BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH THEO LUẬT CẠNH TRANH
NĂM 2018
BÙI THỊ MAI LINH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ : 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THU THỦY
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng
dẫn khoa học của TS.Nguyễn Thị Thu Thủy. Các nội dung nghiên cứu trong đề tài
này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Trong luận
văn có sử dụng một số nhận xét, đánh giá, số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức
khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu có phát hiện bất kỳ gian lận nào
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2019
Tác giả luận văn
Bùi Thị Mai Linh
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành đề tài nghiên cứu này, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành và
sâu sắc nhất đến TS.Nguyễn Thị Thu Thủy, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em
trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Sau nữa, em xin được gửi lời cảm ơn tới các
thầy, cô giáo trong Khoa Luật, Khoa sau đại học cùng toàn thể các thầy, cô giáo
trường Đại học Mở Hà Nội đã luôn tạo điều kiện để em có thể tiến hành việc nghiên
cứu và hoàn thành đúng hạn Luận văn thạc sĩ của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2019
Tác giả luận văn
Bùi Thị Mai Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH. ....................................................... 9
1.1.Khái niệm chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................... 9
1.1.1.Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................ 9
1.1.2.Khái niệm chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........... 11
1.2.Đặc điểm của chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............ 13
1.3.Vai trò của chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................ 15
1.4.Nội dung pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh18
1.4.1.Nguyên tắc áp dụng chế tài .................................................................... 18
1.4.2. Thẩm quyền áp dụng ............................................................................. 18
1.4.3. Đối tượng áp dụng ................................................................................ 24
1.4.4. Các hình thức chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh .... 24
1.4.5. Căn cứ áp dụng chế tài ............................................................................. 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 37
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH
VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH THEO LUẬT CẠNH TRANH
NĂM 2018....................................................................................................... 38
2.1. Nguyên tắc trong áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh…………………………………………………………………………38
2.2.Thẩm quyền áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh43
2.3. Đối tượng bị áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh45
2.4. Các loại chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................. 52
2.4.1. Chế tài hành chính ................................................................................ 52
2.4.2. Chế tài hình sự ...................................................................................... 64
2.4.3. Chế tài dân sự ....................................................................................... 65
2.5.Đánh giá các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy
định của Luật Cạnh tranh năm 2018 ................................................................... 71
2.5.1.Những ưu điểm ....................................................................................... 71
2.5.2.Những hạn chế ....................................................................................... 72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 73
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2018 VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH. ..................................................... 74
3.1. Các yếu tố đảm bảo tính hiệu quả trong việc áp dụng thực tiễn các quy
định về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh............................. 74
3.2. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng Luật Cạnh tranh năm 2018
về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ..................................... 76
3.2.1. Hoàn thiện và đảm bảo chất lượng của các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật và các quy định của pháp luật chuyên ngành khác có liên quan .. 76
3.2.2. Nghiên cứu áp dụng án lệ trong xử lý vi phạm ..................................... 78
3.2.3. Nâng cao năng lực của cơ quan Nhà nước trong việc quản lý hoạt động
cạnh tranh và thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh........... 79
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao văn hóa
pháp lý cho các chủ thể tham gia cạnh tranh và người tiêu dùng .................. 82
3.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế.................................................................. 83
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 85
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ nguyên nghĩa
CTKLM
Cạnh tranh không lành mạnh
LCT 2004
Luật Cạnh tranh năm 2004
LCT 2018
Luật Cạnh tranh năm 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thì cạnh tranh luôn là một điều
kiện và là yếu tố kích thích sản xuất kinh doanh, là môi trường và động lực thúc đẩy sản
xuất phát triển, tăng năng suất lao động và tạo đà cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên,
nếu để tồn tại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM), các thủ đoạn nhằm kìm
hãm quá trình cạnh tranh sẽ đưa lại những hệ quả không mong muốn về mặt kinh tế và xã
hội, thị trường bị bóp méo. Do đó, yêu cầu kiểm soát và điều chỉnh đối với quá trình cạnh
tranh là một nhiệm vụ cần thiết đặt ra cho các thiết chế quản lý nền kinh tế thị trường.
Những thủ đoạn cạnh tranh tiêu cực trên thị trường rất đa dạng, trong đó phổ biến có hành
vi CTKLM. Hậu quả do các hành vi CTKLM gây ra không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích
kinh tế của các chủ thể kinh doanh, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của người
tiêu dùng và trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Do đó, pháp luật các nước trên thế giới
đều chú trọng xây dựng pháp luật để điều chỉnh các hành vi CTKLM với những chế tài rất
nghiêm khắc.
Hiểu được vai trò của việc xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong
phát triển kinh tế xã hội nói chung, năm 2004, Việt Nam đã ban hành Luật Cạnh tranh số
27/2004/QH11, trong đó có các quy định nhằm điều chỉnh các hành vi CTKLM và đặt ra
chế tài xử lý vi phạm để răn đe và phòng ngừa chung. Với việc pháp điển hoá các quy
định về hành vi CTKLM, Luật Cạnh tranh năm 2004 (LCT 2004) là công cụ pháp lý được
sử dụng để loại bỏ các biểu hiện hành vi CTKLM trên thị trường, điều chỉnh mặt trái của
cạnh tranh, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ sự lành mạnh và khả năng phát triển
của nền kinh tế trong nước, bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, công bằng không mang tính phân biệt đối xử. Từ đó, khuyến khích các chủ thể
kinh doanh cạnh tranh một cách lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như
năng lực hoạt động của doanh nghiệp, thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập của kinh
1
tế trong nước với nước ngoài nhanh chóng, sâu rộng và hiệu quả hơn.
