Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Chứng minh sự ra đời tư tưởng của Hồ Chí Minh là tất yếu lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.62 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của
Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết
chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện
những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên
Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bànsâu về vấn đề
đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3-21969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn
Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng bước
và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cáchmạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa
văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp
thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng
phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện
về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm chất đạo
đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo
đức với mỗi người cách mạng.
Tư tưởng tiên tiến ấy đã được hình thành trong nhà lãnh đạo vĩ đại của chúng ta từ
cả hai cơ sở khách quan và chủ quan.

I. Cơ sở khách quan
1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh


a) Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX


Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến
động
Trong nước chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc xâm
lược của tư bản Pháp, lần lượt ký các hiệp ước thừa nhận nền bảo hộ của thực dân
Pháp. Việt Nam trở thảnh nước thuộc địa nửa phong kiến. Các cuộc khai thác của
thực dân Pháp khiến xã hội Việt Nam chuyển biến và phân hóa giai cấp tạo ra các
mâu thuẫn xã hội. Tầng lớp tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện, tạo ra những
tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ
XX.
Phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi từ các sĩ phu yêu nước có tư tưởng tiến bộ, tiêu
biểu, thức thời như : Phan Bội Châu chủ trương cầu ngoại viện, dùng bạo lực khôi
phục độc lập; Phan Châu Trinh khai thông dân trí dần tính chuyện giải phóng theo
chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ” ; còn con đườngcủa anh hung Hoàng Hoa Thám
lại mang nặng cốt cách phong kiến, chưa phải là lối thoát rõ ràng, hướng đi đúng
đắn nên các cuộc khởi nghĩa lần lượt thất bại. Đặt ra, phong trào yêu nước muốn
thắng lợi phải đi theo một con đường mới.
b) Bối cảnh thời đại.
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền,
xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Lúc này chủ nghĩa đế
quốc không chỉ dừng lại ở sự áp bức trong chính quốc mà đã mở rộng ra sự áp bức
các dân tộc khác trên thế giới. Vì thế cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không còn
là hành động riêng lẻ nữa mà trở thành cuộc đấu tranh chung của dân tộc thuộc địa
chóng đế quốc. Tư bản chủ nghĩa vẫn duy trì sự bóc lột trước kia. Bên cạnh các
giai cấp cơ bản cũ đã xuất hiện các giai cấp, tầng lớp xã hội mới: giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản.
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa vào cuối thế kỉ
XIX, đầuthế kỷ XX đã dẫn đến cao trào cách mạng thế giới với đỉnh cao là sự bùng
nổ của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu
Á”. Cuộc cách mạng đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền Xô viết, mở



ra thời kỳ mới trong lịch sử loài người, nêu lên tấm gương sáng về sự giải phóng
các dân tộc bị áp bức, những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
2. Những tiền đề, tư tưởng- lý luận
a) Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam có mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho
mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt
đẹp, cao quý.
Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và
giữ nước.Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử Việt Nam, là
chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa tinh thần người Việt. Mọi học
thuyết đạo đức, tôn giáo ngoại nhập đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của
tư tưởng yêu nước.
Thứ hai, đó là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái.
Truyền thống này hình thành cùng sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu
đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Đến những năm đầu của thế
kỷ XX, xã hội Việt Nam đã có sự phân hóa giai cấp, nhưng truyền thống này vẫn
rất bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy sức mạnh truyền thống này mà
nhấn mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
Thứ ba, Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh thần lạc
quan, trong muôn gian nguy vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay
chèo” có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân, tin vào sự tất thắng của
chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của tinh thần lạc quan đó.
Thứ tư, Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản
xuất và chiến đấu, nên cũng là một dân tộc ham học hỏi và không ngừng mở rộng
cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam đã rất xa
lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc
văn hóa dân tộc, nhân dân ta đã biết chắt lọc, tiếp thu cái tốt, cái hay, cái đẹp của
nhân loại tạo nên những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động
và trọn vẹn của truyền thống. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục

chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho
cuộc đấu tranh giải phóngdân tộc.


b) Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, từ nhỏ Hồ Chí Minh đã hấp thụ một nền
Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài Người đã khôngngừng
làm giàu trí tuệ mình bằng tinh hoa văn hóa nhân loại. Khi đấu tranh, Người viết
văn Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo phương Tây thực thụ, nhưng khi có
nhu cầu “tự bạch” thì Người lại làm thơ bằng chữ Hán. Đó là nét đặc sắc trong sự
kết hợp hài hòa văn hóa Đông-Tây ở Hồ Chí Minh.
*Tư tưởng văn hóa phương Đông:
Nho giáo chứa đựng nhiều yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như: tư tưởng đẳng
cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ v.v.. là những điều thường bị Hồ Chí
Minh phê phán, bác bỏ. Nhưng Nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích cực như triết lý
hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, lý tưởng về một xã hội bình trị.
Đó là ước vọng về một xã hội an ninh, hòa mục, một thế giới đại đồng, triết lý
nhân sinh, tu thân, dưỡng tính; đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học. Đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, kế thừa, cải tạo cho phù hợp
để phục vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng
chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để
lại”.
Phật giáo là một tôn giáo, có mặt tiêu cực là duy tâm, tuyệt đối hóa sự vận động
của thế giới mà không thấy tính đứng im tương đối của vạn vật, nên chỉ thấy một
thế giới huyễn, ảo, giả tồn tại.Nhưng Phật giáo cũng có những mặt tích cực đã để
lại dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động và cách ứng xử của người Việt. Đó là tư
tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân;
nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; tinh thần bình
đẳng, dân chủ chất phác, chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp; đề cao lao động,
chống lười biếng “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”; Phật giáo Việt Nam - thiền

phái Trúc Lâm - chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất
nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân
tộc. Đó là những điều để lại dấu ấn sâu sắc trong gia đình Hồ Chí Minh và bản thân
Người.
Ngoài ra, trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh còn chứa đựng tư tưởng của
Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử, Tôn Trung Sơn v.v... Là người mác-xít tỉnh táo và sáng


suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa
phương Đông để phục vụ sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.
*Tư tưởng văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh đã sống chủ yếu ở châu Âu, và ngay tại các trung tâm văn hóa lớn
nhất của phương Tây, nên chịu ảnh hưởng rất sâu rộng nền văn hóa dân chủ cách
mạng của phương Tây. Khi còn học ở trường Tiểu học Đông Ba, rồi vào học ở
Quốc học, Nguyễn Tất Thành đã làm quen với văn hóa Pháp, đặc biệt rất ham mê
tìm hiểu Đại cách mạng Pháp 1789.
Khi ra nước ngoài, những tháng năm sống tại Mỹ, Người đã sống ở New York, làm
thuê ở Bruclin và thường đến thăm khu ở của người da đen tại Haclem, Người đã
rất chú ý đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người
được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ 1776.Năm 1913, khi sang Anh,
Người đã gia nhập công đoàn thủy thủ, cùng giai cấp công nhân Anh tham gia các
cuộc biểu tình, đình công bên bờ sông Thêm-dơ.
Cuối năm 1917, Người đến sống và hoạt động tại Pari, trung tâm văn hóa và nghệ
thuật của châu Âu. Tại đây, Người đã có thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn
tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ Pháp.
Tại Pháp, với nghề làm báo, Người phải nhanh chóng làm chủ được ngôn ngữ và
văn hóa Pháp. Người tiếp xúc với các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai
sáng:Vonte (Voltaire), Rutxô (Rousseau), Môngtecxkiơ (Montesquieu),.. những lý
luận gia của Đại cách mạng Pháp 1789, như “Tinh thần pháp luật” của
Môngteckiơ, “Khế ước xã hội” của Rutxô,.. Tư tưởng dân chủ của các nhà khai

sáng Pháp đã cóảnh hưởng tới tư tưởng của Người.
Ngoài ra, Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân
chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Người có thể tự do hội họp, tham gia
đảng phái, ra báo, phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm của mình trước dư luận
Pháp, phê phán bọn quan lại, vua chúa của nước mình và cả bọn thống sứ, toàn
quyền Pháp tại Đông Dương. Người còn học được cách làm việc dân chủ ngay
trong cách sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt
chính trị của Đảng Xã hội Pháp, nhất là không khí tranh luận ở Đại hội Tua (tháng
12/1920).


Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với các thành tựu hiệ
đại của văn minh phương Tây – đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành
tư tưởng, nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh. Người đã tự biết làm giàu trí tuệ của
mình bằng vốn trí tuệ của thời đại , Đông và Tây, vừa tiếp thu, vừa gạn lọc để từ
tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và
phát triển.
Tóm lại, được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và được sự cổ vũ, dìu
dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Phápnhư M.Casanh
(M.Cachin), P.V.Cutuyariê (Couturier), G.Môngmutxô (G.Monmousseau),..Người
đã từng bước trưởng thành. Trên hành trình cứu nước, Người đã biết làm giàu trí
tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa gặt hái, vừa gạn lọc,
kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
c) Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Leenin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác – Lenin là học thuyết khoa học và cách mạng, là
đỉnh cao của trí tuệ loài người, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Leenin dựa trên nền tảng của những
tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ bởi một trí tuệ bản lĩnh, tư duy độc
lập, tự chủ và sáng tạo.

Thứ nhất, khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh với một vốn tri thức chắc
chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, Người đã nhận ra rằng, các phong trào yêu nước
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tựu trung chỉ xoay quanh hai đường lối quân chủ
hay dân chủ, hai phương pháp cách mạng hay cải lương. Cả hai đường lối và hai
phương pháp ấy đều không thỏa mãn được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều
kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một lực lượng quốc tế.
Trong 10 năm đầu (1911-1920) của quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người
đã hoàn thiện cho mìnhmột vốn văn hóa, chính trị và vốn sống thực tiễn phong
phú, tạo thành một bản lĩnh trí tuệ mà không một nhà cách mạng trẻ tuổi Việt Nam
nào vào thời ấy có thể so sánh được. Cái bản lĩnh ấy đã giúp Người tiếp thu, vận
dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam một cách trung thành mà không
sao chép.


Thứ hai, khác với các nhà trí thức tư sản phương Tây, khi đến với Chủ nghĩa MácLênin là đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơn là
hành động, Nguyễn Ai Quốc đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin là để tìm kim chỉ nam
cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Người tâm sự “Lúc bấy giờ, tôi ủng
hộ cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên.. Tôi kính yêu Lênin vì
Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình.. Tôi tham gia
Đảng Xã hội Pháp là vì các “ông bà” ấy đã đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh
của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi chưa hiểu. Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước,
chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế
III”. Tác phẩm của Lênin, “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” đã chỉ rõ
mối quan hệ gắn bó, thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản với sự
nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Nhờ nó, Người đã tìm thấy “con đường
giải phóng của chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc
hơn.
Thứ ba, khi đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã tiếp thu phương pháp nhận
thức mac-xit, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất, không rập khuôn máy móc,

không sao chép giáo điều. Người vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin để tự tìm ra
những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng
thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn
trong sách vở kinh điển.
Đặc biệt, chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh thực chất
là chặng đường chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh
được những sai lầm dẫn đến ngõ cụt. Thế giới quan và phương pháp luận Mác –
Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra
con đường cứu nước: “trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin,
vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới”, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Chủ nghĩa Mác-Lênin, những
phạm trù của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của


Chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự vận dụng sáng
tạo, phát triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp
bức vùng lên giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới.
II. Cơ sở chủ quan.
1. Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh
*Tư duy độc lập
Chủ tịch Hồ Chí Minh lớn lên trong bối cảnh đất nước bị đô hộ,sớm tiếp thu tinh
thần yêu nước của các bậc tiền bối,Bác luôn muốn tìm con đường giải phóng dân
tộc. Vượt lên những nhà tiền bối về hệ tư tưởng, Bác nhận thấy thời thế đã thay
đổi, không thể dùng những tư tuởng cũ, những phương pháp cũ nên giải phóng dân
tộc phải bằng cách mới.
Bác quan niệm muốn chiến thắng kẻ thù thì phải hiểu rõ kẻ thù.Vậy nên ngày

