi rừng. Qua đó ta thấy được tinh thần chiến đấu cao độ sẵn
sàng hi sinh của những người lính. Họ là những người lính trẻ của một thời đại, họ
đến từ nhiều nơi và điều quan trọng nhất là họ có cùng chung lí tưởng cầm súng
chiến đấu vì Tổ quốc. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công những người
lính của xã hội mới, được học dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Họ có những
phẩm chất mới của một thế hệ và bước vào trận đánh với tinh thần sáng tạo và quả
cảm không ngờ. Ngoài ra trong tác phẩm còn có sự xuất hiện của những nhân vật
đã từng tham gia chiến đấu trong thời kỳ chống Pháp. Nguyễn Minh Châu đã đề
cập một cách sâu sắc những vấn đề cho hai thế hệ trong quân ngũ. Không có những
mâu thuẫn giữa giữa lớp già và lớp trẻ mà họ luôn hỗ trợ nhau, cảm thông cho
nhau để xoá bỏ khoảng cách giữa hai thế hệ điều này thể hiện rõ qua nhân vật
chính ủy Kinh và Lữ. Trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu đây rất thành công khi
miêu tả hình ảnh người lính trẻ dũng cảm trong chiến đấu nhưng cũng rất hồn
nhiên, ngây thơ. Lữ rời ghế nhà trường khi giặc Mĩ ném bom phá hoại, anh sẵn
sàng vào quân đội với quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Lữ có một mối tình thời còn đi
học và khi gặp lại người con gái anh thầm thương trên chiến trường đã khơi dậy
trong anh những tình cảm bồi hồi, xúc động. Cuộc gặp gỡ giữa Lữ với cha mình là
chính ủy Kinh trên đường hành quân đã gợi trong lòng người đọc bao nỗi niềm
chứa chan xúc động. Những trận đánh khốc liệt đầy thương vong đã khiến Lữ ngã
xuống, cái chết của Lữ thật anh hùng, thật đẹp. Nhân vật Lữ vừa mang tính chất
hiện thực vừa mang tính chất lãng mạn, thông qua cuộc đời và sự hy sinh của Lữ
tác giả Nguyễn Minh Châu muốn làm nổi lên những phẩm chất tốt đẹp và đức hy
sinh của người lính.
Ngoài ra các nhân vật Đàm, Khuê, Lượng,... cũng có nhiều nét tính cách giống
nhau. Họ là những người lính năng động, linh hoạt, có vốn văn hoá, và luôn chiến
đấu với một tinh thần lạc quan. Họ có khả năng đối mặt và chiến đấu với những kẻ
thù hiện đại, tàn bạo. Đó chính là những phẩm chất của một thế hệ được hình thành
trong cuộc chiến. Trong tác phẩm “Dấu chân người lính”, Nguyễn Minh Châu còn
miêu tả một vài nét hậu phương qua hình ảnh gia đình cụ Phang gốc người
Thượng. Một lão già quắc thước, nhiệt tình với cách mạng, một cô con dâu xinh

6


đẹp nết na, một thằng con trai biệt kích ác ôn. Qua đó thấy được tội ác của kẻ thù
tạo bi kịch, mất mát đau khổ vào một gia đình.
“Dấu chân người lính” kết thúc ở chương Đất giải phóng. Đây là tác phẩm
về chiến tranh có quy mô lớn hơn cả so với các tác phẩm thời kỳ đầu như Trận Phố
Ràng của Trần Đăng. Qua tác phẩm chúng ta thấy được lịch sử đã vượt qua bao
chặng đường dài. Tuy kẻ thù từng thời kỳ khác nhau nhưng chúng ta luôn có
những người lính sẵn sàng hi sinh bảo vệ Tổ quốc. Tiểu thuyết như là một bản
hùng ca trong chiến đấu. Người đọc sẽ bắt gặp vẻ đẹp hào hùng của người lính,
những trận đánh thắng lợi, và niềm lạc quan trong chiến đấu qua tác phẩm.
III. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong tiểu thuyết “Dấu chân người
lính”
3.1. Hiện thực chiến trường
Khuynh hướng sử thi không chỉ thể hiện ở những nhân vật trung tâm trong
tác phẩm mà bên cạnh đó còn được góp phần tô đậm qua hoàn cảnh, không gian,
thời gian mang đậm nét sử thi. Nói đến chiến trường đó chính là tầm khái quát hiện
thực rộng lớn từ lúc hành quân đến khi giành chiến tranh. Tiểu thuyết đặt trong bối
cảnh chiến dịch đường số 9 - Khe Sanh, trận chiến có vai trò chiến lược vô cùng
quan trọng đối với Quân giải phóng miền Nam Việt Nam góp phần thay đổi cục
diện chiến tranh. Do đó, xây dựng hiện thực chiến trường hoành tráng, sinh động
cũng là một đóng góp quan trọng trong việc đẩy tính sử thi đến một tầm cao mới.
Thứ nhất, hiện thực chiến trường được nói đến trong tác phẩm mang những
nét hoành tráng nhưng cũng không kém phần nguy hiểm, đó chính là không gian
sử thi hào hùng không chỉ thể hiện qua những trận đánh mà còn nổi bật qua các
chặng đường hành quân gay go đầy ác liệt. Chiến trường Trị - Thiên với con đường
Trường Sơn ngoằn ngoèo rải đầy bom đạn địch, hay những điểm nóng khốc liệt
như cứ điểm Tà Cơn, Khe Sanh hay đường số 9 được nhắc đến xuyên suốt tác
phẩm. Chiến sĩ Đàm còn khẳng định: “Đường hành quân dù mưa ngàn thác dữ,

Dốc ngược đèo cao mây phủ Trường Sơn” trong cuốn sổ tay sinh hoạt của mình.
Cái lớn lao, cái hào hùng của dân tộc, sôi sục trong những ngày hành quân
chiến đấu thể hiện trên từng nẻo đường hành quân ra trận. Chiến trường trong
“Dấu chân người lính” là một không gian bao la, rộng lớn được tô điểm bằng
những địa danh, cảnh sắc thiên nhiên, những trận bom B.52 càng quét; nơi đây còn
có sự ấm áp của bếp lửa dựng lên rải rác trên mỗi đường đi “các ngả đường ngập
những lính, đâu đâu trong rừng cũng sực lên hơi người, đâu đâu cũng gặp những
7


bếp than cháy dở”, sự lạnh lẽo của những cơn mưa kéo dài dọc Trường Sơn hay
cái rét mướt đến tê người mà mỗi chiến sĩ hành quân phải trải qua. Cuộc hành quân
được Nguyễn Minh Châu khắc họa mang tính sử thi hào hùng: “Dọc con đường
giao liên bấy giờ, khu rừng hai bên có những quãng dòng thác người tự nhiên cứ
quẩn lại, phình to ra, đông đúc và ồn ào như dòng nước lũ chảy qua một cái xoáy
lớn… Tất cả các đơn vị đi đường ngắn và đường dài đang hội quân ở đây… Đông
đúc quá? Không ai có tài nào mà phân biệt hoặc đếm được có bao nhiêu đơn vị,
cũng không thể biết đây là đường rừng hay quảng trường, là rừng cây hay là rừng
người và rừng súng đạn. Người ta chỉ biết đông đúc và chật chội, là hơi nóng của
hơi thở và mùi mồ hôi người, là tiếng ồn ào của cuộc sống, là đàn ong cần lao
đang san một nửa tổ đi đánh giặc, là cơn giận dữ của đất nước lại một lần cầm lấy
súng.”
Con đường hành quân đẹp đẽ, đầy khí thế và sục sôi tinh thần chiến đấu của
những người con ngày đêm cống hiến sức lực và tuổi trẻ mình cho độc lập tổ quốc:
“Bộ đội đi ùn ùn: Chiến sĩ thông tin đi kéo dây và đặt máy cho các đơn vị vừa
được lệnh chuyển lên phía trước, những đơn vị pháo nhẹ chạy theo bộ binh, những
đoàn cáng thương leo dốc đá đi ngược chiều hun hút về phía sau. Bom nổ. Khói
um lên một lát chẳng trông thấy gì cả. Tan khói, lại vẫn hai dòng người chuyển
động ngược chiều nhau như hai sợi dây xích không bao giờ đứt.” Con đường hành
quân, không ai còn thấy xa, không ai còn thấy nguy hiểm, mỗi chặng đường họ lại