Tính đến hết năm 2016, Cục Quản lý cạnh tranh đã tiếp nhận hơn 330 hồ sơ khiếu
nại, trong đó có 182 vụ đã được điều tra, xử lý, thu về ngân sách nhà nước tổng số tiền
phạt và chi phí xử lý đáng kể. Nếu năm 2007, tổng số tiền phạt mới chỉ là 85 triệu đồng,
thì năm 2008, tổng số tiền phạt đã tăng lên gần gấp 10 lần (khoảng 805 triệu đồng), và
đến năm 2016 là 2,114 tỷ đồng [1,tr.9-10]. Có thể nói, từ những số liệu về xử lý vi phạm
của Cục Quản lý cạnh tranh qua các năm từ khi có LCT 2004 thì bước đầu đã có những
động thái nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều chỉnh các hành
vi CTKLM xảy ra trên thị trường kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, so với thực tiễn xảy ra
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, việc điều tra và xử lý các vụ việc
cạnh tranh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành vẫn chiếm số lượng rất ít, chưa
phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường và hiệu quả phòng ngừa, răn đe của việc
xử lý vi phạm được nhận định là còn thấp. Một trong số các nguyên nhân chủ yếu là do
hạn chế trong quy định của LCT 2004 về chế tài đối với các hành vi CTKLM gây khó
khăn, vướng mắc trong thực thi. Các chế tài được quy định theo đánh giá của nhiều
nghiên cứu vẫn chưa đủ mạnh để kiểm soát và loại bỏ các hành vi CTKLM của các chủ
thể kinh doanh. Bên cạnh đó, LCT 2004 cũng được đánh giá là một đạo luật thiếu chế tài
đối với từng hành vi vi phạm cụ thể. Chế tài xử lý các hành vi CTKLM vẫn nằm rải rác ở
các văn bản pháp luật khác nhau, kể cả các văn bản dưới luật. Thực tế đó đã dẫn đến tình
trạng CTKLM vẫn biểu hiện ở khía cạnh này, khía cạnh khác, dưới dạng này, dạng khác,
đã gây ra nhiều tranh chấp trong giới kinh doanh và ảnh hưởng đến trật tự quản lý kinh tế
của Nhà nước.
Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập của LCT 2004, đồng thời để đáp ứng
các yêu cầu trong xu thế hội nhập kinh tế, đảm bảo sự thích ứng với môi trường kinh
doanh cũng như đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với các chính sách, hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện hành và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, ngày
12/6/2018, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 5
2
đã thông qua Luật Cạnh tranh (sửa đổi, bổ sung) năm 2018, có hiệu lực thi hành từ
01/07/2019.
So với LCT 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 (LCT 2018) đã có nhiều sửa đổi, bổ
sung để hoàn thiện các quy định về kiểm soát hành vi CTKLM như sửa đổi, bổ sung quy
định về các hành vi CTKLM bị cấm (Điều 45), phân tách rõ quy định riêng về xử lý vụ
việc CTKLM (Điều 91), xác định rõ, bổ sung nguyên tắc xử lý vi phạm (Điều 110), xác
định mức phạt tiền tối đa áp dụng đối với hành vi vi phạm quy định về CTKLM (khoản 3
Điều 111), phân định thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm quy định về CTKLM cho Chủ
tịch Ủy ban cạnh tranh Quốc gia (khoản 5 Điều 113)… Những quy định sửa đổi, bổ sung
nảy được kỳ vọng sẽ tạo ra bước đột phá trong việc kiểm soát hành vi CTKLM, nâng cao
hiệu lực thực thi, xử lý các vi phạm, góp phần làm trong sạch, lành mạnh môi trường kinh
doanh tại Việt Nam.
Tuy nhiên vẫn còn những ý kiến cho rằng việc sửa đổi, bổ sung chế định chống
CTKLM vẫn chưa thực sự toàn diện, đặc biệt các quy định về chế tài đối với các hành vi
CTKLM theo LCT 2018 vẫn chưa khắc phục được một số bất cập, tồn tại từ LCT 2004
như thiếu chế tài đối với từng hành vi vi phạm cụ thể do đó để xử lý được một hành vi
CTKLM sẽ phải viện dẫn các văn bản pháp luật khác nhau, kể cả các văn bản dưới luật.
Bên cạnh đó quy định về chế tài đối với hành vi CTKLM theo LCT 2018 cũng chưa đủ
mạnh để kiểm soát và loại bỏ các hành vi CTKLM của các chủ thể kinh doanh.
Vì thế, việc nghiên cứu và luận giải các hành vi CTKLM cùng với các quy định về
chế tài xử lý vi phạm theo quy định của LCT 2018, qua đó đánh giá được tác động pháp
luật của các quy định là rất cần thiết. Đó là lý do mà tác giả lựa chọn "Các chế tài đối với
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh 2018" làm đề tài luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu
3
2.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế tài đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
Về CTKLM và chống CTKLM, đây là vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và nhiều
bài viết về CTKLM và chống CTKLM như Đề tài “Pháp luật về chống cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam”- Luận văn tiến sỹ của tác giả Lê Anh Tuấn (Năm 2008), Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam” - Luận văn thạc sỹ của tác giả Vũ Thị Thúy Hằng (Năm 2005), Đại học Quốc
gia Hà Nội; đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động cạnh tranh không lành mạnh
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thành Hải (Năm
2012), Đại học Quốc gia Hà Nội... Các bài đăng trên tạp chí như: Bài viết “Đưa pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh vào cuộc sống” của PGS.TS Nguyễn Như Phát
trên tạp chí Luật học số 6/2006; Bài viết “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trên thế giới và Việt Nam và định hướng sửa đổi Luật Cạnh tranh” của Hoàng Thị Yến
đăng trên tập san Thông tin Khoa học pháp lý số chuyên đề 03/2017… Các công trình
nghiên cứu trên đều chung quan điểm rằng lợi ích của các chủ thể kinh doanh đang bị
xâm phạm, đe dọa bởi các thủ đoạn CTKLM ngày càng tinh vi, xảo quyệt, trật tự kinh
doanh công bằng có nguy cơ bị phá vỡ, do vậy, Nhà nước cần duy trì một trật tự cạnh
tranh lành mạnh, môi trường kinh doanh công bằng thông qua việc ban hành những chính
sách, quy định đảm bảo trật tự kinh doanh trong nền kinh tế thị trường để bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, người tiêu dùng, nhà kinh doanh, trong đó có việc xây dựng và áp dụng
các biện pháp chế tài đối với hành vi CTKLM.
