Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Báo cáo tổng kết Đề tài Bước đầu nghiên cứu lai giống cho một số loài Bạch đàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.09 KB, 43 trang )

1
kết quả bớc đầu nghiên cứu lai giống một số loài bạch đàn

(Báo cáo tổng kết đề tài)
------------------GS. Lê Đình Khả, KS. Nguyễn Việt Cờng

A. Mở đầu
Bạch đàn là nhóm cây đợc gây trồng rộng rãi ở nhiều vùng trong
nớc ta (đặc biệt là các tỉnh miền Trung và miền Nam) để cung
cấp nguyên liệu giấy, ván dăm, gỗ trụ mỏ, gỗ xây dựng và củi
đun. Đây cũng là cây trồng chủ yếu trên các đờng nông thôn,
các bờ vùng, bờ thửa ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Cửu
Long.
Kết quả nghiên cứu và gây trồng nhiều năm qua đã cho thấy
trong nhiều loài bạch đàn đợc nhập vào nớc ta chỉ một số loài
sinh trởng nhanh và có khả năng thích ứng lớn. Trong đó, đáng
chú ý là các loài Bạch đàn urô (Eucalyptus urophylla), Bạch đàn
caman (E. camaldulensis), Bạch đàn terê (E. tereticornis) và Bạch
đàn liễu (E. exserta).
Bạch đàn urô là loài có thể gây trồng từ bắc Trung Bộ trở ra và
vùng Tây Nguyên. Bạch đàn caman và Bạch đàn terê là những
loài thích hợp cho vùng đồng bằng và đất cát ven biển, khi trồng
ở vùng đồi thờng sinh trởng nhanh trong 1 - 2 năm đầu. Hai loài
này hiện đang đợc trồng rộng rãi ở các tỉnh miền Trung và miền
Nam xuất khẩu nguyên liệu giấy. Bạch đàn liễu chịu đợc mật độ
cao và dễ thích ứng với đất đồi trọc nghèo dinh dỡng.
Lai giống giữa các loài này nhằm tạo ra giống lai có năng suất cao
và có khả năng thích ứng với một số lập địa cụ thể sẽ góp phần
giải quyết nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp, gỗ trụ mỏ, gỗ
xây dựng, gỗ củi và phòng hộ ở một số vùng nớc ta, góp phần
thực hiện chơng trình gây trồng 3 triệu hecta rừng sản xuất và


phòng hộ.
Theo Martin (1989) thì đến năm 1989 đã có hơn 20 tổ hợp lai
khác loài đợc tạo ra ở chi Bạch đàn, trong đó chủ yếu là nhóm E.
grandis và E. urophylla đợc dùng làm cây mẹ. Đó là E. grandis lai
với các loài E. robusta, E. camaldulensis, E. tereticornis, E. saligna
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


2
và E. pellita, và E. urophylla lai với E. grandis, E. pellita và
E.resinifera. Còn theo Shuxiong (1989) thì từ năm 1975 Viện
nghiên cứu lâm nghiệp Quảng Tây (Trung Quốc) đã tạo đợc một
số tổ hợp lai E. saligna x E. exserta, trong đó một số cá thể của
cây lai có thể tích thân cây vợt E. exserta đến 82%. Từ năm
1989 Viện lâm nghiệp nhiệt đới của Trung Quốc cũng tạo ra 204
cây lai (không phải tổ hợp lai) giữa E. urophylla với E.
tereticornis, E. camaldulensis, E. exserta, E. grandis, E. saligna và
E. pellita, trong đó một số cá thể cây lai E. urophylla x E.
tereticornis và E. urophylla x E. camaldulensis đã có u thế lai rõ
rệt về sinh trởng so với bố mẹ của chúng, cây lai có thể tích vợt
bố mẹ tơng ứng là 120,7% và 89,4% (Xing & Wang, 1996; Shen
Xihuan, 2000). Các tổ hợp lai thuận nghịch giữa E. urophylla và
E. grandis đã đợc tạo ra ở Trung Quốc (Wang and Yang, 1996,
Rezende Gabriel & Rezende Marcos, 2000), ở Brazil và ở
Indonesia (Hardlyanto & Tridasa, 2000). Một loạt tổ hợp lai giữa
các loài E. alba, E. camaldulensis, E. microtheca, E. terericornis,
E. polycarpa và E. torelliana cũng đợc tạo ra ở ấn Độ trong thời
gian từ năm 1991 - 1999. ở giai đoạn 6 tháng tuổi một số tổ hợp
lai đã có u thế lai khá rõ so với bố mẹ (Paramathma, Surendran,
2000).

Chơng trình cải thiện giống cho E. pellita dựa trên lai thuận
nghịch cũng đợc thực hiện ở Pointe Noire. Sinh trởng của những
cá thể tốt nhất của các tổ hợp lai xa khác loài đã vợt trội
(superior) các xuất xứ tốt của loài thuần (loài bố mẹ) (Harwood,
1998).
Giống lai tự nhiên giữa E. camaldulensis với E. robusta đợc phát
hiện trớc đây ở Việt Nam (Lê Đình Khả, 1970) cũng có sinh trởng nhanh hơn rõ rệt so với các loài bố mẹ.
Vì vậy, tiến hành lai thuận nghịch giữa các loài E. urophylla, E.
exserta và E. camaldulensis nhằm tạo ra một số tổ hợp lai có
năng suất cao sẽ góp phần tăng năng suất rừng trồng, mau chóng
thực hiện chơng trình trồng mới 3 triệu hecta rừng sản xuất và
rừng phòng hộ ở Việt Nam.
Đề tài "Bớc đầu nghiên cứu lai giống cho một số loài Bạch
đàn" đợc đặt ra nhằm tìm hiểu khả năng lai giống cho một số
loài Bạch đàn hiện có, góp phần tăng năng suất rừng ở nớc ta.

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


3
Một số việc đã đợc tiến hành trớc khi lai giống là chọn lọc cây
trội cho các loài cây đợc dùng làm bố mẹ, nghiên cứu vật hậu về
ra hoa kết quả, tiến hành thu hái và cất trữ hạt phấn, xác định
các phơng thức cất trữ hạt phấn thích hợp, tiến hành thụ phấn có
kiểm tra cho các loài cây đợc nghiên cứu. Các giống lai tạo ra đã
đợc trồng khảo nghiệm so sánh với các giống bố mẹ và giống sản
xuất ở giai đoạn vờn ơm và rừng trồng trong các điều kiện sinh
thái khác nhau, cũng nh đợc nghiên cứu một số đặc hình thái
giải phẫu, hoá sinh và tỷ lệ bị sâu bệnh. Một số giống lai có
tính đại diện đã đợc dùng để nghiên cứu tiềm năng bột giấy của

chúng.
Đề tài đợc tiến hành trong 5 năm (1996 - 2000). Đây là loại đề
tài mới, lần đầu tiên đợc thực hiện trong lĩnh vực cây rừng ở nớc
ta, nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót.

B. Vật liệu và phơng pháp nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu là một số cây trội 10 - 15 tuổi đợc chọn lọc
của các loài E. urophylla, E. exserta và E. camaldulensis.
- E. urophylla (U) bao gồm các xuất xứ Egon và Lewotobi trên
đảo Flores (U11, U15, U16, U17, U29, U30), Lembata trên đảo Lomblen
(U24, U27). Đây là những xuất xứ có sinh trởng nhanh nhất trong
các khảo nghiệm ở Việt Nam (Nguyễn Dơng Tài, 1994, Lê Đình
Khả, 1996, 2001, Phạm Văn Tuấn et al, 2000). Đặc điểm của Bạch
đàn urô là năm đầu sinh trởng chậm, từ năm thứ 2 bắt đầu
sinh trởng nhanh và ổn định trong 3 - 4 năm liền.
- E. camaldulensis (C) đợc dùng để lai giống là nòi địa phơng
ở Nghĩa Bình không bị bệnh khô rụng lá cành (Lê Đình Khả et
al, 1996, Nguyễn Hoàng Nghĩa, Lê Đình Khả, 1998, Sharma,
1994). Bạch đàn caman thờng sinh trởng nhanh trong năm đầu,
sau đó sinh trởng chậm hơn Bạch đàn urô.
- E. exserta (E) đợc dùng để lai giống cũng là nòi địa phơng
chịu đợc điều kiện lập địa đất đồi trọc nghèo dinh dỡng và
chịu đợc mật độ trồng tơng đối cao. Bạch đàn liễu sinh trởng
nhanh ở giai đoạn vờn ơm, sau đó sinh trởng chậm.
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