gặp nhau, tiếp thêm lửa tinh thần cho nhau, thêm ý chí, thêm lòng căm thù giặc sâu
sắc hòa quyện vào từng đoàn người, từng tiếng nói cười, lấn át cả bom đạn chiến
tranh. “Ban đêm từng chùm pháo sáng liên tiếp treo lơ lửng trong bầu sương thăm
thẳm trắng rừng trắng núi. Mặc cho máy bay địch trinh sát và bắn phá, dưới mặt
đất bộ đội vẫn chen chân nhau đi đông nghìn nghịt. Họ tranh thủ đi nhanh hơn,
nhận mặt nhau, chào hỏi nhau. Con đường cứ hình thành dần những khu vực tọa
độ của địch”. Những người bộ đội, dấu chân họ là cả một tương lai gắn liền với
vận mệnh của dân tộc, từng bước như nhanh hơn, chắc hơn, mở đường tiến về phía
quân địch; từng bước chân trên đường hành quân thêm nặng không chỉ bởi quân
trang mang vác, súng đạn, thuốc quân y,… mà còn nặng tình yêu tổ quốc, càng
nặng, bước chân lại càng nhanh, càng nguy hiểm, người chiến sĩ càng thêm gan dạ,
dũng cảm, anh hùng.
Thứ hai, ta không thể không nói đến khí thế phấn chấn, tươi vui của các
chiến sĩ cũng góp phần vào không khí hào hùng, sục sôi của dân tộc: “Tinh thần
các chiến sĩ rất náo nức. Kinh đang đi giữa những người chiến sĩ của mình như đi
giữa một khối thuốc nổ. Ông nhìn thấy rõ trên khuôn mặt từng người, tất cả ý chí
8


giết giặc thể hiện trong mưa nắng và gian khổ trên các chặng đường hành quân
dọc Trường Sơn đang được cô đúc lại.” Cuộc hành quân không chỉ có những mất
mát đau thương “bom rơi, lửa chiến tranh” khi bị địch tấn công bất ngờ mà còn có
những tiếng cười, dấu chân những anh bộ đội anh hùng ngày đêm không ngừng
nghỉ “Tiếng cười nói nhộn nhạo và tiếng bước chân bộ đội hành quân bên ngoài
nghe như từ dưới lòng đất cứ vang lên thình thịch, bước chân những người lính
bao giờ nghe cũng nặng.” Hay những lúc “hội ý hội báo” lại dùng cách quát vào
tai nhau, đó chính là cách sinh hoạt kỳ quặc của con nhà lính hầm 475 nhưng cũng
đầy thú vị: “…Nếu là câu chuyện giữa ba bốn anh điếc cùng một lúc thì thật đến là
vất vả, "ông nói gà, bà nói vịt" một hồi, khi thủng ra câu chuyện thì anh này chỉ
thẳng mặt anh kia, hể hả cười phá lên rung cả hầm.”

Thứ ba, hiện thực chiến trường không những được góp phần qua khí thế hào
hùng của “dấu chân” những người lính mà cái khắc nghiệt của hiện thực nơi đây
còn tô điểm cho tác phẩm những cái nhìn chân thực nhất về chiến tranh. Địa hình
núi đá với thời tiết ẩm thấp càng làm tăng thêm sự khó khăn cho người lính “trời
trên các chỏm rừng suốt ngày mù mịt mưa sương. Các con đường mòn chạy xuyên
qua Trường Sơn bao giờ cũng lõng bõng một lớp bùn nhão đầy vết giày in chi chít
ngang dọc…Rừng mưa ướt đầm đìa hằng tháng trời. Ai đã tùng sống qua một mùa
mưa trên Trường Sơn hẳn biết. Lá cây bao giờ cũng cụp xuống và ướt loáng. Thân
cây đầy rêu. Đá trơn tuột”. Có những hiện thực khắc nghiệt nhưng không được đề
cập đến trong tiểu thuyết “Dấu chân người lính”, thế nhưng trong “Di cảo Nguyễn
Minh Châu” còn có đoạn nói về sống lưng Trường Sơn như sau: “Nằm trên võng
ngủ máu thấm võng vì vắt. Điểm cao 1001m. Quanh năm mưa dày. Dốc không có
chỗ đặt ba lô. Đi vòng đường Lào lúc nào cũng phải đi giày. Nắng. Rải chất độc
hóa học. Chỉ nghỉ nhờ bóng thân cây. Một bi đông nước cộng một ống bương.
Khát. Sốt rét. Mặc quần đùi, các chỗ không có quần áo là rộp trắng chân ra. Xa
hậu cứ: rau tàu bay, rau sắn, rau dền… Muối ủng hộ nhân dân. Soi dam ở suối cải
thiện. Sốt ngồi bám đài. Đi lấy nước phải đi đêm. Sốt ăn cơm nắm, uống nước lã.
Sốt quá nhờ đơn vị bạn, cách ba tiếng. Ngày nắng, đêm lạnh”. Thế nhưng những
chi tiết này không được Nguyễn Minh Châu đưa vào trong tác phẩm, một phần vì
tính chất khốc liệt của nó, một phần tác phẩm thời bấy giờ ra đời để cổ vũ kháng
chiến, nếu đưa những tình tiết bi thảm thì sẽ khiến cho tinh thần nhân dân – người
tiếp nhận tác phẩm có cảm giác lo sợ, nhụt chí. Từ những chi tiết trên, chúng ta có
thể hình dung con đường hành quân của bộ đội ta gặp nhiều nguy hiểm, ác liệt đến
mức nào.

9


Địa hình hiểm trở, chông chênh là đặc điểm nổi bật của địa hình rừng núi
nước ta. Cần nói thêm về đặc điểm của đường Trường Sơn lúc bấy giờ, quân Mĩ đã

rải các chất độc hóa học xuống những cánh rừng chạy dọc theo đường Trường Sơn
làm trụi lá, “các dự án tạo mưa và các chất hóa học tạo bùn cũng được Mĩ sử dụng
để phá đường”, chỉ nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy được tính chất ác liệt của chiến
tranh quân sự lúc bấy giờ. Nơi đây “khắp vùng phía nam thung lũng, đi chỗ nào
cũng thấy dấu tích những trận bom B.52. Cây cối đều bị quật ngã, các dòng suối
đục ngầu, thuốc bom khét lẹt ám đầy nương rẫy.” Nước mưa tràn ngập chảy xiết
như một dòng suối nhỏ. Trên cao đóa hoa mai chết rũ trên cành khẳng khiu đen
màu bồ hóng, đầy những đốt”. Bên cạnh những hình ảnh được mô tả khái quát
sinh động và cụ thể thì không thể bỏ qua những chi tiết nhỏ nhất để thấy cuộc
chiến đã được tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng đến mức nào: “Tất cả phải bỏ hết
giày dép, qua gai góc và bãi tranh đều phải đi chân đất lồng bít tất. Lúc qua suối
không được đạp lên đá. Phân phải chôn rất sâu ăn cơm không được để vãi một
hạt. Cấm hút thuốc, cấm nói to, cấm lộ lửa. Ngủ xong phải dẹm cỏ lại như cũ hoặc
lăn tròn một vạt giống y hệt dấu voi”.
Con đường hành quân không dễ gì có thể vượt qua, mà bộ đội ta vẫn có thể
giữ được tâm thế bình tĩnh và hiên ngang đến không tưởng, tin tưởng vào bản thân,
tình tưởng vào lý tưởng cách mạng. Thế nhưng con đường ra trận không phải lúc
nào cũng u ám và mịt mù như vậy, cũng có lúc, chúng ta thấy Nguyễn Minh Châu
phát hiện ra những bông hoa, những tiếng hát, tiếng chim, tiếng cười lạc quan của
những con người kiên cường dạt dào sức sống, nhựa chiến đấu trong họ luôn chảy
mới và tươi nguyên dù cho đạn khói có biến nơi đây thành trận địa điên cuồng:
“Bom đạn đào xới lên tất cả vậy mà có một giống cỏ được các chiến sĩ gọi là cỏ
vạn thọ vẫn mọc tươi tốt, mùa xuân đến vẫn khoe một sắc hoa vàng sẫm như
nghệ.”
Nói về trận địa Khe Sanh, tác giả làm hiện rõ lên từng chi tiết địa bàn quân
địch chiếm đóng đến nghẹt thở, chỉ cần đọc thoáng qua thôi, người ta có thể tưởng
tượng nó như một con rùa sắt đứng vững chãi, bất bại và không thể hủy diệt: “Khe
Sanh là một thung lũng ngang dọc mỗi bề khoảng chừng mười cây số… Bộ chỉ huy
viễn chinh Mĩ đã thiết lập một hệ thống phòng ngự vững chắc bao gồm cứ điểm Tà
Cơn, chi khu quân sự Hướng Hóa và cứ điểm Làng Vây mới thiết lập trên các điểm

cao 656, 658, v.v... Những người lính trinh sát của ta nhìn xuống lòng chảo Khe
Sanh thấy ngổn ngang những công sự, trận địa pháo, rađa, xe cơ giới, máy bay và
những con thú - người Mĩ đi lại. Xa hơn về phía Bắc, căn cứ Tà Cơn loang lổ đất
đỏ chạy dài khoảng hai cây số và rộng một cây số, Tà Cơn san sát lô cốt, đường
10


