Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn quận hai bà trưng, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
---------------------------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƯNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
NGUYỄN DIỄM NGỌC

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS ĐÀO THỊ HẰNG

HÀ NỘI - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật Viện Đại học Mở Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan


Nguyễn Diễm Ngọc


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thiện được luận văn tốt nghiệp như ngày hôm nay, trước tiên
tôi xin gửi lời cảm ơn tới tập thể lãnh đạo Viện Đại học Mở Hà Nội cùng toàn thể các
thầy giáo, cô giáo trong nhà trường đã tổ chức, đào tạo khóa học này để tôi có cơ hội
có thêm những kiến thức về luật kinh tế rộng hơn, sâu hơn để từ đó tôi có thể tiếp thu
những kiến thức bổ ích phục vụ cho công việc và cuộc sống.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Đào Thị Hằng đã hướng dẫn, chỉ
bảo tận tình để tôi có thể hoàn thiện luận văn của mình tốt nhất.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới Bảo hiểm xã hội quận Hai Bà Trưng
và các cơ quan liên quan đã giúp cung cấp tài liệu tham khảo, số liệu thực tế để
tôi hoàn thành luận văn.
Sau cùng, tôi xin kính chúc các thầy giáo, cô giáo và Ban giám hiệu nhà trường
sức khỏe, hạnh phúc, thành công.
Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Nguyễn Diễm Ngọc


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BHXH BẮT BUỘC VÀ QUY

ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BHXH BẮT BUỘC ....................................6
1.1. Khái quát về BHXH bắt buộc .......................................................................6

1.1.1. Khái niệm BHXH ............................................................................ 6
1.1.2. Khái niệm BHXH bắt buộc ............................................................. 7
1.1.3. Vai trò của BHXH bắt buộc ............................................................ 9
1.1.4. Các nguyên tắc BHXH bắt buộc.................................................... 11
1.2. Nội dung quy định pháp luật hiện hành về BHXH bắt buộc ...................15

1.2.1. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ............................................. 15
1.2.2. Các chế độ BHXH bắt buộc .......................................................... 18
1.2.3.Hồ sơ, thủ tục giải quyết chế độ BHXH bắt buộc .......................... 35
1.2.4. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về BHXH bắt buộc......... 36
Kết luận Chương I ..................................................................................................41
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BHXH BẮT BUỘC
TẠI QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................42
2.1. Khái quát tình hình kinh tế, xã hội quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
và BHXH quận Hai Bà Trưng ...........................................................................42
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc tại Quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội ................................................................................................45

2.2.1. Về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ........................................ 45
2.2.2 Việc thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc tại BHXH quận Hai Bà
Trưng........................................................................................................ 49


2.3.3. Việc thực hiện quy định về hồ sơ, thủ tục giải quyết chế độ BHXH
bắt buộc .................................................................................................... 58
2.3.4.Thực tiễn thực hiện quy định về xử lý vi phạm và giải quyết tranh
chấp về BHXH bắt buộc .......................................................................... 59

2.3. Đánh giá việc thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc tại Quận Hai Bà
Trưng, thành phố Hà Nội ...................................................................................63

2.3.1 Những kết quả đã đạt được ............................................................. 63
2.3.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ................................................... 65
Kết luận chương 2 ...............................................................................................71
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BHXH BẮT BUỘC
TẠI QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................72
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc .....................72

3.1.1. Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
đổi mới chính sách BHXH trong đó có BHXH bắt buộc ........................ 72
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc phải bảo đảm sự phát triển
của quỹ BHXH ........................................................................................ 74
3.1.3. Viêc hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc phải đáp ứng yêu cầu
bảo vệ quyền lợi người thụ hưởng BHXH bắt buộc................................ 75
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc. ..........75
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHXH
bắt buộc tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội .......................................80
Kết luận Chương 3 ..............................................................................................84
KẾT LUẬN ..............................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................86


DANH MỤC VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ


BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

TNLĐ

Tại nạn lao động

BNN

Bệnh nghề nghiệp

DSPHSK
NLĐ

Dưỡng sức phục hồi sức khỏe
Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động