Trong các nghiên cứu lý luận về CTKLM và pháp luật về chống CTKLM trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các vấn đề lý luận cơ bản về CTKLM và chống
CTKLM đã được nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống. Nội dung các công trình
này đã xây dựng, tạo lập được hệ thống các lý luận về CTKLM và chống CTKLM trong
nền kinh tế thị trường. Kết quả của các công trình đó được sử dụng làm cơ sở cho công
4
trình nghiên cứu này.
Về khái niệm và đặc điểm, vai trò của chế tài đối với hành vi CTKLM
Chế tài là một bộ phận cấu thành quy phạm pháp luật. Chính vì vậy đây là một nội
dung quan trọng trong lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Các giáo trình giảng dạy
lí luận chung về nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạo ở Việt Nam như Đại học
Luật Hà Nội; Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Khoa Luật thuộc Đại học quốc gia
Hà Nội…đều trình bày, luận giải về vấn đề này.
Từ những trình bày, luận giải về khái niệm, đặc điểm của chế tài trong lý luận
chung, kết hợp với những lý luận cơ bản về CTKLM và chống CTKLM, một số công
trình nghiên cứu chuyên sâu về chế tài đối với hành vi CTKLM như đề tài “Chế tài đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam”- Luận văn thạc sỹ của
tác giả Quách Thị Hương Giang (Năm 2011), Khoa Luật Đại học Quốc gia; đề tài “Chế
tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam”Luận văn thạc sỹ của tác giả Đồng Quang Hải (Năm 2017), Học viện Khoa học Xã hội;
đề tài “Chế tài xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh
tranh Việt Nam”- Luận văn thạc sỹ của tác giả Lương Thị Diệu Linh (Năm 2014), Đại
học Luật Hà Nội… đã đưa ra những luận giải về khái niệm, đặc điểm của chế tài đối với
hành vi CTKLM từ đó đánh giá vai trò của chế tài này trong việc chống CTKLM.
Về phân loại chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Công trình nghiên cứu “Protection against unfair competition: Analysis of the
present word situation” của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) đã nghiên cứu và
khái quát về hệ thống các chế tài đối với hành vi CTKLM của các quốc gia trên thế giới.
Theo đó, có ba loại chế tài thường được các quốc gia áp dụng đối với hành vi CTKLM
bao gồm chế tài dân sự (civil sanctions), chế tài hình sự (criminal sanctions) và chế tài
hành chính (administrative sanctions) [48, tr.69-80].
Các công trình chuyên sâu về chế tài đối với hành vi CTKLM ở Việt Nam như
5
Luận văn của Quách Thị Hương Giang, Lương Thị Diệu Linh, Đồng Quang Hải…cũng
đồng tình với quan điểm chế tài đối với hành vi CTKLM gồm ba loại chủ yếu là chế tài
dân sự, chế tài hình sự và chế tài hành chính.
Kết quả của những công trình nghiên cứu trên sẽ được tác giả kế thừa trong quá
trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế tài đối với hành vi CTKLM.
2.2. Tình hình nghiên cứu về nội dung chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh theo Luật Cạnh tranh Việt Nam
Như đã đề cập ở trên, trước đây đã có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về
chế tài đối với hành vi CTKLM như Luận văn của Quách Thị Hương Giang, Lương Thị
Diệu Linh, Đồng Quang Hải… Các công trình này đã đóng góp những nghiên cứu
chuyên sâu về các quy định của pháp luật Việt Nam về chế tài đối với hành vi CTKLM
và thực trạng áp dụng các quy định, cũng như đề ra hướng hoàn thiện pháp luật và một số
giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.
Đối với chế tài dân sự áp dụng với hành vi CTKLM theo pháp luật Việt Nam, đã
có một số công trình nghiên cứu chuyên sâu riêng về vấn đề này như: Đề tài “Chức năng
của Luật tư trong việc bảo vệ trật tự cạnh tranh từ góc độ nghiên cứu so sánh pháp luật
cạnh tranh không lành mạnh của một số quốc gia – giải pháp hoàn thiện cho Việt Nam”
– Khóa luận tốt nghiệp của Dương Thị Phượng (năm 2009), khoa Quản Trị Kinh doanh,
trường Đại học Ngoại thương; Bài viết “Bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh
không lành mạnh gây ra” của Đỗ Văn Đại, Nguyễn Thị Hoài Trâm đăng trên tạp chí
Khoa học pháp lý, số 2/2012 (tr.62-71); Bài viết “Bồi thường thiệt hại có yếu tố nước
ngoài do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trên
tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 03/2005 (tr.35-39)…Các nghiên cứu này đã đi sâu vào
luận giải các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm dân sự cho hành vi
CTKLM, đặc biệt là về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi CTKLM
gây ra.