hào, kho tàng, máy rađa với nhiều hệ thống công trình phòng ngự dày đặc như
mạng nhện.”
Trận địa Khe Sanh được “Hãng USIS của Mĩ đã bình luận: “Tầm quan
trọng chiến lược của tiền đồn Khe Sanh được coi như một chiếc mỏ neo phía tây
tuyến phòng thủ về hướng Bắc của Mĩ". Chiếc tầu chiến Hoa Kỳ đang thả neo giữa
rừng này chở trong lòng nó một lúc sáu ngàn lính thủy đánh bộ mặc áo cổ da và
đội mũ có gắn hình mỏ neo bằng bạc. Đó là con số Mĩ đóng ở Khe Sanh trước khi
những người lính trinh sát quân Giải Phóng xuất hiện.Có lúc con số ấy đã tăng lên
tới bốn vạn rưỡi tên, kể cả Mĩ và ngụy, kể cả những tên làm nhiệm vụ đóng chốt và
những tên làm nhiệm vụ ứng cứu từ xa đến gần.”
Bức tranh gian khổ nơi chiến trận thể hiện cái oanh tạc, hống hách của bọn
giặc Mĩ, để thấy rằng, đối lập với kẻ thù là tinh thần bất khuất, kiên định, đôi chân
vững vàng của các các chiến sĩ bám địch, đi vào lòng quân thù để kiểm soát tình
thế, lật tung âm mưu kẻ thù và giải phóng vùng đất dân tộc. Cảm nhận tính khốc
liệt của trận chiến đã đặt con người vào tình thế ám ảnh mỗi khi nhắc đến chiến
dịch Khe Sanh lịch sử: “Một người đứng từ xa nhìn Khe Sanh trong những tháng
mùa xuân dữ dội và đạm bạc màu sắc ở đây rồi sau bao lâu cũng không thể nào
dứt ra khỏi trí nhớ cùng một lúc hai hiện tượng: Một bầu trời đầy sương mù bao
trùm lên mặt trận; tiếng pháo của ta và tiếng bom của địch nổ long trời, trùm lên
nhau, như muốn cùng một lúc xé toang cái màn sương che phủ mặt đất để gieo
xuống đó ngọn lửa thiêng liêng của người hay ngọn lửa tội ác của loài quỷ”
Nói về những đợt tấn công tàn phá, chúng ta không thể không nhắc đến cứ
điểm Tà Cơn và đồi 475, nơi nhận được “sự chú ý đặc biệt” của quân đội Mĩ. “Tà

Cơn hiện ra trước mặt mọi người như một con thú khổng lồ đang gầm thét: Tiếng
nhiều máy phát điện nổ cùng một lúc. Tiếng máy rađa. Tiếng máy bay khởi động
trên đường băng. Ánh sáng điện từ dưới mặt đất chiếu hắt lên nền trời tùng cụm
một. Đèn điện sáng từng dãy trên sân bay”; “Pháo của ta bắt đầu bắn vào Tà Cơn
và mấy cao điểm hướng tây. Tiếng đạn pháo đi xèn xẹt như tiếng pháo siết quệt lên
bức tường sương và khói bom cuồn cuộn. Dải sương trắng bao bọc chung quanh
hàng rào Tà Cơn cứ phồng to và ửng sáng luôn luôn nhấp nháy. Chỉ trong giây
lát, hàng loạt tiếng nổ dồn dập như một cơn giông bằng thép và lửa, như dựng tất
cả cái căn cứ chiếm đóng của quân Mĩ dậy”. Ngọn đồi 475, nơi hứng chịu nhiều sự
oanh tạc nhất của máy bay không quân Mĩ: “Máy bay ném bom và pháo từ các căn
cứ dội lửa xuống 475 suốt ngày đêm... Những ngày máy bay B.52 ném nhiều đợt,
các đài quan sát chung quanh nhìn sang "con mắt A.1" chỉ thấy một khối lửa
11


phồng to trên chóp núi, cát bụi và những đám mây bên trên đều đỏ rực… Sau
nhiều ngày đêm như thế, mặt đất 475 bị nhào lộn như sóng biển. Chất đất pha đá
non từ dưới sâu bị đào lên, tơi vụn thành lớp bột đóng thành cục, hoặc như bột
được sấy khô dày hàng thước lúc nào cũng nóng hầm hập. Những lúc ánh sáng
mặt trời vừa hửng lên, lập tức các sườn đồi sáng lấp lánh bởi vô số mảnh kim
loại.”
Cuối cùng, hiện thực hiện trường chính là bàn đạp làm nổi bật tính sử thi cho
tác phẩm “Dấu chân người lính”. Nguyễn Minh Châu đã ca ngợi, lý tưởng hóa
cuộc cách mạng dân tộc, thể hiện cuộc vận động đi lên của cuộc chiến tranh trên
phương diện đối lập giữa ta và địch. Có thể nói, chiến dịch Khe Sanh là một chiến
dịch kéo dài từ khâu chuẩn bị đến tiến công đến tiêu diệt căn cứ quân địch. Từ
những căn cứ trên có thể xem xét tình hình chiến trường như sau:
Không gian hành quân và không gian chiến trường hết sức khốc liệt, gian
khổ và đầy hiểm nguy nhưng không thể phủ nhận được không gian cũng có những
tiếng cười, tiếng chim hót góp phần tăng thêm tính lãng mạn cho tác phẩm. Yếu tố

lãng mạn và hiện thực chiến trường làm tô đậm tính sử thi trong tác phẩm.
Nguyễn Minh Châu hầu như hướng đến sự kiện và các biến cố khách quan
khi miêu tả hiện thực chiến trường. Tác giả không đào sâu mà hướng ngòi bút
mình ở những đặc điểm nổi bật mang tính thời sự để thấy được tính cấp thiết của
chiến trận và khái quát một khung cảnh hiện thực hết sức rộng lớn.
Tính sử thi còn được nhà văn khai thác thông qua các hình ảnh đối lập giữa
ta và địch, không gian mang tính xung đột trên từng con đường, từng trận đánh.
Quân Mĩ đông hơn ta cả về quân số và phương tiện kỹ thuật, ngược lại quân số của
chúng ta gặp nhiều hạn chế, cả về vũ khí cũng có phần đơn điệu hơn nhưng khiến
cho cả bọn lính Mĩ phải khiếp sợ: “Ăn Tết xong, quân ta lại tiến công và tiêu diệt
đồn Làng Vây. Cái vị trí then chốt công sự chắc chắn có hơn một ngàn tên chiếm
giữ bị quân ta san bằng rất gọn ghẽ trong một đêm đã khiến cho bọn cầm quyền và
tướng tá tận bên Mĩ hết sức hoang mang lo sợ”. Đổi lại, Nguyễn Minh Châu lại
khắc họa được tinh thần và ý chí của các chiến sĩ anh hùng cách mạng lấn át cả
bom đạn kẻ thù, bất chấp sự khốc liệt của tự nhiên, vượt trên mọi giới hạn không
gian và thời gian để hòa mình vào trận chiến chung của dân tộc: “Pháo của ta bắt
đầu bắn vào Tà Cơn và mấy cao điểm hướng tây. Tiếng đạn pháo đi xèn xẹt như
tiếng pháo siết quệt lên bức tường sương và khói bom cuồn cuộn. Dải sương trắng
bao bọc chung quanh hàng rào Tà Cơn cứ phồng to và ửng sáng luôn luôn nhấp

12


nháy. Chỉ trong giây lát, hàng loạt tiếng nổ dồn dập như một cơn giông bằng thép
và lửa, như dựng tất cả cái căn cứ chiếm đóng của quân Mĩ dậy”
3.2. Hình tượng người chiến sĩ anh hùng
Văn học giai đoạn 1945 - 1975 đặc biệt chú ý đến con người lí tưởng, con người
với những phẩm chất cách mạng. Họ là những người đại diện cho dân tộc thực hiện
nhiệm vụ với đất nước. Nếu điển hình trong văn học trước 1945 gắn với ý nghĩa phê
phán xã hội thì những nhân vật tiêu biểu của văn học giai đoạn này chủ yếu để ngợi