ILO

Tổ chức lao động quốc tế

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

ASXH

An sinh xã hội

VPHC

Vi phạm hành chính

LĐ-TBXH
TTKT
ATVSLĐ
HCSN

Lao động thương binh xã hội
Thanh tra kiểm tra
An toàn vệ sinh lao động
Hành chính sự nghiệp


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1:


Tình hình tham gia BHXH bắt buộc tại quận Hai Bà Trưng, giai đoạn
2014 – 2018 .........................................................................................45

Bảng 2.2:

Tình hình thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc tại quận Hai Bà Trưng,
giai đoạn 2014 – 2018 .........................................................................50


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, BHXH đóng vai trò là một công cụ hữu hiệu, một khâu không
thể thiếu, một bộ phận hợp thành hệ thống An sinh xã hội của mỗi quốc gia. Ở Việt
Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định chính sách BHXH là chính sách quan trọng,
có tính nhân văn sâu sắc, nhằm đảm bảo tốt hơn đời sống NLĐ, góp phần tích cực
vào việc ổn định, an toàn xã hội và sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Thật vậy, trong thực tế, khi bắt đầu một quan hệ lao động, ngay cả NLĐ và NSDLĐ
đều không thể đảm bảo rằng trong quá trình giao kết HĐLĐ NLĐ sẽ không xảy ra
bất kỳ rủi ro nào khiến cho thu nhập của họ bị suy giảm như ốm đau, tai nạn, già yếu
hay chết hoặc mất việc. Khi rơi vào hoàn cảnh này, các nhu cầu thiết yếu của con
người không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện
thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn
cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, NLĐ phải được sự bảo trợ
của cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều
hình thức khác nhau. Và một trong những hình thức đó chính là BHXH.
Luật BHXH đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng
6 năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 đánh dấu bước
phát triển mới của pháp luật BHXH ở nước ta trong việc điều chỉnh quan hệ BHXH
giữa NLĐ với NSDLĐ, mở rộng các loại hình BHXH. Theo đó, mở rộng hơn nữa

phạm vi tham gia và thụ hưởng BHXH của NLĐ và tăng cường vai trò của Nhà nước
trong quản lý về lĩnh vực BHXH. Sau gần 10 năm thực hiện, Luật BHXH đã bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập, mâu thuẫn và so với thực tế thì còn nhiều điểm chưa đáp ứng.
Để khắc phục những hạn chế, Quốc hội đã ban hành Luật BHXH năm 2014, có hiệu
lực từ ngày 01/01/2016. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách, chế độ
về BHXH cũng bộc lộ không ít các điểm bất hợp lý thể hiện trong bản thân nội dung
quy định của pháp luật và việc tổ chức thực thi các quy định này trong các chế độ ốm
đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hưu trí và tử tuất của BHXH bắt buộc. Thực trạng này
xảy ra tại nhiều địa phương trong đó quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội cũng
1


không phải là ngoại lệ. Tại đây trong quá trình thực hiện pháp luật về BHXH nói
chung và BHXH băt buộc nói riêng, bên cạnh những thành tựu đã đạt được không thể
phủ nhận cũng đã bộc lộ những vướng mắc nhất định trong quá trình giải quyết các
chế độ BHXH bắt buộc như: về đối tượng áp dụng; mức hưởng, điều kiện hưởng, thời
gian hưởng chế độ ốm đau, thai sản, DSPHSK; điều kiện về tuổi hưởng lương hưu;
mức hưởng chế độ tử tuất; điều kiện xác định TNLĐ...
Với mong muốn làm rõ hơn và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận cũng như
pháp luật về BHXH bắt buộc theo quy định của Luật BHXH năm 2014 cũng như thực
tiễn thực hiện tại BHXH Hai Bà Trưng, tác giả đã chọn đề tài: “Pháp luật về Bảo
hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội” làm luận
văn thạc sĩ luật học của mình với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc tại quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu.
Ở phạm vi và mức độ khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề
cập đến pháp luật BHXH bắt buộc nói chung và từng chế độ nói riêng, điển hình như:
*