4

Cả ba loài này đều thuộc chi phụ Symphyomyrtus. Trong đó

E.urophylla thuộc nhánh (Section) Transversaria, còn E.exserta và
E.camaldulensis đều thuộc loạt (Seria) Tereticornes trong nhánh
Exsertaria (Wilcox, 1997). Nghĩa là cả ba loài này đều có quan
hệ họ hàng gần nhau, song E. camaldulensis và E. exserta có
quan hệ thân thuộc hơn so với quan hệ giữa chúng với E.
urophylla.
Một số cây trội của các xuất xứ có sinh trởng nhanh hoặc có
tính chống chịu của các loài Bạch đàn E.urophylla (U), E.exserta
(E) và E.camaldulensis (C) đã đợc dùng làm cây bố mẹ trong lai
giống. Trong đó Bạch đàn trắng caman là nòi địa phơng
Nghĩa Bình, Bạch đàn liễu là nòi địa phơng ở Ba Vì.
Cây đợc dùng làm bố mẹ bao gồm cả các cây trội đợc chọn và
đợc ghép trong các năm 1991 - 1992 tại Ba Vì và tại Chèm nh U29,
U30, C3, C4 và E4, E7 lẫn các cây trội đợc chọn trong các năm 1996
- 1997 và đợc sử dụng ở dạng cây đứng tại rừng nh U11, U15, U16,
U17, U26, C2, C5, C9, E1, E2.
Nghiên cứu vật hậu về thời kỳ ra hoa kết quả đợc tiến hành tại
Ba Vì.
Nghiên cứu cất trữ hạt phấn đợc tiến hành tại phòng thí nghiệm
ở Chèm của Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng, ở điều kiện
nhiệt độ trong phòng, tủ lạnh thờng (+4oC) và tủ lạnh sâu (30oC).
Hạt phấn đợc thu hái cho từng cây, đợc làm sạch bằng cách nhặt
hết tạp vật và làm khô bằng silicagel có chỉ thị màu ở nhiệt độ
trong phòng (25 - 28oC).
Sức sống hạt phấn đợc xác định bằng tỷ lệ phần trăm (%) hạt
phấn nẩy mầm sau 24 giờ trên môi trờng do Pryor đề xuất (Van
Wyk, 1981) gồm 1,5% agar, 35% đờng sacarose và 250ppm axit
boric.
Chụp bao cách ly để xác định khả năng tự thụ phấn đợc thực
hiện trớc lúc hoa nở một ngày.


/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


5
Khử đực và cách ly đợc tiến hành trớc khi thụ phấn. Sau khi thụ
phấn lại chụp bao cách ly cho đến khi đầu nhuỵ không có khả
năng tiếp thu hạt phấn mới thôi, nghĩa là 10 ngày sau khi thụ
phấn.
Lai giống (thụ phấn có kiểm tra) đợc tiến hành cho từng cặp
cây bố mẹ riêng biệt, nhằm xác định khả năng lai giống và u
thế lai cho từng cặp lai cụ thể.
Các hạt lai đã tạo ra đợc gieo ơm tại Chèm (Hà Nội) và tại Ba Vì
(Hà Tây).
Khảo nghiệm tại rừng trồng đợc tiến hành cho các tổ hợp lai
chính là E. urophylla x E. camaldulensis (UC), E. camaldulensis x
E. urophylla (CU), E. urophylla x E. exserta (UE), E. exserta x E.
urophylla (EU), E. camaldulensis x E. exserta (CE) và E. exserta x
E. camaldulensis (EC), có so sánh với bố mẹ của chúng (U, C, E)
và các xuất xứ tốt nhất của CSIRO nh UEgon, ULem, CKen, cũng nh với
các nòi địa phơng của Bạch đàn trắng (CSX), Bạch đàn liễu (ESX)
và Bạch đàn urô (USX).
Bảng 1. Đặc điểm khí hậu ở một số khu khảo nghiệm các
giống Bạch đàn lai (Nguyễn Trọng Hiếu, 1990)
Nơi
khảo
nghiệ
m
Thuỵ
Phơng

Ba

Đông

Kiên
Giang

Độ
cao
(m)
5


độ
(phút
)
21,01

50

21,07

15

16,50

2

10,00


Lợng
bốc
hơi
(mm)
990

Trung
bình
năm

1680

Số
tháng
ma >
100
mm
5 - 10

23,5

Nhiệt độ
Tối
Tối
cao
thấp
tuyệt tuyệt
đối
đối
42,8

2,7

1680

4 - 10

960

23,2

40,2

5,3

2370

8 - 12

1508

24,8

42,1

9,8

2060

5 - 11


1170

27,6

37,9

14,7

Kinh
độ

Lợng
ma
(mm)

105,5
1
105,2
6
107,0
5
105,0
5

Các tổ hợp lai tạo ra trong các năm 1996 - 1999 đã đợc khảo
nghiệm so sánh với bố mẹ của chúng và với giống sản xuất. Khảo
nghiệm đợc bố trí ở các điều kiện khí hậu và đất đai khác
nhau nh đất đồng bằng (Hà Nội), đất đồi (Ba Vì, Đông Hà) và
đất ngập phèn (Kiên Giang). Số liệu khí hậu ở Bảng 1 cho thấy
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc



6
điều kiện khí hậu ở Thuỵ Phơng và Ba Vì về cơ bản là giống
nhau, Đông Hà và Kiên Giang là những nơi tuy có lợng bốc hơi lớn
(1508 - 1170 mm/năm) song cũng có lợng ma lớn, nên lợng ma hữu
hiệu vẫn cao. Kiên Giang là nơi có nhiệt độ cao và ít biến động
trong năm.
Bảng 2 giới thiệu tính chất đất ở các nơi khảo nghiệm nh đất
đồng bằng Sông Hồng, đất ngập phèn theo mùa ở đồng bằng
Sông Cửu Long, đất đồi ở Ba Vì và Đông Hà.
Bảng 2. Tính chất đất ở một số khu khảo nghiệm các giống
Bạch đàn lai.
Tên
phẫu
diện

Thuỵ
Phơng

Ba Vì
(Cẩm
Quỳ)
Đông


Kiên
Giang

Độ

sâu
(cm)

pH
(KCl
)

Mùn
(%)

Đạm
(%)

Chất dễ
tiêu (mg/
100g)
P2O5 K2O

Cation trao đổi
(lđl/ 100g)

Thành phần cơ giới
(%)

Ca++

Mg+

Al++


20,02

0,02 0,002

<
0,00
2

5,01

-

34,1

48,5

3,07

-

40,5

44,6

3,32

-

58,2


32,4

17,4
0
14,9
0
9,40

+

0-10

7,60

0,90

0,12

37,6

19,2

1020
2030

7,60

0,78

0,10


21,6

7,70

1,21

0,14

34,8
0
30,4
0

16,8

10,8
4
11,2
5
9,94

0-10
1020
2030

3,80
3,80

3,70

2,70

0,30
0,20

1,60
1,20

11,3
6,2

0,50
0,60

0,30
0,30

6,10
5,60

33,0
33,0

41,0
42,0

26,0
26,0

3,80


1,20

0,14

0,80

6,2

1,10

0,50

5,7

33,0

41,0

26,0

0-10

4,50

1,90

0,08

5,30


11,5

0,70

0,40

1,70

69,8

16,4

13,8

1020
2030

4,30

1,20

0,07

4,90

7,20

0,50


0,10

2,40

65,0

18,1

16,9

4,40

1,00

0,06

4,10

7,20

0,30

0,15

2,70

64,3

19,1


16,6

0-10

3,50

2,60

0,20

2,1

8,0

1,40

1,00

16,0

32,0

52,0

1020
2030

3,60

3,60


0,20

3,5

12,0

1,60

0,50

10,0
2
9,76

19,0

31,0

50,0

3,70

3,30

0,20

2,5

6,0


2,60

0,60

10,4
0

17,0

32,0

51,0

- Đất phù sa đồng bằng sông Hồng tại Thuỵ Phơng (Hà Nội), có
độ cao 6m trên mặt biển, đất sâu hơn 4m, độ phì tơng đối
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


7
cao có pH trung tính, hàm lợng P2O5, Ca, K2O và Mg đều cao. Đất
đợc lên líp cao 0,6m, rộng 4,0m. Khoảng cách trồng 2 x 2m. Khối
6 cây, lặp lại 3 lần.
- Đất đồi trọc lateritic phát triển trên sa thạch ở Ba Vì (Hà Tây)
có độ cao 70m trên mặt biển. Đất nghèo dinh dỡng, mỏng lớp
(tầng A không quá 0,3m), khả năng giữ nớc kém. Đất đợc cày toàn
diện. Khảo nghiệm đợc trồng theo khối hàng 10 cây với 4 lần
lặp (1997 - 1998) hoặc 6 lần lặp (1999), khoảng cách trồng là 3
x 2m. Các tổ hợp lai có nhiều cây đã đợc trồng theo đám 300
cây để chọn lọc cây tốt.

