Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Thương mại Đoàn Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.33 KB, 65 trang )

MỤC MỤC

1

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

LTM

Luật thương mại

CISG

Công ước Viên 1980

ĐƯQT

Điều ước quốc tế

HĐMBHH

Hợp đồng mua bán hàng hóa

HĐMBHHQT

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc


tế

1


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Như chúng ta đã biết, thương mại là khâu nối liền sản xuất với tiêu dùng thông
qua việc luân chuyển hàng hóa, dịch vụ giữa người bán và người mua. Hoạt động
thương mại có vai trò điều tiết sản xuất vì trong một nền sản xuất hàng hóa mọi sản
phẩm đều đem ra trao đổi trên thị trường. Ngành thương mại phát triển giúp cho sự
trao đổi được mở rộng, do đó, nó thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hóa. Hoạt động
thương mại được chia làm hai ngành lớn chính: đó là nội thương và ngoại thương.
Trong khi nội thương là ngành làm nhiệm vụ trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong một
quốc gia, nó phát triển góp phần đẩy mạnh chuyên môn hóa sản xuất và phân công lao
động theo vùng và lãnh thổ trong cả nước thì ngoại thương là ngành làm nhiệm vụ trao
đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia. Sự phát triển của ngành ngoại thương sẽ góp
phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, gắn liền thị trường trong nước với thị
trường thế giới rộng lớn. làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một bộ phận của nền
kinh tế thế giới. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động mua bán hàng hóa
giữa các quốc gia đã khiến cho nền kinh tế đất nước tìm được động lực mạnh mẽ để
phát triển, tham gia vào thị trường thế giới, các lợi thế của đất nước được khai thác có
hiệu quả và kinh tế hơn.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, quá trình giao lưu, hội nhập, xu hướng
mở cửa thị trường và toàn cầu hóa là vô cùng cần thiết. Để theo kịp thị trường và
không bị lạc hậu, Việt Nam - một nước đang trong giai đoạn đang phát triển cũng
không nằm ngoài xu hướng đó. Một trong những nỗ lực lớn nhất của Việt Nam là
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào

ngày 11/01/2007 và gần đây nhất là hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
( Hiệp định TPP) . Ngoài ra,tính đến năm 2016, Việt Nam đã ký kết, thực hiện và đang
tiến hành đàm phán tổng cộng 16 Hiệp định Thương mại Tự do (FTAs). Cho đến nay,
2


Việt Nam đã ký kết và thực hiện 10 FTA, đã kết thúc đàm phán một FTA và đang đàm
phán 5 FTA khác. Việc mở cửa hội nhập quốc tế đã mở ra một cơ hội cũng như thách
thức to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc phát triển đối tác, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài cũng như mở rộng các ngành nghề sản xuất, dịch vụ đem lại lợi
nhuận, tiềm năng lớn để phát triển kinh tế đất nước. Theo Tổng cục Thống kê tổng
mức lưu chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu vượt mốc 400 tỷ USD trong năm 2017;
GDP bình quân đầu người ước tính đạt 53,5 triệu đồng, tương đương 2.385 USD, tăng
170 USD so với năm 2016 vừa qua ;tỉ lệ lạm phát CPI bình quân năm tăng thấp
(3,53% so với bình quân 2016). Những bước phát triển vượt bậc trong quá trình hội
nhập kinh tế thời gian gần đây thúc đẩy nền kinh tế quốc tế cũng như thu hút vốn đầu
tư nước ngoài ngày càng lớn, nó mở ra tiềm năng tích cực của hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế và tầm quan trọng của nó trong sự phát triển tăng trưởng nền kinh tế
đất nước. Đây cũng chính là một trong những mối quan tâm được đặt lên hàng đầu của
Nhà nước trong công tác điều chỉnh pháp luật sao cho hợp lý để tăng cường hiệu quả
trong hoạt động thương mại quốc tế. Trong hoạt động ngoại thương, việc mua bán,
trao đổi hàng hóa quốc tế đóng vai trò quan trọng và thiết yếu, nó chỉnh các hoạt động
mua bán hàng hóa giữa các nước chính là hợp đồng gắn liền thị trường trong nước với
thị trường thế giới. Và cơ sở pháp lý điều chỉnh sự giao thoa giữa thị trường trong và
ngoài nước đó chính là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, việc giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế giữ vai trò quan trọng nhất, nó giúp cho doanh nghiệp giữa
các nước xác định rõ quyền và nghĩa vụ thực hiện giữa các bên, đảm bảo tính công
bằng, minh bạch và giải quyết tranh chấp theo hướng tích cực cũng như giảm thiểu rủi
ro khi vi phạm hợp đồng xảy ra. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật Việt Nam cũng

như các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết quy định pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế còn nhiều vấn đề hạn chế cần giải quyết và thực tiễn áp dụng
không tránh khỏi những vướng mắc, bất cập chưa đáp ứng được xu thế hội nhập quốc
tế hiện nay.