Đề tài nghiên cứu:

- Nguyễn Thị Kim Phụng (2006), Hoàn thiện về pháp luật BHXH ở Việt Nam,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Vụ BHXH (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ BHXH bắt
buộc giai đoạn đến 2020, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ.
*

Luận án tiến sỹ:

- Nguyễn Huy Ban (1996), Hoàn thiện pháp luật BHXH ở Việt Nam – Lý luận
và thực tiễn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, Trường Đại học khoa học xã hội
và nhân văn, Hà Nội.
*

Luận văn thạc sỹ:

- Bùi Văn Giang (1997), Pháp luật BHXH trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

2


- Phạm Lan Hương (2012), Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực tiễn thi hành
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
*

Một số bài viết đăng trên tạp chí như:

- TS. Bùi Thị Lâm Hà (2012), “Chế độ TNLĐ ở Việt Nam - Những khó khăn,

vướng mắc”, Tạp chí BHXH, Kỳ 01, Tháng 6/2012.
- Hồ Thị Kim Ngân (2014), “Một số vướng mắc khi thực hiện các chế độ
BHXH ngắn hạn”, Tạp chí BHXH, Kỳ 02, Tháng 4/2014.
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS.Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số bình
luận pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014”, Tạp chí Luật học
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS. Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Sửa đổi Điều
60 Luật BHXH năm 2014 dưới góc nhìn quan hệ lao động tập thể”, Tạp chí dân chủ
và pháp luật.
- Lường Thanh Huyền (2016), Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực tiễn thực
hiện tại tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã góp phần làm
rõ cơ sở lý luận và chỉ ra được những vấn đề thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật
BHXH nói chung và BHXH bắt buộc nói riêng. Tuy vậy, các công trình này do mục
đích hoặc các góc độ tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu còn tản mạn, hoặc nếu viết
về pháp luật BHXH chỉ đề cập thực tiễn áp dụng pháp luật BHXH bắt buộc tại một
số địa phương nhất định. Do vậy, Luận văn tập trung nghiên cứu và làm sáng rõ thêm
những vấn đề lý luận về BHXH bắt buộc và tình hình thực hiện BHXH bắt buộc trên
địa bàn quận Hai Bà Trưng để từ đó đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của Luật BHXH bắt buộc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về
BHXH bắt buộc, các quy định pháp luật liên quan và thực tiễn thi hành trên địa bàn
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp
phần hoàn thiện pháp luật BHXH bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện BHXH bắt
buộc trên địa bàn thành phố Hà Nội.

3


Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên

những nội dung chủ yếu sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về BHXH bắt buộc.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc.
- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa bàn quận
Hai Bà Trưng.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định của pháp luật về BHXH
bắt buộc và thực tiễn thi hành trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả chủ yếu chỉ nghiên cứu dưới góc độ pháp lý
và cụ thể ở một số khía cạnh như đối tượng tham gia, các chế độ BHXH bắt buộc và
xử lý các VPPL về BHXH bắt buộc… Những nội dung như quản lý BHXH bắt buộc,
quỹ BHXH sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác-Lê Nin,
quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp nghiên
cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực của đề tài như: phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, logic, thống kê…cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Luận văn đã làm sâu sắc và hoàn thiện hơn những vấn đề lý luận về BHXH
bắt buộc.
- Đánh giá một cách toàn diện thực trạng pháp luật về BHXH bắt buộc cũng
như thực tiễn thi hành các chế độ BHXH bắt buộc trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật về BHXH bắt buộc.