6
Tuy nhiên các công trình và các bài viết nêu trên đều nghiên cứu, tiếp cận theo các
quy định của LCT 2004 và nhiều văn bản pháp luật khác đã được sửa đổi, bổ sung, hết
hiệu lực thi hành. Việc tiếp cận chế định chống CTKLM dưới góc độ LCT 2018 vẫn còn
khá mới, chưa có nhiều nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu về chế tài đối với hành vi
CTKLM theo LCT 2018 và cụ thể là các tác động của các chế tài này. Đề tài "Các chế tài
đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh 2018" có thể
xem là công trình chuyên khảo đầu tiên, với cấp độ là Luận văn thạc sỹ Luật học.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu về chế tài đối với hành vi CTKLM theo LCT 2018,
trong đó đi sâu vào phân tích, làm rõ những quy định mới được sửa đổi, bổ sung của LCT
2018 so với LCT 2004. Từ những vấn đề đó đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả áp
dụng LCT 2018 về chế tài đối với hành vi CTKLM.
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ những khía cạnh lý luận trong quy định của pháp luật về chế tài đối với
hành vi CTKLM.
- Phân tích và đánh giá những quy định của LCT 2018 về chế tài đối với hành vi
CTKLM.
- Đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng LCT 2018 về chế tài đối với hành
vi CTKLM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật về hành vi CTKLM và chế tài đối với
hành vi CTKLM, trong đó tập trung nghiên cứu về chế tài hành chính theo quy định của
LCT 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
7
Luận văn được viết trên cơ sở Chủ nghĩa Mác Lê-Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để
thể chế chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Luận văn sử dụng kết
hợp các phương pháp như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp…
Phương pháp phân tích kết hợp với phương pháp so sánh luật học tại Chương II để
làm rõ nội dung của pháp luật về hành vi CTKLM và chế tài xử lý hành vi CTKLM theo
LCT 2018 so với LCT 2004, từ đó đánh giá ưu điểm cũng như những hạn chế trong pháp
luật hiện hành nhằm đề xuất kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng
pháp luật mang tính thực tiễn và khả thi Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn
được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng.
6. Kết cấu của Luận văn
Bao gồm phần mở đầu và 3 chương với các phần chính sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh
Chương 2: Nội dung của chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo
Luật Cạnh tranh năm 2018
Chương 3: Những giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng Luật Cạnh tranh năm
2018 về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
8
Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1. Khái niệm chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Vai trò của cạnh tranh là cân bằng cung cầu trên thị trường, tạo động lực đổi mới
và phát triển cũng như bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, để đem lại
những lợi ích như vậy, hành động cạnh tranh cần được duy trì trong một khuôn khổ lành
mạnh và tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Có thể hiểu đơn giản CTKLM là một thứ cạnh tranh quá mức và vì thế gây tác
dụng ngược. Nhà nghiên cứu người Pháp Dominique Brault đã trích dẫn một so sánh
mang tính hình tượng: “Cạnh tranh là một thứ rượu, dùng đúng liều nó là chất kích thích,
dùng quá liều nó trở thành thuốc độc” [21]. Nhà nước không chỉ có trách nhiệm không
tạo ra lợi thế hay bất lợi cho một đối thủ cạnh tranh, mà còn cần ngăn chặn việc các đối
thủ cạnh tranh tạo ra lợi thế cho mình bằng bất kỳ thủ đoạn nào họ muốn. Nếu không, trật
tự kinh tế sẽ bị rối loạn và nhiều doanh nghiệp trung thực bị gạt ra khỏi thị trường. Một
cách khái quát, pháp luật chống CTKLM ngăn chặn các hành vi của doanh nghiệp nhằm
tạo lợi thế cạnh tranh một cách không chính đáng trước các đối thủ cạnh tranh khác.
Những vụ việc về CTKLM đều thể hiện một bản chất chung, theo đó doanh nghiệp toan
tính đạt được thành công trên thị trường không dựa trên nỗ lực của bản thân như cải thiện
chất lượng, giá cả của sản phẩm, mà bằng cách chiếm đoạt những ưu thế của sản phẩm
người khác hoặc tác động sai trái lên khách hàng.
9
Tuy nhiên, xét cả về lý luận lẫn thực tiễn, khi cơ chế thị trường khuyến khích các
doanh nghiệp cạnh tranh tự do và sáng tạo, việc đánh giá tính chính đáng trong hành vi
cạnh tranh của doanh nghiệp và đặt ra các giới hạn cho cạnh tranh lành mạnh đã không
được giải quyết được triệt để. Trong nhiều trường hợp pháp luật chỉ đề ra các tiêu chí
chung và trao quyền cho cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh tự đánh giá và quyết định ở
những vụ việc cụ thể.
Sự không rõ ràng trong khái niệm về CTKLM được thể hiện ngay tại một trong
những định nghĩa pháp lý phổ biến nhất và lâu đời nhất của nó, nằm tại Điều 10 bis Công
ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Điều khoản này được bổ sung vào Công
ước năm 1900 và được sửa đổi lần cuối theo Văn bản Stockholm năm 1967, theo đó bất
kỳ hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thông lệ trung thực, thiện chí trong công
nghiệp hoặc trong thương mại đều là hành vi CTKLM [46]. Tại định nghĩa này, có thể
thấy tiêu chí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh/không lành mạnh của một hành
vi cạnh tranh là “các thông lệ trung thực và thiện chí” không rõ ràng và ổn định, ở mỗi
quốc gia có thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và
lịch sử của quốc gia đó.