3


Từ những vấn đề đó và qua quá trình thực tập và tìm hiểu tại Công ty Cổ phần
Đầu tư Xây dựng và Thương mại Đoàn Nguyên, nhận thấy hoạt động mua bán hàng
hóa quốc tế đóng vai trò không nhỏ trong hoạt động kinh doanh của công ty, vì vậy em
đã chọn lựa đề tài “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Thực tiễn thực
hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Thương mại Đoàn Nguyên” làm công
trình nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, dưới góc độ
pháp lý, em đã tham khảo những công trình nghiên cứu về hoạt động thương mại quốc
tế như Giáo trình Luật thương mại quốc tế của Trường Đại học Thương Mại, NXB
Thống Kê năm 2016, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế của trường Đại học Luật Hà
Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế của Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội,
các văn bản pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế như Công ước Viên
1980, hiệp định thuế quan và thương mại GATT, hiệp định incoterms quy định về vận
chuyển hàng hóa quốc tế; Luật thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế (ULIS); Các
nguyên tắc UNIDROIT của Hợp đồng Thương Mại quốc tế; các Nguyên tắc của Luật
Hợp đồng Châu Âu (PECL); Hợp đồng Mua bán Hàng hóa quốc tế mẫu của ICC –
Hàng hóa được sản xuất nhằm mục đích bán lại v.v ..cũng như các văn bản pháp luật
trong nước như BLDS, BLTTDS, Luật Thương mại,... Cùng với đó, em cũng đã tham
khảo một số công trình nghiên cứu đã có những thành công nhất định trong việc
nghiên cứu và đưa ra những giải pháp để hoàn thiện và nhằm nâng cao hiệu quả pháp

luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Một số công trình tiêu biểu như:
Nguyễn Uy Pháp (2014) “Các vấn đề pháp lý về Hợp đồng Thương mại quốc tế
theo Công ước Viên 1980 - CISG”. Bài nghiên cứu khoa học của một sinh viên nghiên
cứu, tìm hiểu, phân tích lý luận chung và các quy phạm pháp luật của Công ước Viên
1980 đối với các bên tham gia thỏa thuận hoặc là thành viên của Công ước Viên. Bài
nghiên cứu phân tích các vấn đề về chủ thể, nguyên tắc chung, trách nhiệm, quyền lợi
và các quy tắc xử lý khi các bên vi phạm hợp đồng cũng như xảy ra tranh chấp thương
4


mại. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ phân tích pháp luật áp dụng trong Điều ước quốc tế chứ
không đi vào khai thác các quy phạm của pháp luật Việt Nam để đưa ra giải pháp cho
các doanh nghiệp Việt Nam trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán với các
đối tác nước ngoài.
Dương Bảo Trân (2008) “Quyền và nghĩa vụ của các bên trong Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế” . Bài luận văn tốt nghiệp của một sinh viên Khoa Luật trường
Đại học Cần Thơ đưa ra những lý luận chung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
(khái niệm, đặc điểm, vai trò) nguồn của luật điều chỉnh, phân tích các quyền cuả
người mua và người bán trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Bài nghiên cứu tuy phân tích cụ thể quyền và nghĩa vụ giữa các bên nhưng chưa đi sâu
vào thực trạng áp dụng và những hạn chế còn tồn tại mà chỉ nêu chung chung, chưa sát
với thực tế áp dụng các quy định của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở các doanh
nghiệp Việt Nam.
Nguyễn Văn Quang (2014) “So sánh chế định giao kết hợp đồng mua bán theo
pháp luật Việt Nam với Công ước Viên 1980” , Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Quốc
gia Hà Nội. Bài luận phân tích lý luận về giao kết trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế theo pháp luật Việt Nam và Công ước Viên 1980; so sánh các nội dung cụ thể
ở trong hoạt động giao kết hợp đồng giữa theo Công ước Viên 1980 với pháp luật Việt
Nam. Từ đó tìm ra những bất cập nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về

giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, bài luận chỉ đi sâu vào phân
tích lý luận, so sánh dựa trên các quy phạm pháp luật của Việt Nam và quốc tế, còn
khá lý thuyết và trừu tượng, chưa đề cập vào việc áp dụng trong thực tiễn pháp luật ở
các doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề mua bán hàng hóa quốc tế.
Vũ Khắc Thư (2009) “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của
Luật Thương Mại 2005 và các quy định của pháp luật quốc tế” , Luận văn thạc sĩ Luật
học Đại học Quốc gia Hà Nội. Bài luận trình bày những lý luận về khái niệm, vai trò,
đặc điểm và các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
5


thực trạng thực thi pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế ở Việt Nam, từ đó phân tích những bất cập và đưa ra giải pháp cho thực
tiễn trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế ở Việt Nam”. Đây là
một trong những công trình nghiên cứu khá đầy đủ không những về lý luận mà còn ở
thực tiễn áp dụng pháp luật của Việt Nam và Điều ước quốc tế. Nó làm rõ những vấn
đề pháp lý trong thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
ở Việt Nam trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp. Từ đó
tìm ra những bất cập và đưa ra những giải pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam vận
dụng hiệu quả pháp luật trong quá trình ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong lĩnh
vực ngoại thương. Tuy nhiên, bài luận chỉ đưa ra phân tích tổng thể nền kinh tế trên
phương diện rộng các doanh nghiệp Việt Nam chứ không phân tích, chọn lựa, đi sâu
vào một doanh nghiệp cụ thể .
Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quý giá và là một trong
những căn cứ giúp người viết có thêm nhiều thông tin quan trọng để phục vụ cho việc
nghiên cứu của mình. Các công trình, bài báo, luận văn về đề tài hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế kể trên đã có những thành công nhất định về cả mặt lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, phần lớn chưa có công trình nghiên cứu còn khá chung, chưa đi sâu vào
phân tích thực tiễn hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế tại một doanh nghiệp cụ thể.