ca lí tưởng cách mạng.
Xây dựng nhân vật anh hùng là một trong những thành công của Nguyễn Minh
Châu trong “Dấu chân người lính”. Mong muốn và cố gắng xây dựng kiểu nhân vật
này là một trong những vấn đề các nhà văn thời kì này luôn trăn trở. Nhưng thực tế
thực hiện được điều đó không phải dễ “phần lớn các tiểu thuyết này, chủ nghĩa anh
hùng cách mạng vẫn còn thể hiện tản mạn, thiếu những đỉnh cao”. Nhưng “Với Dấu
chân người lính, Nguyễn Minh Châu đã góp phần quan trọng vào việc đẩy những
hình tượng người anh hùng cách mạng trong văn học lên gắn với những điển hình
mà công chúng đang chờ đợi”.
3.2.1. Yêu nước mãnh liệt
Bằng những trải nghiệm của một nhà văn, một người lính từng lăn lộn khắp
nhiều chiến trường, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng hình tượng những người anh
hùng, tiêu biểu cho con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Từ cụ già đến
thanh niên, từ nam đến nữ... Đó là vẻ đẹp của Kinh và Lượng, Lữ và Khuê, Cận và
Vượng, Nết và Phát, Moan và Hiền, bác Đảo, cụ Phang... Mỗi người một vẻ, họ đến
với chiến trường từ những vùng quê khác nhau, hoàn cảnh không giống nhau nhưng
đều cùng chung một ý tưởng, một quyết tâm, một mục đích, đó là đánh Mĩ, thống
nhất nước nhà.
Tầng tầng lớp lớp người đang nối tiếp nhau hiện ra từ trên đồi từ dưới suối, từ
khắp các ngõ ngách của rừng tiến vào chiến trường Khe Sanh, bao vây tập đoàn cứ
điểm Tà Cơn, hướng tới mục đích thiêng liêng nhất của chiến tranh là giải phóng Tổ
quốc. Đó là một cuộc hành quân vĩ đại của một "dòng thác người cứ tự nhiên quẩn
lại, phình to ra, đông đúc và ồn ào như dòng nước lũ chảy qua một cái xoáy lớn ...
Những chiếc đòn gánh đủ kiểu, làm bằng gỗ, bằng bương, bằng tre. Lính cũng đủ
loại: Có anh cao lớn lộc ngộc, có anh như mới từ luống cày bước lên… Đông đúc
quá, không ai có tài nào mà phân biệt hoặc đếm được có bao nhiêu đơn vị, cũng
không thể biết được đây là rừng hay quảng trường, là rừng cây hay rừng người,
rừng súng đạn. Người ta chỉ biết đông đúc và chật chội, là hơi nóng của hơi thở và
13



mùi mồ hôi người, là tiếng nói ồn ào của cuộc sống, là đàn ong cần lao đang san
một nửa tổ đi đánh giặc, là cơn giận dữ của đất nước lại một lần nữa cầm tay súng".
Dòng thác ấy “mặc cho máy bay địch trinh sát và bắn phá, dưới mặt đất bộ đội vẫn
chen chân nhau đi đông nghìn nghịt. Trên chặng đường đầy cây cối đổ nghiêng, khói
bom khét lẹt và đất đỏ lật lên lấp hết cây cối, tùng đơn vị cứ đi qua, hết đơn vị này
đến đơn vị khác, hết binh chủng này đến binh chủng khác.”…
Trong trong đoàn quân ấy, có những người lính như Lữ (Phán xuất thân là học
sinh trung cấp ngoại ngữ, Nhẫn xuất thân là một học sinh trung học…) cách đây ba
năm “mới mười sáu, còn cắp sách đi học một cách bình yên vui vẻ”, thế rồi chiến
tranh đến đột ngột, họ phải “từ giã hết, tất cả mọi thứ sách vở và bản thân những
thằng học trò như mình cũng cần phải được ném vào lửa”. “Họ từ giã gia đình,
trường học, từ giã một cuộc sống tương lai đẹp đẽ hết sức bảo đảm đã bắt đầu xây
cho họ, từ bỏ trái hạnh phúc đang ửng hồng trong vườn nhà”. Họ đã bước vào chiến
trường mà không chút do dự, trù trừ, có thể “những năm đi học nhà trường đã trao
cho chúng mình những niềm tin thật là đẹp nhưng còn "sách vở" và mỏng manh như
những cái bong bóng xanh đỏ. Chúng mình đã phải đổi bao nhiêu vất vả để tự tìm
lấy một niềm tin bền vững và chắc chắn hơn từ trong cuộc đời”. Lữ chính là đại diện
tiêu biểu cho thế hệ trẻ lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa bước vào cuộc
chiến với một trái tim yêu nước, giàu nhiệt huyết và một tâm hồn lãng mạn, mơ
mộng, chứa chan nhiều hoài bão mang màu sắc lý tưởng, đôi khi viển vông của tuổi
học trò.
Kinh lại là đại diện cho thế hệ cha anh tham gia cách mạng từ những ngày
kháng chiến chống Pháp, ông “đã có mặt trong suốt chiến dịch Điện Biên Phủ” và
giờ đây một lần nữa lại tiếp tục cầm súng chiến đấu chống xâm lược Mĩ.
Bên cạnh đó, còn có những chiến sĩ như bác Đảo là một cán bộ tái ngũ (kháng
chiến chống Pháp lần trước bác là chiến sĩ trong một tiểu đoàn Việt kiều, anh em
hay gọi đùa là "Chiến sĩ tình nguyện Quốc tế"); như Hoạt trước khi đi bộ đội đã từng
công tác ở một ngành khoa học. “Hoạt tỏ ra hiểu biết rất nhiều về khoa học tự nhiên
(anh đọc được tiếng Nga) nhưng đồng thời không có một cuốn tiểu thuyết, một tập

thơ nào Lữ nhắc tới mà Hoạt lại không biết và đã từng đọc.” Hay như những chiến
sĩ chiến đấu bằng ngòi bút của mình, đó là Thái Văn. Anh đã từng sống với bộ đội
từ những ngày mới khởi nghĩa tháng Tám và kháng chiến toàn quốc. “Đời anh là
một cuộc hành quân qua các chiến dịch, các chiến hào, qua các vùng đất nước. Anh
đã có mặt trong nhiều cuộc hành quân gian truân hoặc hào hùng.” Mục đích của
anh là kiếm tìm “đốm lửa của những người đi giải phóng đất nước xứ sở”? Và cầm
14


bút nhưng không có nghĩa là anh không biết cách chiến đấu như những người chiến
sĩ khác. “Anh bơi nhanh chả kém gì Cận. Sang đến bờ bên kia, anh mặc quần áo,
thắt bao đạn, xem lại khẩu súng ngắn và những băng đạn, nhất nhất mọi động tác
Thái Văn đều làm thành thạo như một người lính.”
Bên cạnh hiện thực chiến trường, nơi chiến đấu trực tiếp với kẻ thù thì hậu
phương của một đất nước có chiến tranh trong tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu cũng
là một đời sống mang đậm chất sử thi thời đại. “Bên kia, một nửa phần đất nước,
một nửa mái nhà của mỗi mái nhà bên này đang cháy, một nửa trái tim của từng trái
tim người Việt Nam bên này ngày nào gót giày của hàng chục vạn quân Mĩ cũng
giẫm lên một lần.”
Trong Dấu chân người lính đó là hình ảnh nông thôn với ruộng đồng, bờ bãi
và trường học. Những làng quê hiền hòa đã nuôi lớn những người lính và từ đó họ
ra đi. Ngôi trường nơi Lữ cắp sách đến trường, để rồi "mình đã lôi ra đốt cùng với
sách vở ở trường, cả những tập nhật ký trong những năm đi học". Những người đàn
bà như vợ Kinh, vợ Cận, mẹ Khuê đã gánh vác được hết chuyện gia đình để chồng,
con đi đánh giặc ngoài mặt trận. Giữa một đất nước đầy đau thương, quê nhà của
Khuê cũng tan hoang: "Khuê về đến nhà thì mọi việc đã xong xuôi cả: Một cái hố
bom nằm đổ thay vào cái nền nhà cũ. Hai nấm mộ nằm kề nhau ngoài cánh đồng.
Ông bố Khuê vẫn ốm yếu, các đầu khớp chân đều sưng tấy lên, suốt ngày bó gối
ngồi giữa ba đứa con nhỏ còn lại ...Anh lên đến đường thì trông thấy một bóng người
đàn ông đứng im phăng phắc đang đứng đợi anh giữa cánh đồng chiêm lộng gió.

Đó là bố anh chờ để dặn con mình "Con đi nhớ trả thù cho mẹ và em con...bố ở nhà
có bà con xung quanh giúp đỡ cũng đủ sức làm mà nuôi các em, con cứ yên tâm mà
đi".
Tất thảy mọi việc người đàn ông có thể an tâm phó thác phóng xá cho người
đàn bà ở nhà mà đi lo việc nước và giặc giã, tha hồ anh đi một hai năm, năm ba năm
cũng được. Chỉ đôi khi những người đàn bà ấy mới viết một lá thư gửi cho chồng,
cho con nơi chiến trận. Lá thư ấy cũng “quá ngắn ngủi như một bức điện tín, viết
bằng phẩm tím trên giấy vở học trò.” Đó là chút tình cảm của người hậu phương gửi
ra tiền tuyến. Và những người đàn ông đừng hi vọng sẽ tìm thấy trong thư bất kỳ chi
tiết kể lể về những công việc cụ thể, những lo toan của người ở nhà.
Ở nơi hậu phương ấy, ai cũng muốn làm việc hết sức để xứng đáng với tiền
tuyến. “Tinh thần hy sinh vì tiền tuyến của bà con chung quanh, không thể nào kể
hết những vất vả hy sinh âm thầm của những người dân yêu nước bình thường giữa