4



7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia
thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về BHXH bắt buộc và quy định pháp
luật Việt Nam về BHXH bắt buộc
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc tại quận Hai
Bà Trưng, thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc tại quận Hai Bà Trưng, thành phố
Hà Nội

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BHXH BẮT BUỘC VÀ QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BHXH BẮT BUỘC
1.1. Khái quát về BHXH bắt buộc
1.1.1. Khái niệm BHXH
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là khoản thu nhập thay thế cho NLĐ khi họ gặp
các rủi ro trên nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”. NLĐ chỉ phải đóng góp một
khoản nhỏ thu nhập của bản thân cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật
chất đủ lớn trang trải cho những rủi ro xảy ra như ốm đau, TNLĐ... Dưới góc độ xã
hội, BHXH được hiểu như một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ
khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng
lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động ổn định trật tự xã hội.
Phần thu nhập của NLĐ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ
được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập trung được tập hợp lại. Sự đền bù
này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình
thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu nhập hợp pháp

khác của quỹ BHXH.
Ở Việt Nam, kể từ khi Luật BHXH năm 2006 ra đời, khái niệm về BHXH mới
được ghi nhận một cách chính thức. Theo Khoản 1, Điều 3, Luật BHXH năm 2006
định nghĩa “ BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, thất nghiệp, hết
tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.” Định nghĩa này vẫn được
tiếp tục sử dụng trong văn bản pháp luật về BHXH hiện hành - Luật BHXH năm 2014.
Như vậy, có thể hiểu rằng: BHXH là sự đảm bảo khoản thu nhập thay thế cho
NLĐ trong các trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm,
thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham
gia và có sự ủng hộ của Nhà nước, nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho

6


NLĐ và gia đình họ đồng thời góp phần bảo vệ an toàn xã hội. Đối tượng của BHXH
chính là thu nhập bị biến động giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao động
hoặc mất việc của những NLĐ tham gia BHXH. BHXH là sản phẩm tất yếu của sự phát
triển nền kinh tế. Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở lao động
và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH (có thể là NLĐ hoặc cả NLĐ và NSDLĐ),
bên BHXH (thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ) và
bên được BHXH (NLĐ và gia đình họ khi có đủ điều kiện ràng buộc cần thiết)
1.1.2. Khái niệm BHXH bắt buộc
Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đã có pháp luật về BHXH bắt buộc
với mục đích chung là bảo vệ cho NLĐ khi gặp rủi ro, bất hạnh do bị ngừng hoăc
giảm thu nhập. Đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc được ngày một mở rộng. Thông
thường đối tượng được áp dụng đầu tiên là công chức, viên chức Nhà nước và quân
đội, rồi dần mở rộng đến các công nhân làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước, tiếp
đến là người làm công ăn lương tại các doanh nghiệp tư nhân và mở rộng đến những
dạng lao động khác.

Nhằm đảm bảo và khắc phục toàn diện những rủi ro có thể xảy ra với NLĐ mà
các dạng trợ cấp cũng được bổ sung dần và đa đạng hơn. Ban đầu pháp luật ở Đức về
BHXH mới chỉ ở dạng trợ cấp ốm đau sau đó TNLĐ, BNN, tàn tật (mất sức lao động),
già yếu (hưu trí) mới lần lượt được quy định thêm. Nga là nước đầu tiên quy định trợ
cấp cho phụ nữ góa và có con nhỏ (trợ cấp tiền tuất), sau đó một số nước khác cũng
thực hiện loại trợ cấp nay. Năm 1911, Vương quốc Anh là quốc gia đầu tiên có luật
về bảo hiểm thất nghiệp rồi mới lan ra một số các nước khác ở Châu Âu, Canada và
Hoa Kỳ vào những năm của thập kỷ 30.
Như vậy, quan điểm mở rộng dần chế độ BHXH theo hướng tăng quyền lợi
của NLĐ, các chế độ trợ cấp BHXH được phát triển dần lên để khắc phục nhiều hơn
những rủi ro xảy ra đối với NLĐ. Cho đến năm 2006 trên thế giới có 172 nước có hệ
thống pháp luật về BHXH. Ở Viêt Nam, ban đầu các quy định về BHXH nói chung
và BHXH bắt buộc nói riêng đều mang tính chất phân tán cho đến năm 2006 khi Luật