- Đất đồi trọc feralitic phát triển trên diệp thạch ở Đông Hà
(Quảng Trị) có độ sâu 0,5 m. Đất đợc cày ngầm theo rạch, khảo
nghiệm đợc trồng theo khối hàng 10 cây với 3 lần lặp
- Đất ngập phèn theo mùa ở Kiên Giang. Đất sâu nhng bị glây
nặng, ngập trong mùa ma, đợc lên líp cao 0,5 m rộng 5,0m. Đất
chua nghèo dinh dỡng hàm lợng nhôm cao. Khảo nghiệm đợc trồng
theo khối 6 cây với 4 lần lặp, khoảng cách trồng 3 x 2m.
ở tất cả các khảo nghiệm mỗi cây đều đợc bón 3kg phân
chuồng hoai và 200g thermophotphat. Riêng tại Cẩm Quỳ, mỗi
hecta đợc bón thêm 500kg vôi bột.
Số liệu đợc thu thập ở giai đoạn 1 - 3 năm tuổi gồm đờng kính
ngang ngực (D1.3), chiều cao đến ngọn (H). Thể tích thân cây
cả vỏ (V) đợc tính theo công thức:
D21.3
V = ----------------- . H.f
4
Trong đó f là hệ số hình dạng, đợc ớc tính = 0,5.
Thể tích thân cây của từng công thức thí nghiệm đợc tính
theo trị số trung bình về thể tích của từng cây cá thể. Vì thế
trong một số trờng hợp có thể không hoàn toàn trùng khớp với thể
tích tính từ trị số trung bình về đờng kính và chiều cao của
những công thức thí nghiệm này.
Nghiên cứu giải phẫu hình thái lá, cũng nh độ lớn của cành và
góc phân cành đợc thực hiện riêng biệt cho từng cây và tính
trung bình cho từng công thức. Mẫu lá đợc lấy từ lá trởng thành
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


8
đã định hình ở cành thứ 7 tính từ ngọn xuống. Độ lớn cành và

góc phân cành đợc đo ở vị trí 3/4 tán tính từ trên xuống.
Phân tích isozyme đợc tiến hành cho các tổ hợp lai U 29E1, E1U29,
U29E2, E2U29 và các bố mẹ là U29, E1 và E2. Mẫu lá đợc lấy từ cây
con 4 tháng tuổi bằng phơng pháp điện di Tansley Orton (1983).
Tỷ lệ cây bị khô ngọn hoặc bị bệnh loét thân đợc tính theo
phần trăm. Mức độ khô héo lá và ngọn đợc tính theo phơng
pháp cho điểm:
-

0
1
2
3
4
5

điểm
điểm
điểm
điểm
điểm
điểm

là không bị hại.
- 1 - 10% tán lá bị hại.
- 11 - 30% tán lá bị hại
- 31 - 50% tán lá bị hại.
- 51 - 70% tán lá bị hại.
- trên 70% tán lá bị hại và có thể bị chết.


Nghiên cứu tiềm năng bột giấy đợc tiến hành tại Viện Công
nghiệp giấy và xenlulo. Mẫu gỗ đợc lấy từ những cây 3 tuổi
trong khảo nghiệm ở Cẩm Quỳ. Đó là các tổ hợp lai có tính chất
đại diện (nh U29C4, U29E1, E1U29 và E1C4) và bố mẹ của chúng (U29,
Ct, E1), cũng nh một số xuất xứ điển hình của Bạch đàn urô
(UEgon) và Bạch đàn caman (CKen). Mẫu gỗ để xác định tỷ trọng
gỗ và tiềm năng bột giấy đợc lấy từ mỗi công thức 3 cây đại
diện có sinh trởng trung bình. Sau khi chặt, thân cây đợc bóc
vỏ, lấy 5 đoạn chia đều trên thân (tính từ gốc đến phần ngọn
có đờng kính đầu nhỏ 5 cm), mỗi đoạn dài 0,7 m. Từ mỗi đoạn
lại lấy 2 khoanh dày 2,5 cm ở hai đầu. Các khoanh này đợc sấy ở
nhiệt độ 105oC trong 48 giờ để xác định tỷ trọng gỗ, sau đó
chẻ nhỏ, nghiền và sàng qua lỗ sàng 0,4 mm để xác định thành
phần hoá học gỗ và bột giấy.
Tỷ trọng gỗ (D) đợc xác định bằng tổng khối lợng gỗ khô kiệt (W)
trên tổng thể tích (V) các mẫu gỗ trên thân.
D=

W1 + W2 + ..... + Wn
V1 + V1 + ...... + Vn

Hàm lợng xenlulo đợc xác định theo phơng pháp Kurshner, hàm
lợng lignin đợc xác định theo phơng pháp Klason-TAPPI. Cả hai
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


9
phơng pháp này đều bắt đầu bằng việc xử lý mẫu gỗ (đã xay
và sàng) bằng dung dịch rợu Benzen. Sau đó, khi xác định hàm
lợng xenlulo thì xử lý mẫu bằng KOH 25% ở 0 oC trong 3 phút để

khử bớt hemixenlulo, rửa sạch và xử lý bằng axit nitric (HNO 3)
đậm đặc trong dung môi rợu methanol để thuỷ phân lignin và
các hemixenlulo. Khi xác định hàm lợng lignin thì mẫu đợc xử lý
bằng axit sulphuric đậm đặc (72%) ở nhiệt độ 10 - 15oC để
phân huỷ hoàn toàn xenlulo và hemixenlulo. Bột giấy đợc nấu
theo phơng pháp sunphat ở nhiệt độ 170oC trong 120 phút.
Hiệu suất bột giấy đợc tính theo phần trăm (%) lợng bột giấy thu
đợc so với lợng nguyên liệu khô. Độ chịu kéo là độ dài đứt của
băng giấy tiêu chuẩn (70g/m2) rộng 1,5 cm, độ chịu gấp tính
theo đôi lần, chỉ số xé tính theo miliNm 2/g (mNm2/g) là lực cần
thiết để tiếp tục xé mẫu giấy có kích thớc 50 x 70 mm đã đợc
xé mồi, tính theo số gram giấy. Độ trắng đợc tính theo phần
trăm (%) so với mặt trắng tiêu chuẩn.
Số liệu thu thập đợc xử lý theo chơng trình GENSTAT và
DATACHAIN (Williams và Matheson, 1984).

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


10

C. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
I. chọn lọc cây trội và các nghiên cứu về hạt phấn và thụ phấn.

1. Chọn lọc cây trội.
Chọn lọc cây trội đợc tiến hành trong các năm 1991 - 1992 cho
cả ba loài Bạch đàn urô (U29, U30), Bạch đàn caman (C4) và Bạch
đàn liễu (E4, E5, E6, E7). Các cây trội đợc chọn lọc đều có độ vợt
về đờng kính và chiều cao so với trị số trung bình cuả đám
rừng 1,5 - 3,0 độ lệch chuẩn (tức + 1,5 đến + 3,0).