5/6/1911 bác lên đường sang pháp với hai bàn tay trắng với hành trang là nghị lực
và lòng yêu nước sâu sắc mong muốn học hỏi tiếp thu những tinh hoa và tiến bộ
của phương tây tìm ra con đường cứu nước
*Nhà chiến lược thiên tài
Bác luôn lao động,học tập,đấu tranh và vận động quốc tế không ngừng nghỉ trực
tiếp thành lập,tổ chức, lãnh đạo đảng ta tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã khám phá các quy
luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong
hoàn cảnh cụ thể để khái quát hình thành lý luận, đem lý luận vào chỉ đạo thực tiễn
và kiểm nghiệm trong thực tiễn từ đó tìm ra hướng đi cho con đường cách mạng.
*Khả năng dự đoán kỳ diệu
Nhờ nắm vững,vận dụng sáng tạo lý luận và phương pháp luận Mác-Lê-nin Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khái quát, tổng kết lịch sử- thực tiễn từ đó nắm chính xác đặc
điểm xu thế phát triển của thời đại cùng năng lực nhìn xa trông rộng, Bác đã dự
đoán hướng đi đúng đắn cho cách mạng ta.
2. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn


Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và sự
nhận thức đúng đắn về thời dại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu
quả cho dân tộc và nhân loại. Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và
trí tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh. Bác có tư duy độc lập, tự chủ,tính sáng tạo ,có
óc phê phán tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu,tìm hiểu các cuộc cách
mạng lớn trên thế giới từ đó tìm ra lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới,
trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sang tạo về
cách mạng Việt Nam, kiên trì chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo
để đưa cách mạng đến thắng lợi. Phẩm chất của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự
khổ công rèn luyện để tiếp thu được những kiến thức phong phú của nhân loại.
Người không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức vốn kinh nghiệm đấu
tranh của các phong trào giải phóng dân tộc. Nhân cách,phẩm chất ,tài năng và trí

tuệ của HCM đã giúp Người đến với chủ nghĩa Mác- Lênin và tiếp thu được các
giá trị văn hóa nhân loại. Bác có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại,một chiến
sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng ;một trái tim yêu thương nhân dân,thương người
cùng khổ,sẵn sàng chịu hi sinh vì độc lập của Tổ Quốc,vì hạnh phúc của nhân dân.
Bác Hồ từ một người tìm đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho cả
dân tộc đi theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu hiện trong sáng, cao thượng về nhân cách con
người của dân tộc Việt Nam. Là lãnh tụ của một cuộc cách mạng, của những cuộc
kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ chống lại những kẻ thù hung bạo nhất…, nhưng
điều đó không làm Người mất đi lòng tin vào mỗi con người. Khoan dung, tôn
trọng sự khác biệt, giàu lòng thương người, tin vào tinh thần yêu nước và lương tri
của mọi người dân Việt Nam là một trong những nét đặc biệt trong tư duy chính trị,
trong cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với những người lầm đường, lạc
lối, Người nói: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều
hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, người thế
khác… Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng, đã là con Lạc cháu
Hồng, thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ...”.
Đối với sự hy sinh của chiến sĩ ta và tử nạn của binh sĩ Pháp, Người nói: “Tôi
nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam… Tôi cũng
ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong… Than ôi, trước lòng bác


ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng
đều là người.”
Có thể nói, lý tưởng cách mạng, nói rộng hơn là triết lý sống của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là biểu hiện tập trung nhân cách cao thượng và trong sáng của dân tộc ta.
Trong tài liệu đào tạo lý luận Mác - Lê-nin cho lớp cán bộ trẻ ở Quảng Châu (tác
phẩm “Đường Kách mệnh”, xuất bản năm 1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt lên
hàng đầu “Tư cách một người cách mệnh”, trong đó Người đòi hỏi người cách

mạng: “Tự mình phải giữ chủ nghĩa cho vững”, đặc biệt là “Ít lòng tham muốn về
vật chất”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi xem xét cán bộ phải lấy “đạo đức cách mạng
là gốc”, là điều kiện, là tiền đề cho các phẩm chất khác.
Trong dịp xuất bản sách “Người tốt, việc tốt”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Một
dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến, ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” . Như vậy là với Chủ
tịch Hồ Chí Minh, những giá trị cao đẹp của mỗi cá nhân, của đảng cầm quyền,
thậm chí ngay cả của một dân tộc cũng có thể thay đổi trong đánh giá của nhân
dân, của cộng đồng quốc tế, nếu mỗi người, mỗi đảng cầm quyền, thậm chí mỗi
dân tộc không biết tự bảo vệ và phát triển những giá trị đó.
Lẽ sống, triết lý sống Hồ Chí Minh, không phải là khổ hạnh, càng không phải là
diệt dục, mà đó là một quan niệm sống hài hòa, giản dị, khiêm nhường, thanh cao.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách quan và
chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ thực
tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh tế với
một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư
tưởng Việt Nam hiện đại.

KẾT LUẬN
Với bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân; khiêm tốn, giản dị, ham học hỏi;
nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, Hồ Chí
Minh đã khám phá ra lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới.


Phản biện đề tài : “Chứng minh sự ra đời tư tưởng của Hồ Chí Minh là tất yếu lịch
sử ‘’
Câu hỏi :
1.”Các tư tưởng của thời đại, được coi là tất yếu khách quan hay chủ quan trong sự
ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh ?

-Trả lời : Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mac-Lenin, lòng yêu
nước và tự hào dân tộc và kết hợp với các tư tưởng của thời đại phù hợp với quy
luật phát triển tất yếu của thời đại tiến lên XHCN và tư bản lỗi thời , nên sự ra đời
HCM là tất yếu khách quan .
2. (câu hỏi phụ ) “ theo bạn ,bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh vào ngày 29-1945 đã đủ chứng minh được tên đề tài chưa “?
-Trả lời : Không hoàn toàn , một tư tưởng sáng tạo , tuyệt diệu và làm cho cả thế
giới thức tỉnh còn phụ thuộc vào các yếu tố khác , cái đó gọi là khách quan .
3.Về yếu tố khách quan , làm rõ quan điểm chủ nghĩa Mac –Lenin là nguồn gốc ra
đời của của tư tưởng Hồ Chí Minh ?
-Trả lời : Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới
quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và công nhân trong đấu tranh
xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đối với
Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng có nghĩa là đến với con đường cách
mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt


để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới
Đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có bước
nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp
dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu
nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất, của
tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư tưởng

Mác - Lê-nin, hay nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền
tảng của nó là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cho nên, có thể nói, ở Việt Nam, giương
cao tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là giương cao chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Muốn bảo
vệ và quán triệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách có hiệu quả, phải bảo vệ, quán
triệt .và giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử mà cũng là lô-gíc của vấn
đề. Nó giúp chỉ ra sai lầm của quan niệm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin.
4. Chỉ ra những hạn chế dẫn đến sự thất bại của những phong trào yêu nước cuối
thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX . Theo các bạn những phong trào này tác động như thế
nào đến sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời :
Cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, bối cảnh lịch sử Việt Nam có nhiều biến động.
Thời kì này đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tục và sôi nổi , tuy nhiên đều
thất bại. Nguyên nhân do :
Thiếu đường lối đúng đắn,thiếu tổ chức và lực lượng
Chưa có chính Đảng lãnh đạo
Diễn ra lẻ tẻ,đa số đều mang tính tự phát và bị động
Chưa tập hợp được sức mạnh quần chúng nhân dân,chưa thấy được khả năng
lãnh đạo của giai cấp công nhân.


Dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước này đã chứng minh cho việc : muốn
giải phóng dân tộc thì phải đi theo một con đường mới. Điều này đã thôi thúc
Người phải tìm ra một hướng đi khác cho cách mạng Việt Nam và từ đó từng bước
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói những phong trào yêu nước thời
kì này đã tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Tại sao có thể nói chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc chủ yếu cho sự ra đời
của tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời:
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định : chủ

nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chân chính, khoa học nhất, cách mạng nhất, “
muốn cách mạng thành công, phải đo theo chủ nghĩa Mác – Lênin”. Đối với Người
chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan, là phương pháp luận khoa học để
giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin là một nguồn gốc – nguồn gốc chủ yếu nhất của
tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ – bộ phận cơ sở, nền tảng của tư
tưởng Hồ Chí Minh.Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin rồi vận dụng những
nguyên lí cách mạng đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
6. Chủ nghĩa yêu nước đã có những ảnh hưởng ảnh hưởng như thế nào đến việc
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời :
Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống thiêng liêng và quý báu của dân tộc ta.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, quê hương Nam Đàn
lại là mảnh đất giàu truyền thống cách mạng . Ngay từ nhỏ Người đã chứng kiến
cảnh khốn khổ của nhân dân, thái độ hèn mọn, bất lực của triều đình, sự thất bại
của các phong trào cách mạng . Chính những điều ấy đã nung nấu mạnh mẽ , sâu
đậm hơn tình yêu nước trong Bác. Và với lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến
đã tác động đến sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh như sau :
Tình yêu nước đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước .


Chủ nghĩa yêu nước giúp Người xác định hướng đi và cách đi đúng đắn cho
cách mạng dân tộc.
Lòng yêu nước còn giúp Bác đến với chủ nghĩa Mác – Lênin từ đó tiếp thu
và hình thành nê hệ tư tưởng của chính mình.
Như vậy, nếu như không có chủ nghĩa yêu nước là động lực để Bác ra đi tìm
đường cứu nước thi sẽ không đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin và từ đó không
thể có tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Theo các bạn, ngoài chủ nghĩa yêu nước còn có những giá trị truyền thống nào

của dân tộc ảnh hưởng đến sự ra đời của tư tưng Hồ Chí Minh?
Trả lời :
Có thể nói những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là một trong các yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài chủ nghĩa
yêu nước, còn có rất nhiều truyền thống tốt đẹp khác như :
Truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, tương thân tương ái. Đây là một nét
đẹp được lưu truyền từ đời này sang đời khác của dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá
cao tinh thần này của nhân dân ta , đồng thời khẳng định đó là một chân lý bất
diệt : “ Nước Việt Naml là một, dân Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi “. Những truyền thống này đã giúp
Người tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin, nó còn tác động mạnh đến nhân cách
Hồ Chí Minh, từ đó giúp Bác hình thành nên những tư tưởng tuyệt vời.
Truyền thống dũng cảm, lạc quan, cần cù. Truyền thống này đã giúp Bác có
động lực để tiến hành con đường ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng.
Đức tính cần cù giúp Người chịu đựng được bao vất vả trong hành trình bôn ba
nhiều nước. Điều đó đã giúp Bác hiểu được sự thống khổ của nhân dân lao động,
Bác tiếp cận được với ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, rồi Người kế thừa và
vận dụng những chân lý đó vào cách mạng Việt Nam.
Truyền thống hiếu học, thông minh, sáng tạo. Truyền thống này của dân tộc
đã tạo nên một Hồ Chí Minh đam mê học hỏi, thông minh và vô cùng sáng tạo.
Người tiếp thu nhiều kiến thức, giá trị của nhiều nước, Bác tích lũy cho mình một
vốn sống phong phú, sâu rộng,. Không chỉ vậy, Bác còn vận dụng một cách khéo


léo, tài tình chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Chính những nét đẹp
này của dân tộc đã hình thành nên một tư tưởng Hồ Chí Minh lỗi lạc, sâu sắc.
8. Những truyền thống nêu trên đã tác động sâu sắc đến tư tưởng , tình cảm Hồ Chí
Minh, cho phối mọi suy nghĩ và hành động của Người. Đây là nguồn tư tưởng, lý
luận đầu tiên, là cội rễ sâu xa, bền chặt nhất hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Min.
Tại sao phong trào yêu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đều thất bại