15


những ngày tháng này.” Nói tóm lại đó là hình ảnh một hậu phương "tất cả cho tiền
tuyến".
Thoạt đầu chúng ta có thể có cảm giác chiến trường và hậu phương khác biệt
nhau. Chiến trường là nơi dân tộc ta nói chuyện với bọn đế quốc bằng súng đạn. Nơi
đó ngọn lửa chiến tranh ác liệt và dữ dội đụng mặt với tinh thần chiến đấu ngoan
cường. Đó là rừng, là Trường Sơn, là những doanh trại bộ đội, khu căn cứ quân sự
lớn của Mĩ, Ngụy. Hậu phương là nơi cuộc sống bị xáo trộn, bị tàn phá, là những
bước chân sơ tán gánh gồng, là phụ nữ, trẻ em, là một phần máu thịt đang quằn quại
dưới bom đạn kẻ thù. Nhưng ta thấy có một điểm chung to lớn là cuộc chiến đấu
không khoan nhượng với kẻ thù. Chiến trường anh dũng chiến đấu là để đem lại
cuộc sống tự do cho hậu phương. Ngược lại hậu phương luôn hướng về tiền tuyến
với tất cả tinh thần và vật chất. Những con người, những miền đất ở cách xa nhau
luôn có một sợi dây liên lạc vững bền và sâu sắc. Đó là mục đích giải phóng Tổ

quốc, độc lập dân tộc. Vì rằng “người nào cũng thù thằng Mĩ cả đấy!” Cả người
ngoài mặt trận lẫn người còn ở lại hậu phương đều mang trong dòng máu của mình
tình yêu nước sâu sắc và lòng tự hào dân tộc quý báu. “Tôi cảm thấy da mặt cứ nổi
gai lên, tim phồng to choáng cả lồng ngực, một nửa người tôi là máu chảy, nửa là
lửa cháy!”
3.2.2. Ý thức trách nhiệm
Khi người chiến sĩ phải đối diện với những tình huống, những hoàn cảnh hiểm
nguy, mất mát, đau thương nhưng vẫn luôn giữ tinh thần tỉnh táo, giữ trách nhiệm
hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Có thể nói, cuộc đời của Chính uỷ Kinh gắn với những năm tháng và mọi nẻo
đường kháng chiến. Tất cả suy nghĩ và hành động của ông đều hướng đến lợi ích tập
thể. Ông là hình mẫu tiêu biểu của một vị thủ trưởng chỉ huy luôn gác mọi chuyện
riêng tư, gia đình để một lòng phục vụ cách mạng, đến nỗi: “có lá thư của vợ cũng
để quên trong túi áo, mãi mấy ngày sau mới mở ra đọc”. Gặp Lữ, đứa con thân yêu
giữa chiến trường nhưng cũng “chỉ có thì giờ gặp con trong chốc lát như tiếp một
cán bộ cấp dưới nào đó, hỏi han dăm ba câu”. Khi Kinh bị thương ở vai trong lúc
đi thăm các cậu chiến sĩ pháo binh đi đào dũi về, ông không để tâm mình đang bị
thương mà chỉ dồn hết tâm trí “suy nghĩ về một cái kế hoạch đánh lấn sâu hơn, trong
những ngày sắp tới. Kế hoạch ấy giữa ông và Nhẫn đã bàn bạc kỹ, đã được đề nghị
lên cấp trên.” Khi nhận được tin Lữ hy sinh, ông kìm nén nỗi đau riêng để điều hành
công việc chung trước sự cảm động và kính phục của mọi người. “Tất cả các đồng
chí đang ngồi nói chuyện chung quanh chiếc bàn họp đều nín lặng và quay về phía
16


ông. Mọi người ngạc nhiên nhìn nhau khi nhớ lại vẻ mặt vẫn bình thản của ông trong
suốt cuộc họp thường vụ.” Chắc chắn là khi nhận được tin dữ, ông như đứt từng
khúc ruột. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, ông đã “gồng mình” chặn đứng mọi cảm xúc
để tránh không gây nên không khí bi lụy, hoang mang, ảnh hưởng không tốt đến tinh
thần chiến đấu của đơn vị. Nhưng khi chỉ có một mình, đối diện với nỗi mất mát quá

lớn, ông lại sống bằng cảm xúc thật của một người cha, lòng ông ngổn ngang, đau
xót. Giọt nước mắt duy nhất kể từ sau khi Lữ mất đã rơi khi ông nghe Hiền, một
chiến sĩ văn công hát. Ông ân hận biết bao khi chưa làm được gì cho con cái, chưa
gần gũi để hiểu hết những suy nghĩ của con, chưa chăm sóc con như lời vợ dặn:
“Ông thấy thương con vô hạn, xen lẫn một niềm tự hào ngấm ngầm, nhưng vẫn
không khỏi lo lắng, một nỗi lo mơ hồ và gần như bất lực”.
Nhẫn, một cán bộ cũng như Kinh, đảm nhiệm những công việc chung của
người chịu trách nhiệm chủ chốt trong đơn vị, đều nhằm mục đích chung là đánh
thắng địch. Nhẫn tâm niệm rằng “không bao giờ có quyền được để sót một kẽ hở
trong mọi kế hoạch tác chiến và hành động chỉ huy trên chiến trường.” Ông được
Kinh đánh giá “con người trẻ tuổi và trầm tĩnh ấy, tuy hoàn cảnh xuất thân và cá
tính có điểm hơi khác biệt với mình nhưng ở Nhẫn tinh thần trách nhiệm cũng như
lòng trung thành với cách mạng bao giờ cũng được biểu lộ bằng những việc làm cụ
thể, gần như một sự tinh thông về nghề nghiệp.” Khi Nhẫn nghe tin Khuê, cậu cần
vụ của mình hi sinh, Nhẫn chỉ “xếp tờ chứng minh thư và các giấy má, cả tấm sơ đồ
mộ chí mà ngôi mộ đánh dấu bằng một ngôi sao đỏ vào túi bản đồ riêng bằng mê
ca. Rồi Nhẫn vẫn bình thản tiếp tục trao đổi công việc với Kinh và sau đó điều khiển
cuộc hội ý giao ban như thường lệ.”
Như đồng chí Chủ nhiệm Mặt trận chính trị đã nói “Một cán bộ lãnh đạo nếu
quan niệm đúng phần việc và trách nhiệm của mình thì phát huy tác dụng đối với
đơn vị lớn vô cùng… Ví dụ tôi là chính ủy một trung đoàn, tôi phải làm sao cho chiến
sĩ và cán bộ đều trở thành những người có giác ngộ chính trị cao nắm vững kỹ thuật
và chiến thuật. Tôi phải biết chăm lo làm sao để có bên cạnh mình những cán bộ
quân sự trung thành với Đảng và có trình độ chỉ huy giỏi, khả năng chỉ huy của các
đồng chí ấy mỗi ngày một phát huy. Tôi phải làm sao có bên cạnh một đồng chí
trung đoàn trưởng có tài hơn mình về mặt tổ chức và chỉ huy chiến đấu, tôi sẽ coi
tài năng chuyên môn của đồng chí ấy là niềm vinh dự, là của cải tài sản của mình.”
Trách nhiệm của những cán bộ chỉ đạo nắm vai trò rất quan trọng trong thành bại
của cuộc chiến. Bởi vậy nên, dù trong hoàn cảnh nào, người cán bộ cũng phải ý thức
được trách nhiệm của mình.


17


Vì lẽ đó mà Lượng, bị thương nghiêm trọng trong một trận đánh, vất vả lắm
Nết và y sĩ Sinh mới cứu sống được anh. Trong những cơn mê sảng, con người ấy
chỉ thốt lên những câu như: "Cánh trái! Chuyển sang cánh trái!" Mỗi lúc hễ vừa
tỉnh lại được là Lượng nhớ ngay đến trận đánh vừa qua "Đáng lý phải có chừng
khoảng một tiểu đội đánh vòng sang cánh trái chiến hào địch!". Và anh tự trách
“đáng lý phải tập trung trung liên và bazôka nã đại vào, và đặt vào đó một quả bộc
phá gói. Xưa nay đối với địch, với bọn Mĩ, Lượng vẫn quen xử trí các tình huống ấy
như thế. Tại sao lần này anh đã dồn chúng vào chỗ chết để rồi dừng lại kêu gọi?”
Ý thức trách nhiệm khiến anh không thể an lòng nghỉ ngơi dưỡng thương như bao
chiến sĩ khác.
Hoạt sau khi bị lạc khỏi đồng đội thì anh “cảm giác tự thấy lẻ loi càng thấm
thía khi nghĩ tới cương vị của mình, cương vị một phó bí thư chi đoàn mà anh đang
giữ. Từ nay trở đi, Hoạt phải sống xa anh em, xa cuộc chiến đấu của đơn vị, làm sao
anh vẫn giữ được sự tín nhiệm ấy, nếu không phải trước con mắt mọi người thì cũng
trước danh dự một cán bộ chỉ huy và một cán bộ Đoàn, dù là cương vị cũng chỉ rất
nhỏ bé.”
Tinh thần trách nhiệm ấy không chỉ có ở những cán bộ lãnh đạo, mà ngay ở
từng cá nhân chiến sĩ, nó vẫn luôn hiện hữu. Khi Nết nhận được thư của Khuê, biết
tin mẹ và em trai đã mất, thế nhưng chị quyết không khóc “không bao giờ tao chịu
khóc đâu Dự ạ, lúc xong việc ở đây rồi thì tao sẽ khóc.” Nết biết rằng cuộc chiến
vẫn đang tiếp diễn, nhiệm vụ của một y sĩ như mình không cho phép chị ủy mị.
“Nhưng bây giờ anh chị em trong đội đang vội vàng chuẩn bị đón thương binh về,
mỗi người xẻ ra làm hai ba mà chưa làm hết việc, lẽ nào ngồi khóc? Làm sao sinh
ra người con gái giàu nước mắt vậy, nhưng Nết không rỏ một giọt nước mắt nào cho
mẹ và em ở nhà đã chết vì bom Mĩ. Hãy nghiến răng lại mà làm việc đừng quản ngày
đêm. Hãy nghiến răng lại mà chiến đấu và làm việc để trả thù cho những người thân