Cành của các cây trội đợc chọn lọc đã đợc ghép lên gốc ghép trẻ
tại Đá Chông (Hà Tây) và tại Chèm (Hà Nội). Năm 1995 - 1997 đã
chọn tiếp một số cây Bạch đàn urô (U 11, U15, U16, U17), Bạch đàn
caman C3, C5, C9, C10, C11, C12, C13, C14 và Bạch đàn liễu (E1, E2) 4 5 năm tuổi tại rừng trồng ở khu vực Cẩm Quỳ và dùng làm cây bố
mẹ để lai giống trực tiếp tại rừng. Ngoài ra, còn một số cây
Bạch đàn urô xuất xứ Lembata (U 23, U24, U27) và Egon Flores (U26)
đợc chọn tại Đông Hà để dùng làm cây bố.
Trong số các cây trội đợc chọn lọc đã xuất hiện bốn nhóm khác
nhau là:
- Hữu thụ đực, hữu thụ cái: có thể làm bố và làm mẹ.
- Hữu thụ đực, bất thụ cái: chỉ có thể làm bố.
- Hữu thụ cái, song không đủ hoa để lấy phấn, chỉ đợc
dùng làm mẹ.
- Bất thụ cái, bất thụ đực: không thể làm bố và làm mẹ.
Chính vì thế trong các tổ hợp lai đợc tạo ra đã gồm cả các tổ
hợp có lai thuận nghịch lẫn các tổ hợp chỉ có lai một chiều.
2. Đặc điểm vật hậu của các loài Bạch đàn đợc dùng trong
lai giống.
Nghiên cứu đặc điểm vật hậu của các loài Bạch đàn urô, Bạch
đàn caman và Bạch đàn liễu (Bảng 3) cho thấy các loài này có
thời gian hình thành nụ hoa, nở hoa và quả chín khác nhau khá
rõ rệt.

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


11
Bạch đàn liễu bắt đầu nở hoa ngày 15 - 25 tháng 5, kết thúc nở
hoa ngày 1 - 10 tháng 7, thời kỳ nở hoa kéo dài trong 2 tháng.
Thời gian lúc hình thành nụ đến lúc quả chín là 14 tháng.


Bảng 3. Đặc điểm vật hậu về ra hoa kết quả của các loài Bạch
đàn urô, Bạch đàn caman và Bạch đàn liễu tại Ba Vì (1994 1997).
Loài

Hình
thành
nụ

Bạch đàn liễu
Bạch
đàn
caman
Bạch đàn urô

15/III 10/IV
1 - 20/VII
năm trớc
15/IV 10/V

Thời gian diễn biến các pha (ngày, tháng)
Nở hoa
Quả chín
Bắt đầu

Nở rộ

Kết thúc

15 - 25/V


5 - 25/VI

1 - 10/VII

25/II - 20/III

18 28/IV
20 30/IX

25/V 10/VI
20 - 30/X

5/VIII - 15/IX

15 - 25/V
năm sau
16 - 25/VIII
15 - 30/V
năm sau

Bạch đàn caman có thời kỳ nở hoa từ ngày 25 tháng 2 đến ngày
10 tháng 6. Thời kỳ nở hoa kéo dài trong 3 tháng rỡi. Thời gian từ
lúc hình thành nụ đến lúc quả chín kéo dài 13 tháng.
Bạch đàn urô có thời kỳ nở hoa từ ngày 5 tháng 8 đến ngày 30
tháng 10. Thời kỳ nở hoa kéo dài gần 3 tháng. Thời gian từ lúc
hình thành nụ đến lúc quả chín kéo dài 13 tháng.
Thời kỳ Bạch đàn liễu bắt đầu nở hoa (20/V - 5/VI) và Bạch đàn
caman kết thúc nở hoa (25/V - 10/VI) có đến 10 ngày trùng khớp
(25/V - 5/VI). Trong lúc các loài Bạch đàn đều thụ phấn nhờ côn

trùng (Van Wyk, 1981). Vì thế, đã có thể tạo ra hiện tợng lai
giống tự nhiên giữa hai loài này. Đây cũng là điều giải thích cho
sự xuất hiện khá phổ biến của giống lai tự nhiên giữa Bạch đàn
liễu và Bạch đàn caman tại một số nơi ở miền Bắc nớc ta (Biểu
đồ 1).

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


Mức độ nở
hoa

12

C

U
E

Tháng: I

II

III

IV

V

VI


VII

VIII

IX

X

XI

XII

Biểu đồ 1. Thời kỳ nở hoa của Bạch đàn trắng (C), Bạch đàn
liễu (E) và Bạch đàn urô (U) năm 1996 cho thấy cuối tháng 5
đầu tháng 6 là thời kỳ nở hoa trùng của Bạch đàn trắng và
Bạch đàn liễu, có thể tạo ra giống lai tự nhiên giữa 2 loài này.

Giữa Bạch đàn urô với Bạch đàn caman và Bạch đàn liễu hoàn
toàn không có thời gian trùng khớp về nở hoa. Vì thế cũng không
thể có giống lai tự nhiên giữa Bạch đàn urô với hai loài còn lại.
Muốn tạo ra giống lai giữa Bạch đàn urô với Bạch đàn caman
hoặc giữa Bạch đàn urô với Bạch đàn liễu phải dùng phơng pháp
thụ phấn có kiểm tra, nói cách khác, phải tiến hành lai giống
nhân tạo.
Có thể hình dung các thời kỳ bắt đầu nở hoa, nở rộ và kết thúc
nở hoa của ba loài bạch đàn này nh Biểu đồ 1.
3. Xác định sức sống hạt phấn và thời gian cất trữ.
Các loài Bạch đàn đợc dùng để lai giống có thời gian nở hoa cách
nhau khá dài, vì thế muốn lai giống thành công phải cất trữ hạt

phấn trong những điều kiện thích hợp nhằm kéo dài tuổi thọ
của chúng.
Hạt phấn của Bạch đàn caman sau khi làm khô bằng silicagel ở
nhiệt độ 25 - 28oC đã đợc cất trữ trong tủ lạnh thờng (+4oC) và
trong tủ lạnh sâu (-30oC).
Số liệu ở Bảng 4 đã cho thấy cất trữ trong tủ lạnh thờng thì sau
gần một năm rỡi (16 tháng) hạt phấn giảm sức nẩy mầm 28,3%
(từ 76,9% xuống còn 48,6%), sau hơn 3 năm rỡi (43 tháng) hạt
phấn hoàn toàn mất sức nảy mầm. Khi cất trữ hạt phấn trong tủ
lạnh sâu thì sau 1 năm rỡi hạt phấn chỉ mất sức nẩy mần 10,5%
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


13
(từ 76,9% còn 69,6%), sau 3 năm rỡi cũng chỉ mất sức nẩy mầm
7,3% (còn 64,8%). Thí nghiệm cất trữ lặp lại cho cả Bạch đàn
urô và Bạch đàn caman với các nhiệt độ cất trữ khác nhau đã
thấy rằng khi cất ở nhiệt độ trong phòng (20 - 30 oC) thì chỉ sau
1 tuần hạt phấn đã giảm tỷ lệ nẩy mầm rõ rệt (còn 13,3 15,0%), đến tuần thứ hai đã hoàn toàn mất sức nẩy mầm. ở
nhiệt độ +4oC có thể cất đợc hạt phấn trong một năm. Còn ở
nhiệt độ -30oC có thể cất đợc hạt phấn trong 4 năm với tỷ lệ nẩy
mầm giảm bớt gần một nửa ban đầu (Bảng 5). Trong lúc theo
quy định của Trung tâm nông nghiệp quốc tế Australia (ACIAR)
thì hạt phấn Bạch đàn có tỷ lệ nẩy mầm 10% vẫn có thể dùng
để lai giống (Moncur, 1995). Nh vậy điều kiện cất trữ
thích hợp cho hạt phấn Bạch đàn là -30oC trong tủ lạnh sâu.
Bảng 4. Tỷ lệ nẩy mầm của hạt phấn Bạch đàn caman ở các
điều kiện
cất trữ khác nhau.
Tỷ lệ nẩy mầm (%)

Thời gian cất
trữ

4C

-30oC

o

- Trớc cất trữ
- Sau 16 tháng
- Sau 43 tháng



Sd

V (%)



Sd

V (%)

79,6
48,6
0

1,8

2,8
0

2,4
5,8
0

76,9
69,6
64,8

1,8
1,0
1,7

2,4
1,5
2,6

Từ kết quả thí nghiệm nói trên, hạt phấn đã thu hái của các loài
Bạch đàn đều đợc cất trữ trong tủ lạnh sâu có nhiệt độ -30 oC.
Song do đặc điểm sinh học của loài và của cá thể mà sức sống
hạt phấn của chúng cũng khác nhau khá lớn (Bảng 6).
Bảng 5. Tỷ lệ nẩy mầm của hạt phấn Bạch đàn ở các nhiệt độ
cất trữ khác nhau.
Loà
i

Nhiệt
độ

cất
trữ
(oC)

Tỷ lệ
nẩy
mầm
ban
đầu
(%)

1 tháng

v
(%)

Tỷ lệ nẩy mầm (%)
1 năm
2 năm


v
v
(%)
(%)

4 năm

v
(%)


/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


14
U

- 30

71,8

+4
+ 25
C

- 30
+4
+ 25

82,0

70.
7
68.
7
13.
3
81.
5
69.