7


BHXH ra đời thì các quy định về BHXH mới được thiết lập một cách có hệ thống.
Cho đến nay khi Luật BHXH 2014 ra đời thì định nghĩa về BHXH bắt buộc vẫn
không đổi và được quy định tại Khoản 2, Điều 3 Luật BHXH 2014: “Bảo hiểm xã
hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người lao động
và người sử dụng lao động phải tham gia”. Có thể thấy, đặc trưng cơ bản để phân
biệt BHXH bắt buộc với loại BHXH khác là thuộc tính bắt buộc. Tính bắt buộc được
thể hiện ở những điểm như:
Về đối tượng tham gia bảo hiểm: Khác với các đối tượng khác trong hệ thống
an sinh xã hội, chế độ BHXH bắt buộc đảm bảo ổn định đời sống cho NLĐ có thu
nhập nên đối tượng tham gia BHXH bắt buộc sẽ bao gồm NLĐ và NSDLĐ. Vì vậy,
đối với NLĐ có việc làm và thu nhập tương đối ổn định, dù muốn hay không, khi
tham gia quan hệ lao động thì họ và NSDLĐ của họ phải tham gia BHXH theo quy
định của pháp luật. Việc tham gia BHXH của những đối tượng này là quyền, đồng

thời cũng là nghĩa vụ của họ. NLĐ và NSDLĐ không thể thỏa thuận về việc có tham
gia BHXH hay không cũng như thay thế BHXH bằng các hình thức khác.
Về mức đóng bảo hiểm: Mức đóng của BHXH bắt buộc cũng mang tính bắt
buộc và thường là do pháp luật ấn định đối với cả NLĐ và NSDLĐ. Thông thường,
mức đóng BHXH hàng tháng được tính theo mức phần trăm tiền lương, tiền công ghi
trong HĐLĐ, hợp đồng làm việc và các quy định của pháp luật.
Về các chế độ BHXH: các chế độ của BHXH bắt buộc cũng do pháp luật quy
định. Khi tham gia BHXH bắt buộc, NLĐ sẽ phải tham gia tất cả các chế độ BHXH chứ
không được lựa chọn một hay một vài chế độ. Các chế độ BHXH bắt buộc bao gồm: chế
độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ TNLĐ-BNN; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
Vấn đề mấu chốt để thực hiện BHXH bắt buộc đối với số đông NLĐ là phải
có nguồn quỹ BHXH và cần phải có kế hoạch cân đối việc thu và chi. Hầu hết các
nước quy định 3 nguồn đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc là NSDLĐ, NLĐ và Nhà
nước. Ngoài phần đóng góp của các chủ thể vào quỹ BHXH bắt buộc thì quỹ còn có
khoản thu khác như lãi suất do dùng tiền BHXH để đầu tư.

8


Tựu chung, có thể hiểu BHXH bắt buộc là một loại hình BHXH do Nhà nước
tổ chức, thực hiện, được bắt buộc áp dụng đối với một số đối tượng là NLĐ và NSDLĐ
theo quy định của pháp luật. BHXH bắt buộc là một bộ phận quan trọng nhất của hệ
thống BHXH. Nếu có một chính sách đúng đắn thì BHXH đóng vai trò quan trọng
trong việc giữ ổn định tình hình chính trị của đất nước và sự phát triển nền kinh tế
quốc dân, ngược lại, nếu không có định hướng đúng thì nó sẽ tác động tiêu cực tới
tình hình chính trị, kinh tế, sự tiến bộ xã hội.
1.1.3. Vai trò của BHXH bắt buộc
BHXH bắt buộc có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ lao động
cũng như trong đời sống xã hội. Điều đó được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Đối với người lao động