Để phân tích và tìm hiểu rõ hơn lý luận cũng như thực tiễn thực thi và áp dụng các quy
phạm pháp luật đối với một doanh nghiệp đã và đang tham gia vào hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế tại Việt Nam, em xin chọn đề tài “ Pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế - Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và
Thương mại Đoàn Nguyên”.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu

Trong thời đại mở cửa thị trường và giao thoa kinh tế giữa các quốc gia thông
qua việc xuất nhập khẩu, việc hoàn thiện cơ chế pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế sao cho thuận lợi và tối ưu để tăng cường hiệu quả trong hoạt động thương
6


mại quốc tế là vô cùng cần thiết. Nó không những giúp bảo vệ quyền và lợi ích giữa
các doanh nghiệp, giảm thiểu rủi ro khi xảy ra vi phạm hợp đồng, tạo nên một môi
trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy và thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư
và hợp tác. Từ những tài liệu tham khảo và các công trình nghiên cứu trên cũng như
việc quan sát, tìm hiểu hoạt động kinh doanh trong Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng
và Thương mại Đoàn Nguyên, đề tài khóa luận của em tập trung nghiên cứu và phân
tích về chủ thể, nội dung, hình thức, quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng cũng
như quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế ,nghiên cứu và đánh giá các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.. Từ đó phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Thương
mại Đoàn Nguyên và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam về chủ thể, nội dung,

hình thức, quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, trong đó tập trung đến nghiên cứu pháp luật về điều chỉnh giao kết và
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; nghiên cứu các bản hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế trong công ty và thực tiễn thực hiện theo quy định của pháp luật
trong nội dung các bản hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Công ty Cổ phần Đầu tư Xây
dựng và Thương mại Đoàn Nguyên với các đối tác nước ngoài của công ty.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của việc nghiên cứu là làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
của pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Công
ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Thương mại Đoàn Nguyên, cụ thể:

7


Về lý luận: Hệ thống được các quy định của pháp luật về chế định hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.
Về thực tiễn: Đưa ra những phân tích về thực trạng áp dụng các quy định của
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây
dựng và Thương mại Đoàn Nguyên và từ đó tìm ra những ưu điểm, hạn chế còn tồn
tại.
Về giải pháp: Đề xuất được những giải pháp mang tính định hướng nhằm khắc
phục những bất cập, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của
Việt Nam và giúp công ty nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về ký kết hợp đồng
MBHHQT.
4.3 Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung nghiên cứu: Bài viết tập trung nghiên cứu pháp luật về điều chỉnh
vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và các vấn đề có liên
quan bao gồm: Các vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế, thực trạng thực thi pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật mua bán
hàng hóa quốc tế về giao kết và thực hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và
Thương mại Đoàn Nguyên, một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Về không gian nghiên cứu: Hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định trong
nhiều văn bản luật của nhiều quốc gia khác nhau và các điều ước quốc tế... Tuy nhiên,
để thuận lợi trong quá trình tìm hiểu và giải quyết các vấn đề nóng bỏng trong các quy
định còn bất cập, bài khóa luận chủ yếu nghiên cứu về pháp luật Việt Nam điều chỉnh
vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã tham gia, thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Thương mại Đoàn Nguyên.

8


Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian
2015-2017.
5. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, đề tài tập trung sử dụng một số
phương pháp chủ yếu như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê,
phân tích, tổng hợp, phương pháp thu thập dữ liệu, phương pháp tổng kết kinh
nghiệm... Các phương pháp được vận dụng linh hoạt trong toàn bộ đề tài.
Phương pháp duy vật biện chứng: để làm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến
hợp đồng thương mại quốc tế trong chương 1 : Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp
luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Phương pháp thu thập dữ liệu: Thu thập các dữ liệu có sẵn trên các phương tiện
thông tin đại chúng như sách báo, internet..Ngoài ra, em còn thu thập các thông tin về
báo cáo tổng kết, các hợp đồng đã ký kết với đối tác nước ngoài của Công ty cũng như
hỏi ý kiến, khảo sát các lãnh đạo, các bộ phận nhân viên trong công ty có kinh nghiệm

và liên quan đến lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong công ty, tham
khảo thầy cô, thảo luận với các thành viên được chia theo nhóm.
Phương pháp thống kê dữ liệu: Từ những dữ liệu đã thu thập được, tiến hành
tổng hợp,chọn lọc những dữ liệu cần thiết để tiến hành phân tích.
Phương pháp phân tích dữ liệu: Dựa vào các dữ liệu đã thu thập được, tiến hành
phân tích , nêu lên thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế trong công ty, phương pháp này được dùng trong chương 2:
Thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm: Nắm bắt được những khó khăn ,
vướng mắc của cơ quan quản lý trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế để rút ra những giải pháp nhằm hoàn thiện về chế định của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của pháp luật. Phương pháp này nằm
9


trong chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
6. Kết cấu khóa luận

Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, danh mục các chữ viết tắt, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.

10



CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
Một số khái niệm cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.

Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế là một trong những hoạt động thương mại
được hình thành sớm nhất và ngày càng phổ biến, giữ vị trí quan trọng, góp phần tăng
trưởng lớn trong nền kinh tế của các nước đã và đang phát triển trong giai đoạn hội
nhập quốc tế hiện nay. Ngày nay, các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa
quốc tế được thực hiện chủ yếu thông qua các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế.Vậy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là gì? Tùy từng cách tiếp cận pháp luật
mỗi nước, các điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế ta lại có những cách hiểu khác
nhau về khái niệm của hợp đồng thương mại quốc tế.
Theo Điều 1 Phụ lục của Công ước La Haye 1964 về Luật thống nhất về mua
bán hàng hóa quốc tế thì “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán
hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại đóng trên lãnh thổ các quốc
gia khác nhau nếu có thêm một trong các điều kiện sau:
Thứ nhất, hợp đồng liên quan đến vật mà trong thời gian ký kết hợp đồng vật đó
được chuyên chở hoặc phải được chuyên chở từ lãnh thổ của quốc gia này đến lãnh
thổ của quốc gia khác;
Thứ hai, hành vi chào hàng và hành vi chấp nhận chào hàng được thực hiện trên
lãnh thổ của các quốc gia khác nhau;
Thứ ba, việc giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với
quốc gia nơi tiến hành hành vi chào hàng hoặc hành vi chấp nhận chào hàng”.
Công ước Viên 1980 của Liên Hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
lại xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên trụ sở thương mại của các
bên quốc gia khác nhau. Theo đó, để được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
theo Khoản 1 Điều 1 Công ước Viên 1980 quy định thì “Công ước này áp dụng cho
11



các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia
khác nhau”. Có nghĩa là không phân biệt các bên chủ thể là pháp nhân của cùng một
nước hay tại các quốc gia khác nhau thì việc xác định áp dụng Công ước này phụ
thuộc vào trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau thì được phép áp dụng.
Cũng giống như Công ước Viên 1980, Bộ nguyên tắc UNIDROIT lại đưa ra một
tiêu chí rộng để xác định tính quốc tế của một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, chỉ
cần hợp đồng đó thể hiện một mối liên hệ nào đó với hơn một quốc gia, hợp đồng đó
được coi là có tính quốc tế.
Trên thực tế, pháp luật Việt Nam vẫn chưa đưa ra khái niệm cụ thể và rõ ràng
một cách chính xác về định nghĩa “hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”. Tuy nhiên,
dựa theo các quy định của các văn bản pháp luật Việt Nam hiện nay, có thể xác định
một hợp đồng dân sự được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi nó có đầy đủ
hai yếu tố là tính thương mại và tính quốc tế.
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cách xác định hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế trước hết được xác định qua tính thương mại của hợp đồng đó. Theo khoản 1
điều 3 Luật Thương Mại 2005 đã định nghĩa về hoạt động thương mại “ là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Ngoài ra, việc xác định một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế khi nó đáp ứng được tính quốc tế dựa trên quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
tại khoản 2 điều 663 của Bộ luật dân sự 2015 khi đưa rõ các trường hợp được xác định
có tính quốc tế khi thuộc một trong các trường hợp như:
“a)Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b)các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực
hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;

12



c) các bên tham gia là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối
tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”
Tóm lại, một hợp đồng được coi là một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hoàn
chỉnh khi nó đáp ứng được hai yếu tố là tính thương mại và tính quốc tế.
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng thương mại quốc tế

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trước hết đó là một hợp đồng, vì vậy nó
mang đầy đủ bản chất và đặc trưng của tất cả các loại hợp đồng nói chung. Ngoài ra,
xuất phát từ những đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, cùng với
sự tham gia của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, chúng ta
có thể chia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có những đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang đầy đủ các đặc trưng của
một hợp đồng mua bán hàng hoá. Thông thường, một hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ
có những đặc điểm sau:


Về chủ thể của hợp đồng: Các thương nhân hoạt động thương mại, các tổ chức cá nhân
hoạt động có liên quan đến thương mại đều là chủ thể của Luật thương mại 2005. Để
trở thành thương nhân các cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ, pháp nhân tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo
quy định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì cơ quan nhà nước có
toàn quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân (Điều 2
Luật thương mại 2005).



Về mục đích: Hợp đồng trong lĩnh vực thưong mại là nhằm thực hiện các hành vi
thương mại cụ thể sau: mua bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, môi giới thương
mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý mua bán hàng hóa, gia công trong thương mại,

đấu giá hàng hóa, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ giao nhận hàng hóa, dịch vụ giám định
hàng hóa, quảng cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa.

13




Về hình thức: Theo quy định của Luật thương mại hình thức của hợp đồng thương mại
có thể là lời nói, văn bản, hành vi cụ thể hoặc các thông điệp, dữ liệu điện tử và các
hình thức thông tin điện tử khác. Như vậy, hình thức của hợp đồng theo Luật thương
mại cũng rất đa dạng và rộng rãi.
Thứ hai, tính quốc tế - là yếu tố vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.Với hợp đồng
mua bán trong nước, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có những đặc điểm sau đây:



Về chủ thể: Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các bên, người bán và

người mua, có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.
• Về đối tượng của hợp đồng: Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế là động sản, tức là hàng có thể chuyển qua biên giới của một nước.
• Về đồng tiền thanh toán: Tiền tệ dùng để thanh toán thường là nội tệ hoặc có thể là
ngoại tệ đối với các bên. Ví dụ: hợp đồng được giao kết giữa người bán Việt Nam và
người mua Hà Lan, hai bên thoả thuận sử dụng đồng euro làm đồng tiền thanh toán.
Lúc này, đồng euro là ngoại tệ đối với phía người bán Việt Nam nhưng lại là nội tệ đối
với người mua Hà Lan. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đồng tiền thanh toán đều là nội
tệ của cả hai bên, như trường hợp các doanh nghiệp thuộc các nước trong cộng đồng
châu Âu sử dụng đồng euro làm đồng tiền chung.
• Về ngôn ngữ của hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường được ký kết

bằng tiếng nước ngoài, trong đó phần lớn là được ký bằng tiếng Anh. Điều này đòi hỏi
các bên phải giỏi ngoại ngữ.
• Về nguồn của luật điều chỉnh hợp đồng: Luật quốc gia; các điều ước quốc tế và tập
quán quốc tế khác về thương mại và hàng hải.
• Về cơ quan giải quyết tranh chấp: Tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể là toà án hoặc trọng tài nước ngoài. Và một
lần nữa, vấn đề ngoại ngữ lại được đặt ra nếu muốn chủ động tranh tụng tại tòa án
hoặc trọng tài nước ngoài.
1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
14