3
15.
9

6.4

62.7

13.8

50.6

13.8

41.0

14.5

6.8

43.2

11.9

0

0

0


0

21.5

0

0

0

0

0

0

5.7

74.5

9.6

62.8

13.5

44.3

16.8


7.9

51.7

15.1

0

0

0

0

39.2

0

0

0

0

0

0

Ghi chú: Số liệu nẩy mầm sau 1 tuần.


Số liệu ở Bảng 6 cho thấy Bạch đàn caman sau hơn 2 năm cất
trữ chỉ giảm tỷ lệ nẩy mầm 16,1% (từ 86% xuống 69,9%), sau
4 năm cất trữ vẫn giữ đợc tỷ lệ nẩy mầm 52,3%. Trong đó, có
cây sau 4 năm cất trữ hạt phấn vẫn có tỷ lệ nẩy mầm 78,9%,
song có cây hạt phấn chỉ có tỷ lệ nẩy mầm 28,3%. Hạt phấn
Bạch đàn liễu sau 2 năm cất trữ cũng chỉ giảm tỷ lệ nẩy mầm
21,9% (từ 77,1% xuống còn 55,2%). Hạt phấn của Bạch đàn urô
sau 2 năm cất trữ vẫn giữ đợc tỷ lệ nẩy mầm khá cao (từ 42,5 57,0%), chỉ 1 cây (U 23) còn 36,5%, sau 4 năm cất trữ, tuy tỷ lệ
nẩy mầm trung bình của hạt phấn chỉ còn 35,3%, song có cây
hạt phấn vẫn có tỷ lệ nẩy mầm 50,7% (Bảng 6). Số liệu ở Bảng 6
cũng cho thấy có sự khác biệt khá lớn giữa các loài và giữa các
cây cá thể về tỷ lệ nẩy mầm của hạt phấn sau 4 năm cất trữ,
mặc dầu tỷ lệ nẩy mầm ban đầu giữa các cây cá thể trong
từng loài khác nhau không lớn. Điều đó chứng tỏ sai khác về khả
năng cất trữ hạt phấn không chỉ thể hiện ở các loài khác nhau
mà còn ở các cá thể khác nhau của cùng một loài. Hơn nữa sai
khác về khả năng cất trữ hạt phấn trong năm đầu là không lớn
thì đến năm cất trữ thứ hai và đặc biệt là năm thứ 4 lại trở nên
hết sức rõ rệt. Những lô hạt phấn ban đầu có sức nẩy mầm cao
thờng duy trì đợc sức sống lâu hơn so với những lô hạt phấn ban
đầu có sức nẩy mầm thấp. Nói cách khác, những lô hạt phấn ban
đầu có sức nẩy mầm thấp thì cũng mau mất sức nẩy mầm.

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


15

Bảng 6. Tỷ lệ nẩy mầm của hạt phấn một số loài Bạch đàn sau
4 năm

cất trữ ở nhiệt độ -30oC.
Ngày
thu phấn
(năm
1996)

Tỷ lệ nẩy mầm của hạt phấn (%)
Trớc cất trữ
Sau 1 năm
Sau 2 năm
Sau 4 năm




v (%)
v (%)
v (%)
v (%)

U29

25/IX

66,6

9,8

54,8


18,0

42,5

16,8

U23

7/VIII

68,7

11,2

56,2

16,1

36,5

30,3

U24

7/VIII

69,7

10,0


60,8

9,1

56,4

12,3

U26

7/VIII

71,5

10,0

63,1

8,1

57,0

19,1

Uhỗn hợp

10/VIII

71,8


7,4

62,8

13,8

50,6

13,8

TB

69,7

-

59,5

-

48,6

-

C10

17/IV

85,0


5,5

79,5

10,0

76,1

11,7

C11

4/V

90,0

3,6

89,2

2,6

84,8

1,8

C12

17/IV


80,4

6,3

69,7

11,1

56,1

13,5

C13

6/V

88,4

6,9

74,8

8,3

62,4

8,1

C14


28/IV

90,5

5,2

83,2

6,1

77,0

5,2

Chỗn hợp

17/IV

82,0

4,2

74,5

9,6

62,8

13,5


TB

86,0

-

78,5

-

69,9

-

E1

4/VI

67,7

4,2

58,2

12,8

49,3

12,1


E2

5/VI

80,8

8,2

70,5

7,3

58,0

8,1

E4

25/V

84,3

7,0

72,2

8,8

59,9


5,8

Ehỗn hợp

5/VI

75,6

4,2

61,6

1,0

53,5

17,0

TB

77,1

-

65,6

-

55,2


Loài

19,
6
16,
6
48,
4
50,
7
41,
0
35,
3
66,
2
78,
9
28,
3
35,
1
60,
7
44,
3
52,
3
26,
6

31,
1
30,
9
28,
3
29,
2

32,1
29,8
9,1
11,0
14,5
8,3
8,4
18,9
20,5
13,0
16,8
24,8
16,5
21,4
18,9
-

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


16


4. ảnh hởng của phơng thức thụ phấn đến tỷ lệ đậu quả
và một số
chỉ tiêu khác.
Một vấn đề hết sức quan trọng trớc khi tiến hành lai giống là xác
định khả năng sử dụng bao cách ly trong quá trình lai giống
cũng nh khả năng tự thụ phấn khi chụp bao cách ly. Thí nghiệm
chụp bao cách ly lúc hoa sắp nở và không chụp bao cách ly (để
thụ phấn tự do) cho các loài Bạch đàn urô, Bạch đàn caman và
Bạch đàn liễu tại Ba Vì và tại Chèm (Bảng 7) đã thấy rằng tất cả
các công thức chụp bao cách ly đều không đậu quả và không
kết hạt, trong lúc các công thức không chụp bao cách ly (để thụ
phấn tự do) của Bạch đàn liễu và Bạch đàn urô có tỷ lệ đậu quả
75,7 - 86,1%.
Điều đó chứng tỏ các loài Bạch đàn tuy có cấu tạo hoa lỡng tính,
song hoàn toàn bất thụ khi tự thụ phấn cùng hoa trong bao cách
ly. Nói cách khác việc chụp bao cách ly trớc và sau khi thụ phấn có
kiểm tra là hoàn toàn có tác dụng và cần thiết trong lai giống.
Cây số 3 của Bạch đàn caman (C 3) để thụ phấn tự do cũng vẫn
không đậu quả, trong lúc hạt phấn của cây này lại có tỷ lệ nẩy
mầm đến 84,0%, chứng tỏ cây C 3 là bất thụ cái và không thể
dùng làm cây mẹ để lai giống.
Bảng 7. ảnh hởng của phơng thức thụ phấn đến tỷ lệ đậu quả
và một số
chỉ tiêu khác ở một số loài Bạch đàn.
Loài và công thức thí
nghiệm

E1 - Thụ phấn tự do
- Chụp bao cách

ly
E2 - Thụ phấn tự do
- Chụp bao cách
ly
E4 - Thụ phấn tự do
- Chụp bao cách

Khối lợng
1000 hạt
(mg)

Số quả
thụ
phấn

Số quả
thu đợc

Tỷ lệ
đậu quả
(%)

Số hạt
trong
quả

144
123

117

0

81,3
0

3,4
0

310,3
0

144
45

109
0

75,7
0

1,6
0

301,6
0

119
110

99

0

83,2
0

2,4
0

297,3
0

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


17
ly
C3 - Thô phÊn tù do
- Chôp bao c¸ch
ly
U29 - Thô phÊn tù do
- Chôp bao c¸ch
ly