Trên thực tế, Điều 10 bis đã có ý bỏ ngỏ khái niệm này cho pháp luật quốc gia của
các nước thành viên Công ước tự định đoạt. Tuy nhiên đến cấp độ pháp luật quốc gia, tình
hình cũng không có gì tiến triển hơn. Sự không rõ ràng trong việc xác định phạm vi
CTKLM tiếp tục được thể hiện trong pháp luật nhiều nước, tại Bỉ và Luxembourg các tiêu
chí này được gọi là “thông lệ thương mại trung thực”, tại Tây Ban Nha và Thuỵ Sỹ là
“nguyên tắc ngay tình”, tại Italia là “tính chuyên nghiệp đúng đắn”, tại Đức, Hy Lạp và
Ba Lan là “đạo đức kinh doanh”. Còn tại Hoa Kỳ, do thiếu định nghĩa trong các văn bản
pháp luật, các toà án đã xác định từ nguồn án lệ định nghĩa cạnh tranh lành mạnh là “các
nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo đức thị trường”. Pháp luật đã
không đưa ra được chuẩn mực để nhận diện các hành vi cạnh tranh lành mạnh, được chấp
nhận trong kinh doanh [34]. Tiêu chí “công bằng” hay “trung thực” phản ánh các quan
10
niệm đa chiều về kinh tế, xã hội, văn hoá, đạo đức, triết học… tồn tại trong một xã hội, do
đó sẽ khác nhau giữa các quốc gia hoặc thậm chí trong cùng một quốc gia. Theo thời gian,
các tiêu chí này cũng có thể thay đổi. Hơn nữa, luôn có những hoạt động CTKLM mới,
khi tính sáng tạo trong kinh doanh không có giới hạn. Mọi nỗ lực nhằm bao quát trong
một định nghĩa tất cả các hoạt động cạnh tranh hiện tại và tương lai, có thể đồng thời xác
định mọi hành vi bị ngăn cấm và linh hoạt đủ để thích nghi với những thông lệ thị trường
mới, cho đến nay vẫn thất bại.
Tại Việt Nam, LCT 2018 đưa ra định nghĩa về CTKLM tại khoản 6 Điều 3 như
sau: “Hành vi CTKLM là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung
thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc
có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác”. Nhìn chung,
định nghĩa về CTKLM của LCT 2018 tương tự với định nghĩa của Công ước Paris và
pháp luật các nước có nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới.
1.1.2. Khái niệm chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
LCT 2018 cũng như LCT 2004 trước kia và các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đều chưa đưa ra định nghĩa về chế tài đối với hành vi CTKLM mặc dù khái niệm về
chế tài đã được khoa học pháp lý xác định rõ ràng.
Chế tài theo quan niệm chung là: “Cách thức áp đặt đối với một người mà tại đó
một quyền được thi hành hoặc được làm thỏa mãn bởi tòa án khi ai đó bị thiệt hại hay tổn
thương mà xã hội thừa nhận đó là một hành vi sai trái” [22]. Hiểu một cách đơn giản,
pháp luật điều tiết các quan hệ xã hội bằng cách đặt ra các quyền và nghĩa vụ cho các chủ
thể khi tham gia các quan hệ xã hội nhất định mà trong đó quyền yêu cầu của một bên chỉ
có thể được thỏa mãn nếu bên kia thực hiện đúng và đẩy đủ nghĩa vụ của mình. Nếu một
bên không thực hiện nghĩa vụ hay thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của
mình thì mục đích quan hệ của bên còn lại không đạt được. Điều này sẽ gây thiệt hại cho
bên bị vi phạm. Vì vậy pháp luật can thiệp mạnh vào các quan hệ xã hội và đảm bảo công
bằng bằng cách thiết lập phương thức áp đặt hậu quả bất lợi cho người không thực hiện
11
nghĩa vụ và phần nào đó giúp khôi phục lại quan hệ xã hội bị phá vỡ bởi sự vi phạm hoặc
khôi phục lại tình trạng vốn có của người có quyền yêu cầu.
Nhìn nhận từ cấu trúc bên trong của hệ thống pháp luật, cụ thể là thành phần nhỏ
nhất của hệ thống pháp luật là quy phạm pháp luật, chế tài là một trong ba bộ phận cấu
thành của một quy phạm pháp luật. Chế tài là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm
pháp lý khi có hành vi vi phạm với những quy tắc xử xự chung được ghi nhận trong phần
quy định và giả định của quy phạm pháp luật. Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ
xã hội được pháp luật điều chỉnh, chế tài được phân chia thành nhiều loại: chế tài hành
chính, chế tài dân sự, chế tài hình sự...Việc áp dụng chế tài cũng phụ thuộc vào những đặc
điểm của lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Căn cứ vào tính chất của hành vi phạm pháp,
mức độ thiệt hại và những vấn đề khác khi có liên quan (có ý nghĩa đối với việc tăng nặng
hoặc giảm nhẹ khi áp dụng chế tài). Chế tài gồm có các hình thức: chế tài trừng trị (trong
lĩnh vực hình sự), chế tài khôi phục trạng thái pháp lý ban đầu (trong lĩnh vực hành chính,
dân sự), chế tài bảo vệ và chế tài bảo đảm (trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, dân sự) và
chế tài vô hiệu hóa.
Với nhận thức như trên, chế tài là bộ phận không thể thiếu trong một quy phạm
pháp luật, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và trật tự an toàn xã hội. Chế tài
thể hiện thái độ của Nhà nước đối với những hành vi vi phạm pháp luật và có tác dụng
phòng ngừa giáo dục để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, góp phần thực hiện mục đích
của Nhà nước trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh...trong từng giai đoạn cụ thể.