Việt Nam đã và đang trên con đường hội nhập nền kinh tế thế giới. Các quan hệ
mua bán hàng hóa trong lĩnh vực thương mại ngày một tăng, thúc đẩy nền kinh tế
trong và ngoài nước phát triển. Việc chỉ thực hiện các văn bản pháp luật quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết và tham gia đôi khi còn khó khăn trong vấn đề ngoại ngữ, văn hóa
và tập quán quốc tế giữa các quốc gia khác nhau, gây khó khăn cho các chủ thể tham
gia vào hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt nam. Do vậy, Việt Nam cũng cần
phải có những văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn và quy định về lĩnh vực hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế một cách cụ thể và rõ ràng, giúp tạo điều kiện thuận
lợi trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng giữa các thương nhân trong và ngoài
nước khi chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
Ngoài các nguồn của luật pháp quốc tế quy định trong quan hệ thương mại quốc
tế như Công ước Viên 1980, Bộ nguyên tắc Unidroit ,Bộ luật Lahaye, hiệp định
incoterm quy định về vận chuyển hàng hóa quốc tế... còn có các văn bản pháp luật
quốc gia điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam như
Luật thương mại 2005, Bộ luật dân sự 2015, Bộ Luật Hàng hải 2015, Luật Trọng tài
thương mại 2010....

 Nguồn của luật quốc gia
Luật quốc gia được hiểu là toàn bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia. Ví dụ:
Nếu pháp luật Việt Nam được áp dụng thì không chỉ áp dụng luật Thương mại mà là
toàn bộ pháp luật Thương mại, rộng hơn nữa là toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật quốc gia được các bên lựa chọn có thể là luật nước người bán, nước người mua,
luật của nước thứ ba hoặc luật của bất kỳ nước nào khác có quan hệ với hợp đồng,
chẳng hạn như luật của nơi ký hợp đồng, nơi thực hiện nghĩa vụ, …
Khi lựa chọn pháp luật của một nước thứ ba, phải có hiểu biết về luật pháp của
nước đó. Cần phải biết luật đó bảo vệ quyền lợi của người bán, người mua, luật đó có
trái với chế độ chính trị hay vi phạm quyền lợi của chủ thể tham gia ký kết hợp đồng
hay không. Ở Việt Nam, luật quốc gia có liên quan đến hợp đồng thương mại nói
chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng là luật Thương mại 2005, bộ
luật Hàng hải, bộ luật Dân sự 2005, luật thuế xuất nhập khẩu, … Ngoài ra còn hàng
15


loạt các nghị định, nghị quyết, qui định, thông tư như: Thông tư 38/2015/TT-BTC Quy
định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ; Nghị định 19/2006/NĐ-CP
hướng dẫn Luật Thương mại về xuất xứ hàng hóa...
 Nguồn của luật quốc tế


Điều ước quốc tế.
Một khi tranh chấp phát sinh trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà vấn
đề liên quan đến tranh chấp không được quy định hoặc quy định không đầy đủ thì các
bên có thể dựa vào điều ước quốc tế về kinh doanh thương mại.
Điều ước quốc tế song phương như Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
Việt Nam – Nhật Bản, Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam với Lào, Cam pu chia.. có
thể là đa phương như Hiệp định về thuế quan và thương mại GATT, GATS trong

khuôn khổ WTO, Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP, Hiệp định
Thương mại tự do FTAs.... Những điều ước quốc tế này không điều chỉnh các vấn đề
về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể của các bên trong hợp đồng kinh doanh quốc tế
mà chỉ nêu những nguyên tắc pháp lý có tính chất chỉ đạo như nguyên tắc đối xử quốc
gia, đối xử tối huệ quốc... nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện
thuận lợi cho các thương nhân thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.



Tập quán thương mại.
Tập quán quốc tế về thương mại là những thói quen, phong tục về thương mại
được nhiều nước áp dụng và áp dụng một cách thường xuyên với nội dung rõ ràng để
dựa vào đó các bên xác định quyền và nghĩa vụ với nhau.Tập quán quốc tế về thương
mại có thể là luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Thông thường, tập quán quốc tế về thương mại được chia thành ba nhóm: các tập
quán có tính chất nguyên tắc; các tập quán thương mại quốc tế chung và các tập quán
thương mại khu vực.
16