BHXH bắt buộc được hình thành và phát triển chủ yếu là nhằm đảm bảo chính
sách cho NLĐ và người thân của họ khi gặp phải những khó khăn, làm giảm hoặc
mất một phần thu nhập. Do đó, BHXH bắt buộc có vai trò vô cùng quan trọng đối với
đối tượng này. BHXH bắt buộc không chỉ là quyền lợi cho NLĐ mà nó còn thể hiện
trách nhiệm của NLĐ đối với xã hội. Một mặt, BHXH bắt buộc tạo điều kiện cho
NLĐ nhận được sự tương trợ của cộng đồng, xã hội khi ốm đau, thai sản... Mặt khác
cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của
các thành viên khác trong cộng đồng, khắc phục hậu quả và khống chế rủi ro trong
lao động ở mức độ cần thiết.
Khi tham gia BHXH bắt buộc, việc chi dùng cá nhân của NLĐ được nâng cao
hiệu quả cho họ tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ, đều đặn hàng tháng để chi dùng
khi già cả, mất sức lao động... Đây không chỉ là nguồn hỗ trợ về vật chất mà còn là
nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, giúp họ ổn
định về mặt tâm lý, ổn định chính sách cho bản thân và gia đình khi gặp bất trắc. Khi
có một chỗ dựa vững chắc, NLĐ sẽ cảm giác yên tâm hơn trong cuộc sống lao động,
làm việc hết sức mình để nâng cao năng suất lao động.

9


Đối với tổ chức sử dụng lao động
BHXH bắt buộc ngoài việc mang lại các lợi ích thiết thực cho NLĐ, nó còn
giúp cho các tổ chức sử dụng lao động ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông
qua việc phân phối các chi phí chi NLĐ một cách hợp lý. Bởi vì, nếu không có BHXH
bắt buộc, NSDLĐ sẽ trả tiền BHXH cùng tiền lương hàng tháng cho NLĐ để họ tự
quản lý và sử dụng nguồn tiền đó vào các mục đích khác nhau, không phả lúc nào
cũng mang lại hiệu quả như mong đợi. Đặc biệt khi NLĐ không may bị ốm đau, tai
nạn lao động… không có khoản tiền tiết kiệm, dự phòng để chi dùng cuộc sống của
họ bị ảnh hưởng dẫn đến chất lượng lao động cũng bị ảnh hưởng theo. Vì vậy, qua
việc phân phối chi phí cho NLĐ hợp lý, BHXH bắt buộc góp phần làm cho quá trình

sản xuất kinh doanh được ổn định, hoạt động liên tục và hiệu quả, tăng cường mối
quan hệ bền chắc giữa các thành viên trong quan hệ lao động.
Mặt khác, BHXH bắt buộc tạo điều kiện để NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ
trong suốt cuộc đời NLĐ cho những đóng góp của họ đối với doanh nghiệp, làm cho
quan hệ lao động giữa NSDLĐ với NLĐ có tính nhân văn sâu sắc hơn.
Bên cạnh đó, BHXH bắt buộc còn giúp đơn vị SDLĐ ổn định nguồn chi ngay
cả khi có rủi ro không đáng có xảy ra. Nhờ đó mà các khoản chi phí được chủ động
hạch toán, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh mà không bị
phụ thuộc quá nhiều vào hoàn cảnh khách quan. Tuy nhiên chính vì những lợi ích mà
BHXH bắt buộc mang lại cho đơn vị SDLĐ không phải là những lợi ích trực tiếp nên
nhiều doanh nghiệp, đơn vị SDLĐ chưa thực sự coi trọng và có nhận thức đúng đắn
về vai trò của BHXH bắt buộc.
Đối với xã hội
BHXH bắt buộc là một chính sách luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.
Bởi đúng như tên gọi đã phản ánh, BHXH bắt buộc không chỉ có vai trò quan trọng
đối với NLĐ và NSDLĐ mà nó còn có những vai trò xã hội to lớn như:
Tạo ra một cơ chế chia sẻ rõ ràng, để nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố
truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. Tuy không nhằm mục

10


đích sinh lợi, kinh doanh nhưng BHXH bắt buộc được xem như một công cụ phân
phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quản nhất cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo
động lực phát triển kinh tế- xã hội. Thông qua hoạt động BHXH bắt buộc, những rủi
ro trong đời sống NLĐ được dàn trải theo nhiều chiều, tạo ra khả năng giải quyết an
toàn nhất, với chi phí thấp nhất.
BHXH vốn là một trong bốn trụ cột của hệ thống ASXH của Nhà nước ta hiện
nay. Căn cứ vào mức độ bao phủ của chính sách BHXH mà các nhà hoạch định chính
sách xã hội sẽ thiết kế những mạng lưới an sinh khác nhau. Do đó, phát triển BHXH bắt