Chế tài với ý nghĩa như trên có các đặc điểm sau:
- Chế tài có nhiều mục đích khác nhau: Mục đích chính và cơ bản của chế tài là
trừng trị chủ thể vi phạm pháp luật. Đây là các chủ thể đã thực hiện những hành vi trái với
quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho Nhà nước, cộng đồng và các chủ thể khác cho
nên họ phải chịu các biện pháp trừng trị thích đáng. Ngoài ra, chế tài còn có những mục
đích khác như phòng ngừa vi phạm và giáo dục người vi phạm.
12
- Chế tài luôn gắn liền với giả định và quy định: Bởi chế tài cùng với giả định và
quy định là các bộ phận cấu thành nên một quy phạm pháp luật. Suy rộng ra, hệ thống các
quy định về chế tài cần phải tương thích với hệ thống quy định về điều kiện hoàn cảnh,
chủ thể liên quan, quyền, nghĩa vụ và hành vi của các chủ thể đó. Trong lập pháp, nhà làm
luật phải dựa trên giả định và quy định để xây dựng chế tài cho phù hợp. Chế tài phải
tương thích và phù hợp với giả định và quy định, không thể quy định chế tài quá nặng đối
với một vi phạm nhỏ, không gây hậu quả nghiêm trọng hoặc không thể quy định chế tài
quá nhẹ đối với những hành vi xâm phạm nghiêm trọng lợi ích công cộng hoặc quyền, lợi
ích của chủ thể nhất định.
- Chế tài được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước: Pháp luật do Nhà
nước đặt ra để làm công cụ quản lý xã hội. Chế tài là một bộ phận của pháp luật do đó nó
cũng được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của mình. Cùng với
quy định về các biện pháp chế tài, pháp luật cũng quy định chủ thể có thẩm quyền áp
dụng chế tài, trình tự thủ tục áp dụng các thủ tục đó và cơ chế cưỡng chế thi hành.
- Chế tài chỉ có thể được áp dụng bởi chủ thể có thẩm quyền: Chế tài là biện pháp
pháp lý, được quy định trong pháp luật, áp dụng đối với các chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật, do đó chế tài không thể được áp dụng một cách bừa bãi mà chỉ có thể
được áp dụng bởi các chủ thể nhân danh quyền lực Nhà nước. Đối với mỗi biện pháp chế
tài, pháp luật quy định chủ thể cụ thể có thầm quyền áp dụng chế tài. Ví dụ như quyền xét
xử tội phạm thuộc về Tòa án nhân dân hoặc quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc về
các cơ quan quản lý hành chính hay người đứng đầu các cơ quan quản lý hành chính.
Từ khái niệm và đặc điểm của chế tài nói chung, có thể hiểu: Chế tài đối với hành
vi CTKLM là những hình thức trách nhiệm pháp lý được Nhà nước áp dụng đối với các
chủ thể kinh doanh, buộc các chủ thể đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã có
hành vi CTKLM gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác.
1.2. Đặc điểm của chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Ngoài đặc điểm chung của chế tài như: chỉ áp dụng khi có vi phạm pháp luật xảy
13
ra; là hình thức cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm; chủ thể vi phạm phải
gánh chịu một hậu quả bất lợi nhất định, chế tài đối với hành vi CTKLM theo pháp luật
Việt Nam còn có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, chủ thể bị áp dụng chế tài là các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề hoạt
động ở Việt Nam và các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước có liên quan.
Đây là các đối tượng chủ thể của quan hệ cạnh tranh được quy định tại Điều 2 LCT 2018.
Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh nếu các chủ thể đó vi phạm các quy định
về cạnh tranh lành mạnh thì sẽ bị áp dụng các biện pháp chế tài xử lý.
Thứ hai, bên bị áp dụng chế tài phải gây ra thiệt hại cho bên kia khi thực hiện hành
vi CTKLM. Bản thân hành vi CTKLM mang đặc điểm là luôn gây ra thiệt hại hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại. Như vậy, thiệt hại là một dấu hiệu để nhận diện hành vi CTKLM.
Tuy nhiên, thiệt hại đó phải do hành vi CTKLM với các dạng hành vi được quy định tại
Điều 45 LCT 2018 gây ra, khi đó trách nhiệm pháp lý của chủ thể hành vi mới được đặt
ra. Một điểm đặc thù trong việc áp dụng chế tài đối với hành vi CTKLM là luôn áp dụng
chế tài kép. Cùng một hành vi gây ra thiệt hại, chủ thể vi phạm vừa phải chịu trách nhiệm
trước cơ quan nhà nước do hành vi vi phạm quy định pháp luật của mình, bên cạnh đó
cũng phải chịu trách nhiệm trước chủ thể chịu tác động do những hành vi CTKLM gây ra.
Chế tài bồi thường thiệt hại được thực hiện theo các quy định của Bộ luật Dân sự.
Thứ ba, chế tài đối với hành vi CTKLM hiện đang được quy định trong nhiều văn
bản quy phạm pháp luật thuộc các ngành luật khác nhau. Pháp luật cạnh tranh đã phá vỡ
biên giới giữa luật công và luật tư, nó là sự xâu chuỗi của hầu hết các ngành luật dân sự,
thương mại hành chính, hình sự… Đây là nét đặc trưng của pháp luật cạnh tranh, nó
không có chế tài riêng mà sử dụng chế tài của các ngành luật khác, bao gồm: Chế tài dân
sự (chủ yếu là bồi thường thiệt hại, buộc chấm dứt hành vi vi phạm), chế tài hành chính
(chủ yếu là phạt tiền) và chế tài hình sự (áp dụng đối với các hành vi vi phạm Luật Cạnh
tranh đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm). Tương tự như vậy, pháp luật cạnh tranh Việt Nam
cũng quy định về chế tài đối với hành vi CTKLM trong nhiều văn bản pháp luật khác
14
nhau như Luật Cạnh tranh, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân
sự, Luật Sở hữu trí tuệ…
1.3. Vai trò của chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Mục đích cơ bản của pháp luật cạnh tranh là nhằm tạo ra môi trường pháp lý bình
đẳng, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, công bằng. Song pháp luật cạnh tranh không tự
thân đi vào cuộc sống nếu không có sự hỗ trợ của các biện pháp và cơ chế đảm bảo thực
hiện. Trong hệ thống các cơ chế đảm bảo thực hiện đó, có vai trò của các chế tài xử lý vi
phạm. Vai trò của các chế tài đối với hành vi CTKLM biểu hiện ở những khía cạnh cơ
bản sau đây:
(i)Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, chống lại hành vi
CTKLM của các doanh nghiệp đối thủ.