đã mất!” Biến đau thương thành sức mạnh diệt thù, đó là hành động mà một người
chiến sĩ như Nết phải làm.
Với phong thái lãng mạn, nghệ sĩ, trên những nẻo đường chiến đấu gian khổ,
thi thoảng Lữ vẫn thẫn thờ bởi ánh trăng trong đêm rừng ướt át, mơ màng về một
làn khói bếp giữa rừng Trường Sơn, tưởng tượng đó là “mái bếp và ngọn lửa của
hàng vạn ngôi nhà đem tới đây”. Nhưng khi được trực tiếp chiến đấu, với cương vị
của một chiến sĩ thông tin, Lữ lại bộc lộ khía cạnh khác của một phẩm chất người
lính: dũng cảm, thông minh, bất chấp gian nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Đã có lần

18


bị thương ngất đi, vậy mà tỉnh dậy “Lữ mừng muốn đến trào nước mắt khi anh nhận
ra cái vật đang đè trĩu ngay trên ngực mình vẫn là chiếc điện đài”.
Ở người chiến sĩ tất cả những cảm xúc, tình cảm cá nhân phải được gác lại,
tạm quên vì mục đích lớn nhất là hoàn thành nhiệm vụ của mình, từ đó hoàn thành
nhiệm vụ đánh tan giặc, cứu nước, cho dù phải gạt đi tình thân.
Hình ảnh ông cụ Phang, một người cha Vân Kiều có con theo Ngụy quân,
quay ngược lại với dân tộc trong cuộc truy đuổi đứa con trai duy nhất của mình thật
khiến người đọc xót xa.
Có thể nói từ sau khi thằng Kiếm theo Ngụy thì cuộc đời của cụ Phang là một
hành trình truy đuổi hắn, ông muốn giết hắn. Khi thằng Kiếm con ông về đe dọa
Xiêm, vợ hắn phải đi theo hắn thì “ông già chẳng nói chẳng rằng, khẩu súng săn
cầm lăm lăm trong tay, ông già vụt chạy qua đám cây gai trước mặt Xiêm rồi xông
thẳng vào giữa các bãi lau cao ngập đầu.” Dù cho cán bộ (Lượng) có chấp nhận
khoan hồng, cho Kiếm một cơ hội quay về làm lại cuộc đời thì ông cụ Phang vẫn
dứt khoát không tha thứ cho hắn. “Tôi là người trồng cây, một cái cây bị mối thì
phải hạ nó xuống. Tôi không chờ các anh về giải phóng để khoan hồng cho thằng
con trai của tôi đâu. Trước sau tôi cũng phải...”, “Tôi sẽ giết nó! Tôi đã quyết định
rồi. Tôi vẫn để dành cho nó một viên đạn trong khẩu súng săn của tôi kia! Ông lão

nuôi trong lòng cái ý định giết nó, giết hòn máu độc nhất của mình như một sự trả
thù chính mình. Cái ý định ấy thật dứt khoát sau khi ông lão đã suy nghĩ kỹ. Từ ngày
thị trấn Khe Sanh được giải phóng, ông cụ Phang được Uỷ ban Giải phóng huyện
giao nhiệm vụ vận động nhân dân các ấp chiến lược ra ngoài vùng giải phóng. Mỗi
đêm đưa được một số đồng bào trở về bên mình, ông lại nghĩ đến thằng con trai hiện
đang ở trong đồn Tà Cơn. Ông cụ nhớ nó, vừa căm giận vừa nhớ nó, bằng một chút
tình thương còn sót lại ẩn một chỗ rất sâu tận dưới đáy lòng người cha. Ông là một
người cha, dù thằng con trai có hư hỏng tội lỗi đến đâu thì suốt đời ông vẫn là cha
nó, người đã sinh ra và dạy dỗ nó. Vì thế ông lão đã đi làm cán bộ mà vẫn không
nguôi mối hận đối với con trai.” Ông thậm chí đã lén trốn vào đồn Tà Cơn để mang
hắn về, và nếu hắn không chịu về thì ông sẽ bắn chết hắn ngay trước bọn chúng. Là
một người cán bộ, đồng thời lại là một người cha, bên cạnh trách nhiệm chính trị,
còn là trách nhiệm của tình cha con.
3.2.3. Dũng cảm, mưu trí
Toàn bộ truyện ngắn Dấu chân người lính là bức tranh của đoàn quân chiến
đấu tại chiến trường Khe Sanh, bổi bật là hình ảnh những chiến sĩ gan góc, kiên
trung, đầy mưu trí.
19


Đó là đồng chí chính uỷ Kinh. Vị chính ủy này vừa khoẻ mạnh, nhanh nhẹn,
dứt khoát, đồng thời dũng cảm trong các trận đánh: “ông ta đánh nhau xông xáo lắm
đấy”, “Kinh trở nên hoạt bát chưa từng thấy (...) Kinh liền phổ biến kế hoạch tránh
oanh tạc trong khi cấp cứu và lấy thương binh”. Ông luôn nắm bắt nhanh các vấn
đề, hoàn tất công việc chuẩn bị chỉ trong nửa ngày mà “tất cả các khối việc ấy, đáng
lí một trận đánh “điểm” trong hoàn cảnh bình thường phải làm mất vài ngày”. Kinh
- người "đã bám thắt lưng địch là không bao giờ chịu thả ra", người đại diện cho
thế hệ cha anh vững như đá tảng sau hai cuộc kháng chiến.
Sau khi giải quyết xong hậu quả của loạt bom thứ nhất (năm đồng chí hi sinh,
gần một chục đồng chí bị thương), Kinh cùng các đồng chí còn lại của đại đội 6 vẫn

tiếp tục xông lên với quyết tâm “Chúng ta tiếp tục xuất kích! Những đồng chí vừa
hy sinh đang đòi chúng ta trả thù! Những đồng chí chúng ta vừa hy sinh không cho
phép chúng ta mất tinh thần và buồn bã. Tôi đề nghị với các đồng chí: chúng ta hãy
giơ cao súng và cười lên rồi xuất phát! Chúng ta hãy cười vào mặt chúng nó!”.
“Những cánh tay quấn băng nâng những khẩu súng trường và tiểu liên, những khẩu
súng máy. Tiếng thét diệt địch vang giữa những dịp cười. Tiếng thét phát ra từ những
trái tim đang bốc lửa. Tiếng thét đông đặc, phẫn nộ, rùng rùng khép kín như một
hàng ngũ xiết chặt.”
Đó là Lữ “đang ôm ngang lưng một thằng Mĩ chỉ cao bằng anh. Anh tìm
không thấy lưỡi lê cứ nhe răng cắn vào giữa cái gáy của hắn.”, “Lữ nín thở, bóp cò
thành hai nấc đúng yếu lĩnh như đã tập. Thằng Mĩ bị trúng viên đạn bắn thẳng giữa
ngực liền vật mình về phía sau nhưng chính hắn cũng đã kịp thời bóp cò, chỉ chậm
nửa tích tắc! Chính anh cũng không thể hiểu trong cái lúc giáp mặt với nó, sao anh
lại có thể ghê gớm và quyết liệt đến như thế?”
Lữ đã không còn là một cậu trai trẻ bồng bột mười sáu tuổi, anh đã là một
chiến sĩ. “Việc làm vừa qua khiến anh tự cảm thấy mình như một người nào khác:
"Mình không phải là một thằng học sinh chỉ biết đọc sách, trước việc gì cũng ngây
thơ mà mình vẫn tự đánh giá, mình cũng biết cầm súng chiến đấu, khi cần thiết cũng
có thể hành động quyết liệt như tất cả mọi người".”
Ngay cả khi đang lâm vào tình thế nguy nan, bom đánh sập một góc hầm của
Lữ, anh bị chúng phát hiện. Lữ vẫn bình tĩnh quan sát và xác định cái tình huống
đang xảy ra trước mặt. “Lữ giang hai cánh tay ôm chặt lấy cái đài như sợ chúng có
thể ùa vào cướp ngay trên tay anh. Anh ôm nó trong ngực, lúc này anh quý nó hơn
là tính mạng.” “Lữ đã quyết định một việc vô cùng hệ trọng đối với anh, và quyết
định hết sức nhẹ nhõm: Anh gọi bắn! Anh gọi rất hấp tấp, không kịp dùng ký hiệu
20


mật mã - "Chúng bay hãy cầu chúa đi!". Trong lòng anh chợt rung rinh một nỗi
mừng rỡ. Lữ nằm gục trên chiếc đài, những ngón tay vẫn nắm chặt cái ống tổ hợp…”