125
130

0
0

0

0

0
0

0
0

173
137

149
0

86,1
0

13,9
0

388,2
0

E1C3
E1C4
E1U29

53
60
185


28
25
74

54,7
41,6
40,0

43,2
54,1
51,8

233,0
233,8
264,0

E2C3
E2C4
E2U29

33
115
177

13
32
70

34,9

27,8
39,5

63,3
63,6
34,8

182,6
189,3
227,7

E4C3
E4C4
E4U29

48
22
281

42
16
68

87,5
72,7
24,2

8,31
11,4
12,6


239,0
270,0
281,0

U29U26
U29U27
U29E1
U29E2
U29E4
U29C3

57
58
80
95
127
130

45
51
60
85
86
117

79,0
87,9
75,0
89,5

67,7
90,0

55,0
57
80,0
82,6
80,2
85,0

173,4
174,8
176,2
175,5
178,3
171,7

U15C1
U15C2
U15C4
U15E2
U15E4
U15U24
U15

435
339
173
360
362

129
-

167
72
60
81
132
63
-

38,4
21,2
34,7
22,5
36,5
48,8
-

9,4
8,7
10,6
13,2
15,1
30,2
9,5

866,0
820,1
789,0

826,5
725,0
702,0
849,0

C2E1
C2E2
C2E4
C2U16
C2U17
C2U23
C2C2

370
433
310
816
505
971
254

29
13
30
24
14
54
5

7,8

3,0
9,7
2,9
2,8
5,6
2,0

22,5
8,2
29,3
36,3
22,2
53,4
8,2

359,0
318,0
285,0
281,0
318,0
288,0
320,0

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


18

C9E1
C9E2

C9U16
C9U17
C9C9
C9

501
307
460
320
258
-

31
9
27
8
17
-

6,2
2,9
5,9
2,5
6,6
-

21,3
30,0
19,5
18,9

3,2
1,52

241,0
247,0
228
214,0
249,0
382,0

Số liệu ở Bảng 7 cũng cho thấy ở các công thức thụ phấn có kiểm
tra mà Bạch đàn liễu E1 và E2 làm mẹ đều có tỷ lệ đậu quả
không cao, song số hạt trong quả lại tăng lên rõ rệt (34,8 - 63,6
hạt/quả) so với khi thụ phấn tự do (1,6 - 2,4 hạt/quả). Mặt khác, ở
tổ hợp E1C có trọng lợng 1000 hạt 233,0 - 233,8mg, nhỏ hơn rõ
rệt so với tổ hợp E1U29 (có khối lợng 1000 hạt 264,0mg), tổ hợp
E2C có khối lợng 1000 hạt 182,6 - 189,3mg, nhỏ hơn rõ rệt so với
tổ hợp E2U29 (có khối lợng 1000 hạt 227,7mg). Nói cách khác, ở các
tổ hợp lai E1C, E2C và E1U29, E2U29 hình nh có hiện tợng hạt trực
cảm (xenia) khi thụ phấn khống chế, tức ảnh hởng của nhân tố
bố thể hiện trực tiếp lên hạt lai ở giai đoạn hình thành hạt. ở các
tổ hợp E4C4 và E4U29 hiện tợng hạt trực cảm thể hiện không rõ rệt.
Các công thức U29E, U29C và U29U cũng nh các tổ hợp U15C, U15E,
U15U và các tổ hợp C2E, C2U đều có khối lợng 1000 hạt khá ổn
định, thay đổi không đáng kể ở các công thức dùng cây bố
khác nhau, nghĩa là các cá thể và loài đợc làm bố đã không ảnh
hởng đáng kể đến khối lợng 1000 hạt ở giai đoạn hình thành
hạt. Mặc dầu vậy, thụ phấn tự do thờng cho hạt có khối lợng lớn
hơn khi thụ phấn khống chế bằng hạt phấn trong loài hoặc khác
loài. Nh vậy khi dùng một số cây của E. urophylla và E.

camaldulensis làm mẹ đã không có hiện tợng hạt trực cảm về lợng
1000 hạt. Tuy vậy, trong những trờng hợp này có thể thấy sự khác
biệt nhất định về màu sắc hạt ở những tổ hợp lai khác loài
(ảnh 1). Nh vậy, hiện tợng hạt trực cảm đợc thể hiện khác nhau
không những ở các loài khác nhau mà còn ở các cá thể khác nhau
(cả về khối lợng 1000 hạt lẫn màu sắc hạt).
Tóm lại, phơng thức thụ phấn có ảnh hởng thực sự đến tỷ lệ
đậu quả, số hạt trong quả và khối lợng của 1000 hạt chắc. Tự thụ
phấn thì không kết hạt, thụ phấn tự do có tỷ lệ đậu quả cao,
song số lợng hạt trong quả ít và khối lợng 1000 hạt lớn. Thụ phấn
có kiểm tra theo phơng thức lai giống có số hạt trong quả nhiều
hơn rõ rệt so với thụ phấn tự do. Khối lợng 1000 hạt cũng thay
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


19
đổi tuỳ theo các bố mẹ cụ thể đợc dùng trong thụ phấn có kiểm
tra, ở một số cá thể của E. exserta có hiện tợng hạt trực cảm,
song ở cá thể khác của E. urophylla và E. camaldulensis lại không
thấy rõ hiện tợng này.
II. Các nghiên cứu về cây lai đời F1.

Nhiều tổ hợp lai đã đợc tạo ra trong lai giống. Năm 1997 chỉ có
ba tổ hợp đầu tiên đợc gây trồng ở Ba Vì và ở Chèm là U29C3,
U29E2 và E2C3 (dới đây gọi tắt là UC, UE và EC). Năm 1998 có 18
tổ hợp lai đợc đa vào khảo nghiệm. Năm 1999 có 41 tổ hợp lai
đợc đa vào khảo nghiệm. Năm 2000 đã có thêm hàng chục tổ
hợp lai khác đợc tạo ra mà cha đợc đa vào khảo nghiệm.
1. Các chỉ tiêu hình thái và giải phẫu lá.
Số liệu ở Bảng 8 cho thấy chiều dài cuống lá ở cây lai có thể lớn

hơn (nh U17C1 và C1U17) hoặc trung gian giữa các loài bố mẹ
(U29E1 và E1U29). Số liệu ở Bảng 8 cũng cho thấy Bạch đàn liễu
dài và hẹp, chỉ số lá (chiều dài/chiều rộng) là 12,10. Lá của Bạch
đàn trắng caman dài và tơng đối rộng, chỉ số lá là 3,44. Lá
Bạch đàn urô dài và rộng, chỉ số lá là 1,68. Tất cả các tổ hợp lai
đã tạo ra đều có chiều dài, chiều rộng và diện tích lá lớn hơn
hoặc trung gian giữa các loài bố mẹ, trong khi chỉ số luôn luôn
thể thiện tính trung gian giữa các loài bố mẹ.
Bảng 8. Hình thái là và diện tích lá của một số tổ hợp Bạch
đàn lai và bố mẹ.

Tổ
hợp lai

Độ dài
cuống
lá (cm)

Hình thái lá
Dài
Rộng
Chỉ số
(cm)
(cm)
(dài/rộn
g)

Diện
tích lá
(cm2)


Số khí khổng
Mặt
Mặt
trên
dới

U29
U29E1
E1U29
E1

1,29
0,71
0,65
0,65

9,52
12,06
11,12
10,30

5,96
2,76
2,29
0,89

1,68
4,41
4,85

12,10

39,21
21,50
16,23
6,59

0
48,8
61,8

150,0
129,6
97,2

U17
U17C1
C1U17

1,30
1,60
1,39

9,56
11,69
11,28

5,58
5,73
4,27


1,72
2,06
2,67

37,38
45,81
32,70

0
150,2
-

572,5
442,3
-

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


20
C1

0,94

10,54

3,09

3,44


21,44

315,7

484,2

Một biểu hiện hết sức rõ rệt về tính chất trung gian là số lỗ khí
ở mặt trên lá của các tổ hợp lai UC, UE. Lá Bạch đàn urô không
có lỗ khí ở mặt trên, lá Bạch đàn caman và Bạch đàn liễu có lỗ
khí ở mặt trên thì các tổ hợp lai UE và UC đều có lỗ khí ở mặt
trên với số lợng trung gian giữa hai loài bố mẹ (Bảng 8).
Hình thái tế bào lỗ khí ở lá của các tổ hợp lai và của bố mẹ đều
khác nhau không đáng kể và do đó kích thớc của chúng cũng
giống nhau.
2. Độ lớn của cành và góc phân cành.
Độ lớn cành (Bảng 9) đợc xác định bằng số đo thực tế và bằng
trị số tơng đối, tức tỷ lệ giữa đờng kính cành ở phần sát thân
(Dc) với đờng kính thân ở điểm phân cành (Dth). Cây lai sinh
trởng nhanh nên đờng kính thân ở điểm phân cành của các tổ
hợp lai luôn luôn lớn hơn các loài bố mẹ, song độ lớn tơng đối của
cành (Dc/Dth) ở các tổ hợp lai lại nhỏ hơn các loài bố mẹ. Cây có
độ lớn tơng đối của cành càng nhỏ thì giá trị chọn giống càng
lớn, vì thế các tổ hợp lai có giá trị chọn giống lớn hơn rõ rệt so
với các loài bố mẹ, mặc dầu góc phân cành của chúng ở vị trí
trung gian hoặc nhỏ hơn một ít so với các loài bố mẹ (Bảng 9).
Bảng 9. Độ lớn của cành và góc phân cành của các tổ hợp lai
Bạch đàn
và các loài bố mẹ ở giai đoạn 9 tháng tuổi.