- Về tư tưởng , đường lối : Đa số đội ngũ trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX, tiêu
biểu là tầng lớp nho sĩ với tư tưởng duy tân đều đề cao sự tự do, bình đẳng, bác ái,
dân chủ, tiến bộ xã hội mà họ đã tiếp thu được từ phương Tây và trải nghiệm được
từ thực tế của chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến. Tuy nhiên, tư tưởng duy tân ấy
không tạo ra được một hệ tư tưởng, một đường lối đấu tranh cách mạng nhất quán,
khoa học, triệt để. Hạn chế này do các nguyên nhân:
+Thứ nhất, bản thân các nho sĩ không có chiến lược duy tân với lộ trình, chương
trình cụ thể, kết hợp với những khó khăn khách quan nên rất khó có cơ hội đạt tới
đích cách mạng triệt để theo hướng hiện đại hóa.
+Thứ hai, các nho sĩ chưa thống nhất, thậm chí còn bất đồng quan điểm về phương
thức duy tân, trong tổ chức đấu tranh chống thực dân, đế quốc làm cho các phong
trào theo khuynh hướng bạo động hay ôn hòa đều bị chia rẽ, là điều kiện để triều
đình phong kiến và thực dân Pháp đàn áp.
+Thứ ba, các nho sĩ dù đã chủ động tiếp biến tư tưởng phương Tây nhưng về cơ
bản thế giới quan của họ là thế giới quan Nho giáo, phương pháp nhận thức của họ
chủ yếu thông qua lý thuyết, tranh luận về lý luận, giá trị thực tiễn chưa cao nên tư
tưởng duy tân thiếu tính khoa học, thiếu tính hệ thống và không toàn diện.
+Thứ tư, dân chủ hóa là một quá trình đòi hỏi phải có một cuộc vận động xã hội
lâu dài với nhiều hình thức và nội dung, không phải là cái một sớm một chiều có
thể thành hiện thực được, đặc biệt là trong hoàn cảnh đất nước không có chủ
quyền, bị thực dân hóa như Việt Nam.
+Thứ năm , trong điều kiện đất nước bị mất độc lập tự do, giai cấp thống trị cùng
với chính quyền thực dân sẵn sàng dùng vũ lực để chặn đứng mọi biểu hiện tiến bộ
về tư tưởng và hành động hướng tới độc lập, tự do thì phong trào bị thất bại và đàn
áp là điều dễ hiểu.


- Về tổ chức, lực lượng:
+Thứ nhất, chưa quan tâm xây dựng cơ sở trong nước và xây dựng tổ chức rộng rãi
trong quần chúng nhân dân

+Thứ hai, tổ chức thiếu chặt chẽ thường dẫn đến những mâu thuẫn phức tạp và
phân hóa trong nội bộ.
+Thứ ba, không chú ý đến việc bảo toàn và xây dựng lại tổ chức, lực lượng khi gặp
thất bại ban đầu.
- Về phương pháp cách mạng:
+Thứ nhất, thiếu tầm nhìn chiến lược trong đánh giá lực lượng giữa ta và địch
+Thứ hai , các đảng phái và tổ chức chính trị không kết hợp được với nhau khi
hành động
+Thứ ba, chưa bắt liên lạc với phong trào cách mạng thế giới cũng như sự ủng hộ
phong trào cách mạng ở các nước.
Tại sao chủ nghĩa mác lê nin là nguồn gốc chủ yếu quyết định bước phát
triển về chất của tư tưởng Hồ Chí Minh:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nhân tố ảnh hưởng và tác động quyết định đến quá
trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là cơ sở hình thành
thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn
ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở
thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính
trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hoá những
nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại để
tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì vậy, trong
quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác-Lênin có vai trò to
lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.



×