Pháp luật cạnh tranh có mục đích đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh tự do trên thương trường. Những thủ pháp bất chính và những biến tướng của
cạnh tranh đều tác động tiêu cực đến thị trường, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của
các đối thủ kinh doanh khác. Lúc đó, cần thiết phải có sự tồn tại của các chế tài để lập lại
trật tự thị trường, giải phóng các doanh nghiệp ra khỏi sự kiềm toả và tác động không
lành mạnh của hành vi cạnh tranh.
Pháp luật của Hàn Quốc quy định: "Uỷ ban thương mại lành mạnh có thể áp đặt
một khoản tiền phạt đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia vào các hành vi kinh
doanh không bình đẳng vi phạm những quy định về kinh doanh không lành mạnh" [10.
Điều 24-2]. Luật Cạnh tranh thương mại của Thái Lan cho phép "người bị hại do những
hành vi vi phạm quy định về độc quyền có quyền đệ trình đơn kiện đòi bồi thường thiệt
hại từ người vi phạm" [11. Điều 40]. Luật Chống CTKLM của Cộng hoà Liên bang Đức
quy định: "Người nào trong giao dịch kinh doanh vì mục đích cạnh tranh mà thực hiện
các hành vi trái với thuần phong mỹ tục, thì có thể bị yêu cầu chấm dứt hành vi và bồi
thường thiệt hại" [12].
15
Luật Cạnh tranh của Việt Nam cũng có quy định đảm bảo cho các doanh nghiệp
quyền được khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh về hành vi vi phạm của đối thủ
xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, các quy phạm pháp luật cạnh tranh cùng với những chế tài của nó được
các quốc gia xây dựng đã tạo điều kiện và cơ chế đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh tự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trừng phạt các hành vi vi phạm quy định về
cạnh tranh, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp và trật tự thị trường.
Các chế tài còn có vai trò ngăn chặn các doanh nghiệp thu lợi bất chính bằng việc
thực hiện hành vi CTKLM, kiềm chế các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi trái pháp
luật, nâng cao nhận thức của họ về "đạo đức trong kinh doanh", đảm bảo chữ "tín", khích
lệ sự năng động, tự chủ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp.
(ii) Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (khách hàng).
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp luôn gắn liền với thị trường khách
hàng, buộc các doanh nghiệp phải luôn xác định: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản
xuất như thế nào. Khách hàng thường có xu hướng lựa chọn các sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ phù hợp với nhu cầu, sở thích và túi tiền của mình. Điều đó sẽ định hướng cho
các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ. Nói cách
khác, khách hàng là đối tượng được các doanh nghiệp hướng tới để phục vụ và khai thác.
Để tồn tại bền vững và phát triển, doanh nghiệp luôn tìm mọi cách lôi kéo khách
hàng về phía mình, tranh giành thị trường với các đối thủ khác. Tuy người tiêu dùng là
mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp và quan hệ thị trường, là định hướng cơ bản
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng nhu cầu đó lại bị khống
chế bởi khả năng đáp ứng và kiểm soát từ phía doanh nghiệp. Vì tất yếu, doanh nghiệp
bao giờ cũng hiểu rõ về sản phẩm và dịch vụ mà mình cung ứng hơn người tiêu dùng.
Nhiều trường hợp, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người tiêu dùng, các doanh nghiệp đã
cung cấp hàng hoá và dịch vụ kém chất lượng; gian dối, che lấp những khiếm khuyết của
16
sản phẩm và dịch vụ hoặc cố tình đưa ra những chỉ dẫn gây nhầm lẫn… Trong khi người
tiêu dùng lại không có đủ cơ sở để khiếu kiện vì giao dịch hoàn toàn thiết lập một cách
tự nguyện. Vì thế, nguyên tắc "trung thực", "thiện chí" trong giao kết hợp đồng dường
như rất khó kiểm soát. Lúc đó, đạo đức trong cạnh tranh cùng với những quy phạm mang
tính cấm đoán của nó sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sự trung thực của thị
trường và lợi ích của người tiêu dùng.
Như vậy, các chế tài được thiết lập đã góp phần can thiệp để bảo vệ người tiêu
dùng trước những hành vi không trung thực và không công bằng của các doanh nghiệp;
đặt ra những yêu cầu về việc đảm bảo những thông tin chính xác về sản phẩm và dịch
vụ, kiểm soát hoạt động quảng cáo, khuyến mại và trừng phạt các biểu hiện không lành
mạnh trong lĩnh vực này; nâng cao trách nhiệm của các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ
trên thị trường, đáp ứng được nhu cầu và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
(iii) Là công cụ góp phần tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng, công bằng.
Cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, công bằng là nội hàm của quyền tự do kinh
doanh của các doanh nghiệp. Pháp luật cạnh tranh nói chung và những thiết chế chế tài
của nó đã bảo vệ thị trường và quan hệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành vi
CTKLM.