Công
thức
U
UC
C
EC
E
UE
U

Đờng kính
cành Dc
(cm)

0,44
0,48
0,41
0,28
0,19
0,35
0,44

Đờng kính
thân ở điểm
phân cành
Dth (cm)

V (%)
V (%)
26,5

1,79
21,9
14,3 2,64
18,2
18,5
1,45
21,8
22,0 1,45
29,2
17,8
1,00
30,1
18,6 2,10
21,0
26,5
1,79
21,9

Độ lớn tơng
đối của
cành Dc/Dth

V (%)
0,25 22,7
0,18 15,9
0,29 21,3
0,20 22,5
0,20 25,3
0,17 26,2
0,25 22,7


Góc phân
cành (độ)

57,5
66,3
69,3
63,0
65,8
64,0
57,5

V (%)
15,1
11,9
12,9
13,2
14,4
11,9
15,1

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


21

3. Sự khác về Peroxidaze ở các tổ hợp lai và bố mẹ.
Phân tích mẫu lá bằng các Peroxidaze khác nhau cho các tổ hợp
lai U29E1, E1U29, U29E2, E2U29 và bố mẹ của chúng (U 29, E1 và E2) đã
thấy các cây lai E1U29, E2U29 đều nhận đợc các băng Rf 0,14 và Rf

0,18 từ các cây bố mẹ, các cây lai U 29E1, U29E2 chỉ nhận dợc
băng Rf 0,18 từ U29 và E1, còn băng Rf 0,10 là mới và khác với bố
mẹ của chúng (Biểu đồ 2).
Điều đó chứng tỏ trong phép lai thuận nghịch khi dùng U 29 làm
bố thì cây lai tiếp nhận dợc cả 2 băng Rf 0,14 và Rf 0,18 của cả
bố và mẹ. Còn khi dùng U29 làm mẹ thì cây lai xuất hiện thêm
băng mới (Rf 0,10) mà bố mẹ không có.
0,10...
...
0,14...
...
0,18...
...

U29

U29E1

E1U2
9

E1

U29

U29E

E2U2

2


9

E2

Biểu đồ 2. Phổ isozyme Peroxidase ở các tổ hợp Bạch đàn lai.

4. Sinh trởng của các tổ hợp lai và các loài bố mẹ.
4.1. Khảo nghiệm các tổ hợp lai năm 1997.
Sinh trởng là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả của
lai giống và u thế của cây lai so với các loài bố mẹ. Đo đếm sinh
trởng của cây lai ở giai đoạn 9 tháng tuổi (Bảng 10) tại Cẩm Quỳ
(Hà Tây) và tại Chèm (Hà nội) cho thấy tại Chèm (đất phù sa ở
đồng bằng) U29C3 là tổ hợp lai có sinh trởng nhanh nhất, sau 9
tháng đã cao 4,5m với đờng kính 3,4cm, trong lúc của Bạch đàn
urô có các chỉ tiêu trên tơng ứng là 3,2m và 2,0cm, còn của Bạch
đàn caman là 2,9m và 1,5cm. Thể tích viên trụ của tổ hợp lai
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


22
U29C3 gấp 4 lần Bạch đàn urô và gấp 8 lần Bạch đàn caman
Nghĩa Bình. Nói cách khác khi trồng tại Chèm tổ hợp lai U 29C3 đã
có u thế lai lớn nhất, tiếp theo là tổ hợp lai U 29E2 và cuối cùng là
E2C3. Các tổ hợp lai U29C3 và U29E2 đều sinh trởng nhanh hơn các
loài bố mẹ, trong lúc tổ hợp lai E2C3 chỉ sinh trởng nhanh hơn
bố mẹ thực tế đã tham gia lai giống, nghĩa là EC chỉ sinh trởng
nhanh hơn Bạch đàn liễu và xuất xứ Nghĩa Bình của Bạch đàn
caman.
Tại Cẩm Quỳ, trên điều kiện đất đồi trọc nghèo dinh dỡng và

thiếu nớc trong mùa thu đông, tổ hợp lai U 29E2 lại có u thế lai về
sinh trởng lớn nhất, tiếp đó là tổ hợp lai U 29C3. Đứng sau cùng vẫn
là E2C3. Tất cả các tổ hợp lai đều sinh trởng nhanh hơn các loài
bố mẹ.
Số liệu ở Bảng 10 cũng cho thấy trong điều kiện đất đồi trọc ở
Cẩm Quỳ các tổ hợp lai và các loài bố mẹ đều sinh trởng kém
hơn so với khi trồng ở Chèm, mặc dầu ở cả hai nơi cây lai đều
có sinh trởng nhanh hơn các loài bố mẹ và có tính đồng đều lớn
hơn các loài bố mẹ (hệ số biến động V% nhỏ hơn hoặc trung
gian giữa hai loài bố mẹ). Hơn nữa các tổ hợp lai U 29C3 và U29E2
luôn luôn có sinh trởng nhanh hơn các xuất xứ tốt nhất của các
loài bố mẹ.
Bảng 10. Sinh trởng của một số tổ hợp Bạch đàn lai tại Ba Vì
và tại Chèm
ở giai đoạn 9 tháng tuổi.

Tổ
hợp
U29C3
U29E2
ULem
CKen
U29
E2C3
CSX

Tại Chèm
H (m) D (cm)
4,5
3,8

3,4
3,3
3,2
3,3
2,9

3,4
2,6
2,4
2,0
2,0
1,8
1,5

Vvt
(dm3)
4,08
2,02
1,53
1,04
1,01
0,84
0,51

Tổ
hợp
U29E2
U29C3
E2C3
CKen

U29
ULem
E2

Tại Cẩm Quỳ
H (m) D (cm)
3,9
3,4
3,4
3,3
2,5
2,6
2,4

3,4
3,1
2,7
2,2
2,3
2,1
1,8

Vvt
(dm3)
3,54
2,57
1,95
1,25
1,04
0,90

0,61

Tiếp tục theo dõi khảo nghiệm tại Cẩm Quỳ (Bảng 11) cho thấy
tổ hợp lai U29E2 tuy 9 tháng đầu có sinh trởng kém hơn tổ hợp lai
U29C3, song sau đó đã có sinh trởng nhanh hơn U29C3, còn E2C3
/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


23
đến hết năm thứ 3 vẫn có sinh trởng kém nhất trong ba tổ hợp
lai. Bạch đàn trắng caman, Bạch đàn liễu và Bạch đàn urô (U 29)
vẫn có sinh trởng kém nhất. Nhìn chung, khảo nghiệm cho thấy
các giống lai đợc tạo ra đầu tiên đã có sinh trởng gấp 6 lần giống
Bạch đàn trắng và gấp 3,5 lần giống Bạch đàn liễu đợc dùng
trong sản xuất.
Bảng 11. Sinh trởng của một số tổ hợp lai Bạch đàn tại Cẩm
Quỳ - Hà Tây
(1997 - 2000).

Tổ
hợp
U29E2
U29C3
E2C3
U29
ULem
E2
CSX
Fpr.
KSD(1)


D1.3 (cm)
1
2
3
tuổi tuổi tuổi
3,93 6,32 8,12

H (m)
1
2
3
tuổi tuổi tuổi
4,07 6,78 9,77

V (dm3/cây)
1
2
3
tuổi tuổi tuổi
2,72 11,4 27,6
6
4
3,86 6,46 8,21 3,85 6,47 9,53 2,35 11,1 25,9
1
3
3,07 5,26 6,84 3,68 6,13 9,27 1,48 7,16 18,2
5
2,43 4,02 5,11 2,66 4,15 5,19 0,77 3,16 7,26
2,36 4,29 5,62 2,77 4,69 6,85 0,75 3,89 10,3

3
2,12 3,76 5,04 2,46 3,81 5,97 0,56 2,75
7,9
1,40 3,14 4,25 2,48 3,42 5,10 0,30 1,53 4,10
<.00 <.00 <.00 <.00 <.00 <.00 <.00 <.00 <.00
1
1
1
1
1
1
1
1
1
0,66 0,46 1,18 0,48 0,52 1,29 0,67 3,33 8,03
7
5
7
7
9
(1) - KSD - Khoảng sai dị.