Tập quán có tính chất nguyên tắc: là những tập quán cơ bản, bao trùm được hình
thành trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và luật quốc gia như nguyên
tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc. Ví dụ: Toà án
(hoặc trọng tài) của nước nào thì có quyền áp dụng các quy tắc tố tụng của nước đó khi
giải quyết những vấn đề về thủ tục tố tụng trong các tranh chấp về hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế.
Tập quán thương mại quốc tế chung: là các tập quán thương mại được nhiều
nước công nhận và được áp dụng ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới. Ví dụ:
Incoterms năm 2000 (Các Điều kiện Thương mại Quốc tế) do Phòng Thương mại
Quốc tế tập hợp và soạn thảo được rất nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận và áp

dụng trong hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Hay UCP 500 do ICC ban hành đưa
ra các quy tắc để thực hành thống nhất về thư tín dụng cũng được nhiều quốc gia trên
thế giới áp dụng vào hoạt động thanh toán quốc tế.
Tập quán thương mại khu vực (địa phương): là các tập quán thương mại quốc tế
được áp dụng ở từng nước, từng khu vực hoặc từng cảng. Ví dụ: ở Hoa Kỳ cũng có
điều kiện cơ sở giao hàng FOB. Điều kiện FOB Hoa Kỳ được đưa ra trong “Định
nghĩa ngoại thương của Mỹ sửa đổi năm 1941”, theo đó có 6 loại FOB mà quyền và
nghĩa vụ của bên bán, bên mua rất khác biệt so với điều kiện FOB trong Incoterms
năm 2000. Chẳng hạn, với FOB người chuyên chở nội địa quy định tại điểm khởi hành
nội địa quy định người bán chỉ có nghĩa vụ đặt hàng hoá trên hoặc trong phương tiện
chuyên chở hoặc giao cho người chuyên chở nội địa để bốc hàng.

1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

a. Về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải thỏa mãn
các quy định về quy chế hàng hóa được phép mua bán, trao đổi theo pháp luật của
17


nước bên mua và bên bán. Tuy nhiên, cách để xác định hàng hóa là đối tượng của hợp
đồng giữa các nguồn luật lại khác nhau. Pháp luật của các quốc gia khác nhau có
những quy định không giống nhau về những hàng hóa được phép trao đổi mua bán, từ
đó sẽ dẫn đến việc có những hàng hóa theo quy định của nước này thì được phép trao
đổi mua bán nhưng theo quy định của pháp luật nước khác thì lại cấm trao đổi mua
bán. Như vậy chỉ những hàng hóa nào đều được pháp luật quốc gia của các bên kí kết
hợp đồng quy định là được phép trao đổi mua bán thì mới có thể trở thành đối tượng
của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Pháp luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế chẳng

hạn như Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hàng hóa là đối
tượng của mua bán thương mại được hiểu bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tính
cơ bản: có thể đưa vào lưu thông và có tính chất thương mại.
Theo quy định tại khoản 2 điều 3 Luật Thương Mại Việt Nam năm 2005 thì hàng
hóa bao gồm: tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và
những vật gắn liền với đất đai. Như vậy, với khái niệm này thì hàng hóa là đối tượng
của mua bán có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai,
hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa (tại điều 2) chỉ loại trừ
(không áp dụng) đối với một số loại hàng hóa như chứng khoán, giấy bảo đảm chứng
từ và tiền lưu thông, điện năng, tàu thủy, máy bay,… Tuy nhiên công ước La Haye
1964 lại coi đó là hàng hóa.
Việt Nam còn cấm xuất nhập khẩu một số loại hàng hóa theo quy định pháp luật
như vũ khí, đạn dược, trang thiết bị quân sự, các loại thủy sản quý hiếm...tại DANH
MỤC HÀNG HÓA CẤM XUẤT KHẨU, CẤM NHẬP KHẨU được Ban hành kèm
theo Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ. Việc
xuất nhập khẩu các loại mặt hàng này chỉ có thể thực hiện theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
18


b. Về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Khi nói tới chủ thể trong hợp đồng dân sự nói chung hay hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế nói riêng thì điều kiện quan trọng khi cần xác lập một hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế là cần phải có năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể của một hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế được xác định dựa trên năng lực pháp luật và năng lực hành
vi của các bên chủ thể trong hợp đồng. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế chủ yếu là các thương nhân. Thương nhân theo nghĩa thông thường được hiểu là
những người trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại. Trong luật thương

mại, thương nhân bao gồm các cá nhân, pháp nhân có đủ các điều kiện do pháp luật
quốc gia quy định để tham gia vào các hoạt động thương mại và trong một số trường
hợp cả chính phủ (khi từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia). Mỗi quốc gia có những quy
định khác nhau về điều kiện trở thành thương nhân cho từng đối tượng cụ thể. Chẳng
hạn, đối với cá nhân những điều kiện hưởng tư cách thương nhân trong pháp luật
thương mại quốc gia thường bao gồm điều kiện nhân thân (độ tuổi, năng lực hành vi,
điều kiện tư pháp) và nghề nghiệp.
c. Về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Mỗi nước lại có những quy định đòi hỏi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
phải đáp ứng được khi thỏa mãn các điều kiện nhất định. Hình thức hợp đồng được
hiểu không chỉ là phương thức ghi nhận sự biểu lộ ý chí dưới dạng lời nói, văn bản,
hành vi, cử chỉ cụ thể mà còn là những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên
giao kết hợp đồng phải tuân thủ trong một số trường hợp nhất định. Hình thức của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng được quy định rất khác nhau trong pháp luật của
các quốc gia và pháp luật quốc tế. Có pháp luật của một số nước yêu cầu bắt buộc hình
thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản, nhưng
pháp luật của một số nước khác lại không có bất kì một yêu cầu nào về hình thức hợp
đồng. Theo Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì không yêu
cầu các bên phải ký, xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân theo bất kỳ yêu cầu nào về
19


hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong khi pháp luật Việt Nam theo luật
thương mại 2005 lại quy định “Mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện bằng
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”.
d. Về nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thể hiện thỏa thuận biểu
hiện ý chí tự nguyện của các chủ thể, nhằm ấn định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của

các bên đối với nhau được ghi nhận tại các điều khoản trong hợp đồng mà các bên kí
kết. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang đầy đủ những nội dung tương tự như
hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước. Dù hợp đồng là đơn giản hay phức tạp đều có
một số điều khoản làm nổi bật những đặc trưng riêng của một hợp đồng mua bán hàng
hóa như các điều khoản xác định rõ quyền và nghĩa vụ giữa bên bán và bên mua, về
điều kiện khi giao nhận hàng...
Pháp luật Việt Nam theo Điều 398 của Bộ luật dân sự (BLDS) 20015 có quy định
các bên trong hợp đồng có quyền tự thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng hoặc
những nội dung có thể có trong một hợp đồng dân sự như sau:
“Điều 398. Nội dung của hợp đồng
1. Các bên trong hợp đồng có quyền tự thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng.
2. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây:
a) Đối tượng của hợp đồng;
b) Số lượng, chất lượng;
c) Giá, phương thức thanh toán;
d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;

đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên;
e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
f) Phương thức giải quyết tranh chấp.”

Đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, dù không bắt buộc nhưng cần
có các điều khoản quan trọng trong nội dung hợp đồng như các điều khoản liên quan
20


đến chuyển rủi ro, bảo quản hàng hóa, luật áp dụng, cơ quan giải quyết tranh chấp... Vì
nếu không xác định rõ ràng các vấn đề trên ngay từ khi giao kết hợp đồng sẽ rất dễ nảy
sinh vấn đề giải quyết tranh chấp khi các bên xử lý vi phạm hợp đồng hay có mâu
thuẫn sau khi thực hiện hợp đồng.

e. Về đàm phán và giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế



Đề nghị giao kết hợp đồng :Là quyết định đơn phương có chủ ý của một người bày tỏ
ý định giao kết hợp đồng theo những điều kiện xác định, cụ thể và rõ ràng với một hay
nhiều người khác, có thể kèm theo hoặc không kèm theo hạn trả lời. Những vấn đề
thường trở thành nội dung của các cuộc đàm phán mua bán hàng hóa bao gồm:Tên
hàng; phẩm chất; số lượng; bao bì đóng gói; phạt bồi thường; giao hàng; giá cả; thanh
toán; bảo hành; bảo hiểm; khiếu nại; trọng tài; trường hợp bất khả kháng… Các bên
đàm phán có thể đàm phán qua thư, qua điện thoại, thư điện tử hoặc đàm phán bằng
cách gặp gỡ trực tiếp.

Điều 14 Công ước viên 1980 định nghĩa một đề nghị giao kết hợp đồng hình
thành một chào hàng khi nó được gửi đến một/nhiều người xác định, thể hiện ý chí của
người chào hàng muốn ràng buộc mình trong trường hợp chào hàng được chấp nhận,
và nêu rõ hàng hóa, ấn định hoặc quy định cách xác định số lượng và giá cả. Bộ luật
dân sự ViệtNam quy định đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện rõ ý định giao kết
hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác
định cụ thể. So với Công ước viên, pháp luật Việt Nam không yêu cầu nội dung cụ thể
của một đề nghị giao kết hợp đồng.



Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng

21


Theo điều 20 Công ước Viên quy định về thời hạn để chấp nhận chào hàng “do

người chào hàng quy định trong điện tín hay thư bắt đầu tính từ lúc bưu điện đượcc
giao để gửi đi hoặc vào ngày ghi trên thư hoặc nếu ngày đó không có thì tính từ ngày
bưu điện đóng dấu trên bì thư. Thời hạn để chấp nhận chào hàng dp người chào hàng
quy định bằng điện thoại,bằng telex hoặc bằng phương tiện thông tin liên lạc khác,
bắt đầu tính từ thời điểm người được chào hàng nhận được chào hàng”.
Tại Khoản 1 điều 388 trong BLDS 2015 có quy định: Thời điểm đề nghị giao kết
hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau: Do bên đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị
không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị
nhận được đề nghị đó, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.


Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm chấp nhận chào hàng có hiệu lực
(Điều 23 Công ước Viên 1980). Bắt đầu từ thời điểm này các bên phát sinh những
quyền và nghĩa vụ được ghi trong trong hợp đồng. Theo Công ước Viên 1980, chấp
nhận chào hàng là sự thể hiện ý chí của người được chào hàng đồng ý với những điều
kiện của người chào hàng. Sự chấp nhận của người được chào hàng chỉ có giá trị pháp
lý khi nó được thể hiện dưới một hành vi nhất định (khoản 1, điều 18, Công ước Viên
1980). Hành vi này được thể hiện dưới dạng một hành động hoặc một lời nói mang
tính chất tuyên bố. Theo điều khoản này, sự im lặng hoặc bất hợp tác của người được
chào hàng sẽ không mặc nhiên có giá trị như một sự chấp nhận. Và Theo quy định
hiện hành tại điều 393 của Bộ luật dân sự 2015 thì chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng được quy định như sau:

- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc
chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.