Trong thị trường tự do, các doanh nghiệp không chịu sự chi phối nào từ phía Nhà
nước và các doanh nghiệp khác. Các quy luật kinh tế khách quan, trong đó có quy luật
cạnh tranh, sẽ tự thân tác động và quyết định các quan hệ kinh tế, quyết định đến hoạt
động của các doanh nghiệp. Vì thế, trên thị trường thực tế đã nảy sinh rất nhiều tiêu cực
phát sinh từ cạnh tranh. Bằng các thủ đoạn bất chính, những toan tính không phù hợp với
truyền thống kinh doanh lành mạnh, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện các hành vi xâm
hại đến trật tự kinh doanh, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh và
người tiêu dùng.
17
Thông qua việc loại trừ các hành vi phản đạo đức kinh doanh, giành giật lợi
nhuận một cách bất hợp pháp của các doanh nghiệp, chế tài đối với các hành vi CTKLM
đã góp phần vào việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trên thị
trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh và các quan hệ thị trường và đẩy nhanh tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
1.4. Nội dung pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.4.1. Nguyên tắc áp dụng chế tài
Mỗi quốc gia có một hệ thống quy định và nguyên tắc áp dụng riêng liên quan đến
chế tài đối với hành vi CTKLM. Tuy nhiên, trong thực tiễn kinh doanh quốc tế, xảy ra
nhiều trường hợp là các hành vi CTKLM ở một nước nhưng lại ảnh hưởng tiêu cực đến
thị trường của nước khác. Do đó, một vấn đề đặt ra là, liệu pháp luật quốc gia có áp dụng
cho các giao dịch quốc tế được không ?
Để giải quyết vấn đề này, hầu hết các nước trên thế giới đều công nhận một
nguyên tắc chung được áp dụng để điều chỉnh các hành vi CTKLM là nguyên tắc giải
quyết xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo đó, luật của quốc gia nơi xảy ra hành vi vi phạm sẽ được áp dụng. Đối với những
hành vi CTKLM được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau, theo nguyên tắc, nguyên
đơn thường được trao quyền lựa chọn pháp luật áp dụng phù hợp nhất với mình. Việc áp
dụng nguyên tắc này thể hiện tính khách quan, công bằng đối với mỗi bên đương sự bởi
vì không phải lúc nào bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại cũng có cùng quốc tịch hoặc
nơi cư trú. Hơn nữa, điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng để tòa án có thẩm
quyền điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh thiệt hại trên thực tế, lợi ích của bên bị thiệt
hại cũng vì thế mà được bảo đảm chặt chẽ hơn.
1.4.2. Thẩm quyền áp dụng
Bên cạnh thẩm quyền của tòa án trong giải quyết các vụ việc CTKLM theo chế tài
dân sự như đã phân tích tại tiểu mục 1.4.2, đa phần các quốc gia đều xây dựng cơ quan
cạnh tranh và trao quyền hạn pháp lý riêng biệt, tự quyết về các công việc phát hiện, điều
18
tra, xử lý trong quá trình thực thi pháp luật cạnh tranh cho cơ quan này. Tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế – xã hội của mình, mỗi quốc gia sẽ xây dựng một mô hình cơ quan cạnh
tranh với những nguyên tắc về tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ phù hợp. Một số
quốc gia thiết lập vị trí cơ quan cạnh tranh thuộc Quốc hội, có những quốc gia lại xác định
cơ quan cạnh tranh là một cơ quan ngang bộ hoặc trực thuộc Chính phủ hay thuộc Tổng
thống, một số quốc gia khác lại xác định cơ quan cạnh tranh là một đơn vị thuộc Bộ.
1.4.2.1. Mô hình cơ quan cạnh tranh tại Úc
*Ủy ban cạnh tranh và tiêu dùng của Úc (Australia Competition and Consumer
Commission, viết tắt là ACCC)
Ủy ban cạnh tranh và tiêu dùng của Úc là cơ quan độc lập về mặt pháp luật, điều
đó có nghĩa là trong khi ACCC là một tổ chức chính phủ, mọi hành động của nó vẫn độc
lập với chính phủ. ACCC được Quốc hội ban hành quyết định thành lập vào năm 1995 để
thực thi Đạo luật Thương mại năm 1974 nhằm bảo vệ quyền của người tiêu dùng và các
doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường. ACCC cũng thực hiện chức năng điều chỉnh
những thị trường nơi mà quy luật cạnh tranh tự nhiên không được vận hành một cách hiệu
quả, ví dụ như trong các thị trường năng lượng và viễn thông. Song song với việc thực thi
Đạo luật thương mại 1974, ACCC cũng cung cấp thông tin và giáo dục các doanh nghiệp
và người tiêu dùng có được sự hiểu biết về các đạo luật có liên quan.
* Ủy ban Chứng khoán và đầu tư của Úc (ASIC):
ASIC là một tổ chức của Úc chuyên về thị trường và điều tiết thị trường tài chính.
ASIC đóng góp cho phúc lợi kinh tế của Úc và đảm bảo uy tín trong thương mại bằng
việc đảm bảo thị trường tài chính của Úc được công khai và minh bạch, hỗ trợ các nhà
đầu tư tự tin hơn khi tham gia vào thị trường Úc và cuối cùng đảm bảo quyền lợi cho
người tiêu dùng. ASIC là cơ quan Chính phủ độc lập, được thành lập và thuộc sự điều
chỉnh của Đạo Luật về Ủy ban cạnh tranh và tiêu dùng của Úc (ACCC), chứng khoán và
đầu tư của Úc (Đạo luật ASIC) và thực hiện hầu hết các công việc theo đạo luật Công ty.
19