4.2. Khảo nghiệm các giống Bạch đàn lai năm 1998.
Năm 1998 một bộ giống gồm 14 tổ hợp lai khác loài UC, UE, EU,
EC và UU đã đợc khảo nghiệm so sánh với các xuất xứ tốt nhất
của các loài bố mẹ nh UEgon, ULem, CKen, cũng nh giống lấy từ các
cây trội đợc chọn làm bố mẹ nh U25, U27, U28, U29, E1, E2, E4 và Ct
(tức cây trội caman). Khảo nghiệm đợc tiến hành tại Thuỵ Phơng
(Hà Nội) và Cẩm Quỳ (Hà Tây).
4.2.1. Khảo nghiệm giống Bạch đàn lai tại Thuỵ Phơng (1998 2001).


/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


24
Khảo nghiệm tại Thuỵ Phơng trên đất đồng bằng sâu ẩm giàu
dinh dỡng (Bảng 12), đã thấy các tổ hợp lai khác loài UC, UE và EU
đã có sinh trởng vợt trội hết sức rõ rệt so với các loài bố mẹ và
những cây trội khác đợc trồng làm đối chứng, đặc biệt là so với
Bạch đàn trắng và Bạch đàn liễu. Sau năm đầu tuy một số cây
trội của Bạch đàn urô nh U27, U26 có sinh trởng khá (đứng thứ 6
và thứ 12 trong 27 công thức so sánh), song sau năm thứ 2 đã tụt
xuống rõ rệt (đứng thứ 12 và 15).
Bảng 12. Sinh trởng của một số tổ hợp lai Bạch đàn tại Thuỵ
Phơng - Hà Nội (4/1998 - 4/2001).
Tổ
hợp

Sau 1 năm
D
H
(cm)
(m)

Tổ
hợp

Sau 2 năm
D
H (m)

(cm)

U29C4

7,5

7,6

U29C3

12,4

12,1

V
Tổ
(dm3/
hợp
cây)
73,41 U29C3

E1U29

6,9

7,4

U29C4

12,5


11,7

U29U2

7,0

6,2

U29E1

11,8

12,0

Sau 3 năm
D
H (m)
(cm)
16,3

14,7

72,67 U29C4

15,4

14,4

65,72 U29U2


15,5

14,6

4

7

V
(dm3/
cây)
155,1
3
139,7
4
134,8
1

U29E1

6,8

7,3

U29E4

10,8

13,1


61,87 U29E1

14,5

14,1

U29C3

6,7

7,3

E1U29

10,9

11,9

56,52 U29E4

13,4

14,3

U27

6,2

6,9


U29E7

10,7

11,8

53,31 U29E7

13,4

14,6

U29E2

6,1

7,0

E2U29

10,4

12,2

51,36 E1U29

13,5

14,3


U29E4
U29E7
U29U2

6,0
6,1
6,4

7,2
6,9
6,1

U29E6
U29U27
U29E2

10,7
11,0
9,9

11,2
10,4
11,1

51,30 E2U29
50,16 U29E6
45,69 U29U2

12,6

12,9
12,5

14,4
13,7
13,2

119,5
1
104,1
3
103,5
5
102,9
3
91,19
90,48
82,23

11,5
11,7
11,5
11,1

13,5
13,1
11,8
13,8

75,00

74,49
72,70
68,23

11,3
11,3
10,5
10,9
10,3
9,6

12,5
12,4
11,5
11,5
11,7
12,3

65,07
64,55
56,02
55,55
52,40
49,34

7

U29E6
U26
UEgon

U29U2

6

6,0
6,0
5,8
6,3

6,9
6,2
6,2
5,7

U29U26
U27
U29U24
E4U29

10,0
10,0
9,9
9,6

11,3
10,8
10,9
11,3

45,10

44,38
44,06
42,93

6

E4U29
ULem
E2U29
U29
E1C3
Ct

E4U29
U27
U29E2
U29U2
4

5,8
5,9
5,0
5,6
5,0
4,3

6,7
5,7
6,5
5,6

6,3
5,4

U26
ULem
UEgon
E4
U29
E4C4

9,3
9,2
9,1
6,8
8,7
8,0

9,5
10,1
9,9
7,6
9,2
10,2

37,11
36,74
33,91
31,99
28,23
27,38


E1C3
UEgon
E2C3
U26
ULem
E4C4

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


25
E2C3
E4C4
E1C4
CKen
E1
E2
E4
Fpr.
KSD.

4,6
4,4
4,3
4,1
3,3
3,1
1,9
<.00

1
1,02

6,0
5,9
6,0
5,1
5,3
4,9
3,6
<.00
1
1,18

E1C3
E1C4
E2C3
Ct
CKen
E2
E1
Fpr.
KSD.

7,8
7,2
6,8
6,3
6,1
5,0

5,0
<.00
1
2,25

9,0
9,2
8,1
6,8
7,7
7,2
7,2
<.00
1
2,52

26,30
20,97
20,07
13,75
13,14
8,47
7,55
<.00
1
21,73

E1C4
U29
CKen

Ct
E2
E4
E1
Fpr.
KSD.

9,8
9,8
9,2
9,3
7,9
6,6
5,8
<.00
1
2,38

11,8
11,4
10,2
9,0
10,3
9,5
8,3
<.00
1
1,81

48,13

46,01
35,08
30,21
25,55
21,65
8,47
<.00
1
36,42

Nh vậy trong điều kiện đất giàu dinh dỡng các tổ hợp lai có sinh
trởng tốt nhất sau 2 năm ở Thuỵ Phơng là U29C3 và U29C4 có thể
tích thân cây tơng ứng là 73,41dm3/cây và 72,67dm3/cây,
tách biệt với nhóm còn lại là UE và EU (có thể tích thân cây
42,93 - 65,72dm3/cây), tiếp đó là các tổ hợp lai trong loài UU
(44,06 - 50,16dm3/cây), cùng một số hậu thế của cây trội Bạch
đàn urô (28,23 - 44,38dm 3/cây), rồi đến các tổ hợp lai EC
(20,07 - 27,38dm3/cây). Nhóm có thể tích thân cây thấp nhất
là các xuất xứ tốt và hậu thế của Bạch đàn trắng caman và Bạch
đàn liễu (7,55dm3/ cây - 13,75dm3/cây). Nhìn tổng quát có
thể xếp thể tích thân cây theo thứ tự từ lớn đến nhỏ của các
tổ hợp lai và các loài bố mẹ là:
UC

UE, EU, UU

U

EC


C, E.

Số liệu thu đợc sau 3 năm khảo nghiệm về cơ bản vẫn thể hiện
trật tự nh số liệu thu đợc sau 2 năm. Tuy vậy thể tích thân cây
của nhiều tổ hợp lai và bố mẹ đã tăng lên gấp đôi. Ngoài ra, có
một số thay đổi đáng chú ý nh tổ hợp lai U29U27 sau 2 năm
đầu ở vị trí thứ 10 thì sau năm thú 3 đã ở vị trí thứ 3. Trong
lúc U29U24 từ vị trí thứ 3 sau năm đầu đã tụt xuống vị trí thứ
13 - 14 sau năm thứ 2 và thứ 3. Điều đó chứng tỏ ngay các tổ hợp
lai khác nhau trong cùng một loài cũng có nhịp điệu sinh trởng
khác nhau thay đổi trong các năm. Nhận định nào đó về sinh
trởng của các tổ hợp lai và bố mẹ cũng chỉ thích hợp với từng
thời điểm cụ thể.
Tuy khuynh hớng chung là cây lai ngày càng có sinh trởng vợt trội
so với bố mẹ của chúng, song thứ tự cụ thể của các tổ hợp lai và
các loài bố mẹ có những thay đổi nhất định theo sự diễn biến
của tuổi năm.

/storage1/vhost/convert.123doc.vn/data_temp/document/lml1587540356-103459115875403564723/lml1587540356.doc


×