Ngay đến cái chết, anh cũng đón nhận một cách nhẹ nhàng, thanh thản. Đó là
một cái chết mang nhiều ý nghĩa, thể hiện đúng phong thái của nhân vật, không hề
gợi lên sự bi lụy, đớn đau: Lữ ra đi trong tư thế “ngồi ôm chiếc đài, đầu gục xuống,
y như sau một ngày làm việc mệt mỏi, ngủ thiếp đi”. Lữ ra đi, lòng hết sức thanh
thản bởi anh đã cống hiến trọn đời mình cho tổ quốc. “Người chiến sĩ điện thanh ấy
trước khi hy sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng:Trên nền trời cao, rất
cao và xanh, lá cờ đỏ mỗi lúc một thắm tươi đang bay, lá cờ mỗi lúc càng tiến dần
đến trước mặt. Dường như từ trong ngực anh, chiếc đài vẫn đang nói sang sảng.”
Tư thế hiên ngang của Lữ phút cuối cùng như vẻ đẹp của bao nhân vật khác như anh
Trỗi, như chị Sứ... Đó là vẻ đẹp chung của những anh hùng trong thời đạn bom.
Đó là Cận, một người lúc nào cũng bình thản đến phát sợ. Thế nhưng hai lần
anh đã cứu được hai chiếc phà bị cháy tưởng không thể nào cập bến được. “Trong
một vụ lụt lớn ở Tà Kh., Cận với mấy anh em công binh chỉ ăn dè mỗi ngày một dúm
gạo rang đã giữ một chiếc phà đôi đậu dập dềnh trên ngọn cây.” Khi phải một mình
đối mặt với gần một đại đội lính Mĩ. Cận cân nhắc suy nghĩ vạch ra một kế hoạch
hành động ban đầu. “Rồi tùy tình hình phát triển đến đâu sẽ xử trí đến đó. Hãy biết
rằng phải tranh thủ chủ động hành động ngay tức khắc.” “Cận nhẩy bổ vào giữa
một đại đội lính Mĩ, có hàng chục xác chết vì lưỡi lê và lựu đạn của anh, và rất nhiều
vũ khí, quân dụng chúng hốt hoảng bỏ chạy để lại. Anh em còn tìm thấy trên cái vệt
mũi súng của Cận đã đi qua có hai chiếc mũ vải thám báo, viên đạn bắn xuyên từ
bên này sang bên kia, cả hai chiếc đều bị bắn thủng như thế, bên trong lần vải lót
còn dính óc và máu.” Dưới cái nhìn của Lữ, anh là người chân thực và dũng cảm,
“một người không quen nói mà chỉ quen nhận lấy những phần việc khó khăn nhất”.
Một người bình thường như Cận vậy mà lại trở nên lẫm liệt trước kẻ thù, một người
như Cận “làm sao địch có thể "hạ thủ” dễ dàng được !”
Đó là Khuê, thằng “chính ủy con”, đôi khi cũng trẻ con nhưng khi đã vào trận
thì không kém gan góc. “Khuê mở mắt trừng trừng bốn chung quanh. Anh cứ ôm
súng nhằm thẳng hướng tiếng súng trường và tiếng súng máy lao tới, dẫn cả tiểu đội
xung phong thành hàng ngang đâm thẳng vào giữa đội hình đang còn lộn xộn của
một toán quân Mĩ vừa từ trên trực thăng đổ xuống.” Lần tiến công ấy “như một mũi

dao nhọn chọc thẳng vào giữa đội hình quân Mĩ trên đồi cát”. Trận đánh nổi tiếng
ấy về sau được tường thuật trên một tờ báo nghiên cứu quân sự, xem như một sáng
tạo về chiến thuật đánh quân đổ bộ đường không.
21


Khi Khuê làm đại đội phó, phải thay Lượng nắm và theo dõi toàn bộ tình hình
địch. Anh tinh tế phân tích tình hình ta và địch. “Mà thằng Mĩ vào giai đoạn này thì
sao? Chúng cũng biết nghi binh, cũng khôn ngoan, lại hết sức cơ động! Đầu óc tỉnh
táo của Khuê như một cái đĩa máy rađa, hãy lắng nghe thật kỹ, hãy chụp bắt lấy
thằng địch trong cái tình hình gần đúng sự thật nhất. Không có một thứ nghiệp vụ
quân sự nào cần thiết phải biết tin và biết hoài nghi như công việc trinh sát ở chiến
trường.” “Hãy nắm tình hình xong đã, hãy lắng nghe đã!”
Khi đã xác định được thời cơ thuận lợi cần phải tấn công ngay (về sáng địch
đang ngủ say, canh gác chểnh mảng. Ta trinh sát hoàn toàn giữ được bí mật), Khuê
không do dự “Nếu có báo cáo về thì bộ đội cũng không thể vận động tới đây kịp
được nữa!”. Khuê tập hợp tiểu đội trinh sát và phổ biến một quyết định chớp nhoáng:
Anh hạ lệnh cho họ chuẩn bị chiến đấu. Sau này, khi Nhẫn nghe báo cáo chỉ biết
mỉm cười: "Cái thằng có gan thật!".
Đó còn là vô số những chiến sĩ dũng cảm, mưu trí như Đàm với khuôn mặt
đẫm máu đầy sát khí, để cản không cho bọn địch bắt được Lữ, anh đã lăn vào giữa
chúng, hai tay cầm lăm lăm hai quả lựu đạn. Như sự cẩn trọng của Lượng “Sự yên
tĩnh thăm thẳm khiến cho Lượng càng phải đề cao cảnh giác. Anh tổ chức khu vực
trú quân hết sức bí mật. Mỗi khi phái một toán trinh sát ra ngoài anh đều theo dõi
chặt chẽ.” Còn Nhẫn thì “quy định đồ đạc mang theo của tất cả mọi người, từ trung
đoàn trưởng đến liên lạc, ngoài vũ khí mỗi người chỉ có một mảnh vải bạt và một
cái ruột tượng đựng cơm nắm quấn quanh bụng. Tất cả phải bỏ hết giày dép, qua
gai góc và bãi tranh đều phải đi chân đất lồng bít tất. Lúc qua suối không được đạp
lên đá. Phân phải chôn rất sâu ăn cơm không được để vãi một hạt. Cấm hút thuốc,
cấm nói to, cấm lộ lửa. Ngủ xong phải dẹm cỏ lại như cũ hoặc lăn tròn một vạt giống

y hệt dấu voi. Chỉ có trong vòng không đầy một tháng, gần ba chục người ngồi bên
nhau cũng không ngửi thấy mùi mồ hôi xông lên nữa.” Như một cán bộ tiểu đoàn
phụ trách một trung đội đánh một trận quân địch chết như ngả rạ. “Đồng chí tiểu đội
trưởng ấy bây giờ đã là đại đội trưởng, nhân một lần nói chuyện với một phái viên
từ trên Bộ tư lệnh xuống, chợt hiểu ra chính mình đã vô tình vận dụng bao nhiêu thứ
chiến thuật trong các sách vở chưa hề đọc.” Như “bố” Đảo, người “hỏa đầu quân”
mà “cả cái chiến trường Khe Sanh này có bao nhiêu bãi xác lính Mĩ mà tao chả
trông thấy vài lượt, chả nhón chân bước qua vài lượt.” Như Vượng “ngồi giữa đống
đất tơi vụn cao lù lù như quả núi, vừa nhai cơm nắm vừa nhìn chúng bằng cặp mắt
lầm lầm. Không một thằng địch nào dám mon men đến gần cái đống đất ấy!” Như
cụ Phang có công giúp nhiều đồng chí vượt ngục trở về hoạt động cho phong trào