22



- Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các
bên.
Như vậy, Công ước Viên 1980 có quy định rõ ràng hơn về việc chấp nhận lời đề
nghị giao kết hợp đồng bằng lời nói hoặc hành động cụ thể. Trong khi pháp luật Việt
Nam tại Bộ luật dân sự 2015 không quy định cụ thể chi tiết về việc trả lời chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng.
Về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
• Thời hạn giao hàng: để đảm bảo quyền lợi của mình và tạo điều kiện thuận lợi cho
f.

việc giao nhận hàng các bên cần phải thỏa thuận cụ thể về thời gian giao hàng. Thời
gian giao hàng có thể được các bên ấn định vào một thời điểm cụ thể hoặc vào một
thời gian cụ thể. Tuy nhiên nếu trong hợp đồng có thỏa thuận về giao hàng nhiều lần
thì các bên nên quy định cụ thể về từng lần giao hàng, nhằm tránh trường hợp không
thực hiện việc giao hàng nhưng không thể ràng buộc nghĩa vụ vì không đủ cơ sở pháp
lí.
• Phương thức giao hàng: Đây là một điều khoản cực kì quan trọng vì nó liên quan đến
các vấn đề như: thuê phương tiện vận chuyển, bảo hiểm hàng hóa, đặc biệt liên quan
đến việc xác định thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu và rủi ro đối với hàng hóa từ
người bán sang người mua. Trong thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế khi thỏa thuận
về phương thức giao hàng các bên thường sử dụng các điều kiện giao hàng được quy
định trong tập quán thương mại INCOTERMS.
• Thanh toán tiền hàng:
Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của người mua bao gồm việc áo dụng các biện
pháp tuân thủ các thủ tục mà hợp đồng hoặc luật lệ đòi hỏi để có thể thực hiện thanh
toán tiền hàng. Theo khoản 1 điều 57 Công ước Viên quy định nếu như người mua
không có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng tại một địa điểm quy định nào đó thì họ
phải trả tiền cho người bán: tại nơi có trụ sở thương mại của người bán hoặc tại nơi

giao hàng hoặc chứng từ nếu việc trả tiền được làm cùng lúc với việc giao hàng hoặc
chứng từ.
23




Chế tài áp dụng vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Theo pháp luật Việt Nam tại điều 292 Luật Thương mại 2005 có quy định các
biện pháp khác phục vi phạm hợp đồng như: Buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi
phạm, bồi thường thiệt hại , tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng. Còn theo quy
định của Công ước Viên 1980 bao gồm những biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng
tương tự như quy định của pháp luật Việt Nam, tuy nhiên có một điểm khác biệt là
điều khoản giảm giá cũng được xem như một biện pháp khắc phục vi phạm hợp đồng
và một số biện pháp khác như: tạm ngừng , hủy bỏ hợp đồng...

Các nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.3.1 Đảm bảo việc thực hiện đúng, đầy đủ hợp đồng
1.3

Nguyên tắc này đòi hỏi các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ tất cả các điều
khoản đã cam kết trong hợp đồng, tức là tất cả các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan
hệ hợp đồng đều phải được thực hiện đầy đủ. Cụ thể là thực hiện đúng đối tượng, đúng
chất lượng, đúng thời gian, đúng số lượng, đúng phương thức thanh toán và các thoả
thuận khác trong hợp đồng.

24


1.3.2 Đảm bảo quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận


Điều tiên quyết trong một hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là có hiệu lực
khi nhận được ý chí tự nguyện thỏa thuận từ phía hai bên chủ thể, “thuận mua – vừa
bán”. Nguyên tắc tự do thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một
nguyên tắc hết sức quan trọng trong các hợp đồng thương mại quốc tế. Thương nhân
có quyền tự do quyết định ai là người họ sẽ bán hàng và cung cấp dịch vụ của mình và
ai là người mua hàng và nhận cung cấp dịch vụ cho mình, cũng như họ có thể tự do
thỏa thuận những điều khoản của từng giao dịch cụ thể. Đó là nền tảng của trật tự kinh
tế quốc tế mang tính cạnh tranh và theo định hướng thị trường mở. Dĩ nhiên, trong một
số trường hợp ngoại lệ, người ta hạn chế nguyên tắc tự do trong hợp đồng. Về khía
cạnh tự do giao kết hợp đồng với bất kỳ người nào, vì lợi ích chung, Nhà nước có thể
can thiệp vào một vài ngành kinh tế. Trong trường hợp đó hàng hóa chỉ có thể mua
được từ một nhà cung cấp, thường là các công ty của Nhà nước. Những công ty này có
thể không có nghĩa vụ phải giao kết hợp đồng với bất kỳ ai có yêu cầu, trong giới hạn
các hàng hóa và dịch vụ có sẵn.
1.3.3 Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội

Pháp luật Việt Nam hay các điều ước quốc tế đều đưa ra những nguyên tắc đảm
bảo tính ổn định, cân bằng cho xã hội. Theo nguyên tắc này, các bên có quyền tự do
quyết định nội dung của hợp đồng, nhưng trước hết, giới hạn của nguyên tắc này là các
điều khoản các bên đưa ra không được vi phạm pháp luật cũng như trái với thuần
phong mỹ tục và chuẩn mực đạo đức xã hội.
1.3.4 Đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên

Nguyên tắc này dựa trên đặc trưng của quan hệ hợp đồng dân sự nói chung và
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Trong quá trình giao kết và thực hiện
hợp đồng, các bên đều bình đẳng như nhau, không ép buộc, đe dọa hay áp đặt ý chí
của mình với đối tác. Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng giao
25



×