22


Việt minh bí mật. Như Moan, cậu chiến sĩ thiện xạ. Như Hoạt, như Nết, như Dự,
như Uy, như bác sĩ Lan, như y sĩ Sinh, như Hiền…
Bên cạnh hình ảnh những người chiến sĩ dũng cảm, không thể quên đề cập
đến tập thể dũng cảm. “Khi tiếng súng chiến dịch Khe Sanh bắt đầu thì người chiến
sĩ nào cũng vậy, đều hướng tất cả tâm trí của mình vào những trận đánh liên tiếp,
vào một cuộc bao vây đầy gian khổ và kiên nhẫn, tất cả mọi nòng súng đều hướng
về phía quân Mĩ trước mặt. Những người chiến sĩ Giải phóng đứng trước những trận
đánh quyết liệt hầu như không ai có thì giờ nghĩ tới một mùa Xuân mới đang đến,
và một cuộc sống mới đang vỡ ra phía sau họ.”
Theo nhà thơ Thái Văn “mỗi thế hệ bước vào cuộc chiến đấu với một dáng
cầm súng khác nhau.” Có cái gì khác nhau trong vẻ đẹp của lớp người cầm súng
trước đây và lớp người hôm nay? Ngày xưa, những người lính nông dân cầm khẩu
súng để chiến đấu cho Tổ quốc đồng thời cho mảnh vườn và mái nhà của mình. Ngày
nay, đội quân ấy không chỉ là những anh nông dân, mà là muôn vạn thành phần. Họ
chung nhau “trên khuôn mặt từng người, tất cả ý chí giết giặc thể hiện trong mưa

nắng và gian khổ trên các chặng đường hành quân dọc Trường Sơn đang được cô
đúc lại”. Kinh đi giữa đoàn người ấy như đi giữa một khối thuốc nổ.
Chính chúng nó, bọn giặc Mĩ ấy là những đứa đã gieo bao cảnh tàn phá và
chết chóc xuống đất nước “khiến nhiều lần trái tim anh như thắt lại vì đau đớn. Bọn
ăn cướp Mĩ ấy, chính chúng nó đang muốn đem sự dã man của thú vật và sức mạnh
của máy móc đè lên dân tộc anh. Vì thế mà anh đã giết nó, chính bàn tay anh đã
cầm khẩu súng trường bắn chết nó.” Trước cảnh mất nước “lúc này không có một
thứ tài năng nào quý bằng tài năng đánh giặc, không có một thứ chuyện nào hay
bằng chuyện nói với thằng Mĩ bằng súng đạn đâu!”
Như một kết quả tất yếu, đổi lại quyết tâm, lòng dũng cảm, cũng như mưu trí,
chiến lược của biết bao chiến sĩ tại chiến trường Khe Sanh đó là sự thất bại của Mĩ,
Ngụy. “Chỉ qua một ngày đêm, mới tính riêng trung đoàn 5 đã diệt hơn bốn trăm
Mĩ và ngụy, đã tổ chức những trận đánh hết sức linh hoạt và liên tục”.
Chiến công của bộ đội ta trên ngọn Đồi không tên sẽ được ghi vào sử sách
“gần một chục chiến sĩ trẻ tuổi, tất cả đều là đoàn viên thanh niên do một đồng chí
đảng viên chỉ huy, họ đã đem ngực mình dựng thành chiến lũy cản mười đợt tấn
công điên cuồng của địch. Họ đã chiến đấu đến người cuối cùng, không có một tên
lính Mĩ nào bước nổi qua cái mảnh đất của Tổ quốc họ đứng cầm súng và ngã
xuống”. “Cuối cùng bao nhiêu lời cam kết "bọc bằng thép" của bọn cầm đầu nước
Mĩ đã phải tính đến bước đường tháo chạy khỏi thung lũng Khe Sanh”.
23


Chúng ta đã khiến cho từ chính khách đến tướng tá Mĩ đều la ó và nơm nớp
mất ăn mất ngủ! “Tất cả mọi thứ ở cái căn cứ chiếm đóng nổi tiếng này đã được xe
ủi đất và các đội phá hoại san bằng địa. Nhưng không có xe ủi đất nào có thể xóa
nhòa được trong ký ức những người lính Mĩ mặc áo cổ da hình ảnh sinh động của
một cuộc phòng thủ bi thảm.”
Làm thế nào mà chúng tiêu diệt được cuộc sống? Cuộc sống là thế, bởi vì cuộc
sống bao giờ cũng lâu bền và bất diệt, cũng như ngọn lửa cháy từ muôn đời.

3.2.4. Tinh thần chiến đấu lạc quan
Suốt chặng đường hành quân và chiến đấu, những người lính phải trải qua biết
bao gian khổ, bơm đạn máu lửa triền miên ấy vậy mà trong tâm hồn họ vẫn ánh lên
tin thần lạc quan, tin tưởng bản thân, tin tưởng cách mạng, tin tưởng tương lai chiến
thắng, luôn hướng tới phía trước, không lui bước – “Kẻ địch không thể ngăn cản
được chúng ta” đó là lời của chính ủy Kinh cổ vũ tinh thần các chiến sĩ.
Những ngày hành quân, các chiến sĩ đi qua những con đường gập ghềnh, một
số chiến sĩ phải mang vác nhiều thứ kềnh càng, mồ hôi ướt đẫm áo, thở hỗn hển, vậy
mà trên đường đi họ trò chuyện với nhau có khi đọc vang những câu thơ tràn ngập
niềm tin yêu, phơi phới:
Trường Sơn ơi, ta lại đến bên người
Hay:
Ta đi đây lòng ta như bay
(Tố Hữu)
Có khi họ hỏi thăm nhau về gia đình, vợ con, rồi lại đùa nhau làm mai mối: “
Tớ có một đứa em gái mắt sắt như dao đang công tác trong khu rừng này, cậu nào
bên ấy khao tớ một điếu thuốc lào tớ gả ngay cho bây giờ” và người khác đáp lại
“Chỉ tán phét là giỏi”.
Đôi khi là những lời bịa chuyện, pha trò của các chiến sĩ, tạo không khí cho
cuộc sống của các chiến sĩ bớt hiu quạnh và heo hút. Đó là Đàm, một cậu rất vui tính
nguyên trước khi làm giáo viên, khi kể câu chuyện tình của cậu với cô học trò vùng
biển, có một đoạn như sau:
“Mấy đứa học trò con gái đang chuẩn bị hồ sơ thi vào các trường trung cấp, xin
được chứ ký xong chúng nó còn cóc lên đầu tớ. Có đứa lớn nhất đã cả gan xé vạt
lưng áo của tớ rồi ù té chạy, miệng nói: “Mai tui mang kim chỉ sang vá áo cho thầy”
24


Lữ cùng mấy cậu ngồi nghe cứ ngây ra, tất cả đều bị hấp dẫn bởi câu chuyện của
Đàm. Một cậu sốt ruột hỏi:

Ngày mai con bé học trò có sang vá áo cho cậu không?
Làm gì có!... Chỉ có bà mẹ cô ta sang tìm tớ….”
Câu chuyện cứ thế tiếp diễn, không khí vui vẻ náo nhiệt, hết chuyện này lại
kể sang chuyện khác, “chẳng đâu vào đâu cả”. Chính sự lạc quan ấy khiến cho họ
quên đi mọi sự gian khổ, không ngại khó khăn vững vàng tiến bước.
Cái thú vui của các chiến sĩ đâu chỉ thế, một hôm Cận mang về cho Lữ món
quà đó là một con chim bông lau. Con chim này khiến cho các chiến sĩ có một cuộc
tranh luận ầm ĩ về tên của nó. Thế đấy cuộc sống của họ giản dị mà đầy ấp tiếng nói
cười, có cả chim muôn bầu bạn thì còn gì bằng! với họ tiếng chim không chỉ là ở nơi
thanh bình mà ở chiến trường này: “Dưới đất toàn mảnh bom là mảnh bom thế này!
Phải tập đậu trên cái mảnh bơm mà hót” như các chiến sĩ lúc nào cũng vui vẻ hát
hò…
Trên chiến trường, được chiến đấu là một niềm vui, niềm vinh dự của các
chiến sĩ. Một khi được lệnh của cấp trên cho phép chiến đấu, họ vui mừng hơn có
được vàng: “Được đi đánh rồi! chúng mình vắt chân lên cổ mà kịp chạy về cho kịp
xuất kích, đi nào an hem ơi!”. Thế là bọn họ hăng hái ra chiến trường chiến đấu bằng
tất cả niềm tin chiến thắng không ngại gian khổ hi sinh. Kể cả lúc sự sống và cái chết
chỉ còn trong gang tấc, Lữ – người lính anh hùng của chúng ta vẫn không hề sợ hãi,
luôn có niềm tin chiến thắng mãnh liệt: “Người chiến sĩ điện thanh ấy trước khi hi
sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng: Trên nền trời cao, rất cao và xanh,
lá cờ đỏ mỗi lúc một thắm tươi đang bay, lá cờ mỗi lúc càng tiến dần đến trước
mặt.”
Tinh thần lạc quan, say mê chiến đấu là một trong những nét đẹp của người
lính, bộ đội Cụ Hồ, đó cũng là kết tinh tinh thần của dân tộc, con người Việt Nam,
con người sử thi.
3.2.5. Tình đồng chí, đoàn kết
Nơi chiến trường khắc nghiệt, những chiến sĩ đối đãi với nhau bằng thứ tình
cảm gọi là tình đồng chí. Đó là thứ tình cảm tất yếu và cũng là cái làm nên sức mạnh
chiến đấu của họ. Họ giúp đỡ nhau, chăm sóc nhau, và lúc gay cấn nhất họ có thể hi
sinh hỗ trợ đồng đội của mình hoàn thành nhiệm vụ, vì công cuộc bảo vệ đất nước.

Đó chính là con người sử thi, con người của cộng đồng, đặt lợi ích cách mạng, lợi
ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân.
25


×