buộc chính là cơ sở để phát triển các bộ phận khác nhau của hệ thống an sinh xã hội.
Có thể nói nhìn vào hệ thống BHXH bắt buộc của mỗi quốc gia có, thể biết
được trình độ phát triển của quốc gia đó. Nếu kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu,
đời sống nhân dân thấp kém thì hệ thống BHXH cũng chậm phát triển ở mức độ tương
đối. Bởi vì, chỉ khi kinh tế phát triển, những nhu cầu cần thiết nhất được đảm bảo thì
người dân mới nghĩ đến nhu cầu cao hơn. Mặt khác, thông qua hệ thống BHXH bắt
buộc, trình độ tổ chức, quản lý rủi ro xã hội của nhà nước, trình độ văn hóa của cộng
đồng được nâng cao.
Ngoài ra, hệ thống BHXH bắt buộc cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu
tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế phát triển. Do quỹ BHXH có
nguồn tiền nhàn rỗi được đem đi đầu tư đảm bảo an toàn và tăng trưởng quỹ, mang
lại lợi ích cho tất cả các chủ thể trong quan hệ BHXH.
Như vậy, vai trò của BHXH bắt buộc là rất lớn đối với NLĐ, NSDLĐ và toàn
xã hội. Ở Việt Nam, với chức năng của mình, BHXH bắt buộc đang là một khâu
không thể thiếu trong việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” góp phần vào ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
1.1.4. Các nguyên tắc BHXH bắt buộc
Nguyên tắc BHXH bắt buộc được quy định tại Điều 5, Luật BHXH 2014. Đó
là những nguyên lý, những quy định được đặt ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi
hoạt động của BHXH. BHXH bắt buộc là một trong các loại hình bảo hiểm, lại chủ

11


yếu mang mục đích xã hội, BHXH vừa phải thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt
động bảo hiểm, vừa phải thực hiện các nguyên tắc mang tính xã hội của mình. Cụ
thể, BHXH bắt buộc được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, mức hưởng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH
BHXH bắt buộc là loại bảo hiểm vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội.

Tính kinh tế của BHXH bắt buộc thể hiện ở chức năng tổ chức phân phối thu nhập,
đảm bảo đời sống của cá nhân cũng như của gia đình người lao động. Để thực hiện
việc phân phối đó một cách hiệu quả, BHXH bắt buộc trong quá trình triển khai phải
có sự kết hợp hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ và sự tương xứng tương đối giữa
mức đóng và mức hưởng. Tuy nhiên, ngoài ra BHXH bắt buộc còn mang tính xã hội,
trong đó nổi trội là sự chia sẻ những rủi ro xã hội, lấy số đông bù số ít.
Nội dung của nguyên tắc:
- Đảm bảo sự hợp lý giữa mức đóng góp và mức hưởng thụ. Cần căn cứ vào sự
cống hiến của người lao động như mức đóng góp, thời gian đóng góp cho các quỹ
bảo hiểm xã hội… để dựa vào đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng sao
cho phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của người lao động
- Sự tương xứng giữa mức đóng và mức hưởng của BHXH bắt buộc chỉ mang
tính chất tương đối bởi không phải người lao động cứ đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã
hội bao nhiêu thì sẽ nhận được bây nhiêu chế độ bảo hiểm xã hội.
- Mặc dù mức hưởng phải căn cứ trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH
nhưng vẫn mang tính chất chia sẻ, hỗ trợ giữa những người tham gia bảo hiểm. Điều
này được thể hiện ngay từ việc đóng góp của họ vào quỹ BHXH. Để được hưởng các
chế độ BHXH bắt buộc thì đối tượng thụ hưởng phải đáp ứng các điều kiện luật định.
Hơn nữa, trong số đông những người tham gia đóng góp (người sử dụng lao động,
người lao động và Nhà nước) thì chỉ có người lao động mới là đối tượng được hưởng
trợ cấp. Vì thế số trợ cấp mà họ nhận được thường lớn hơn rất nhiều số tiền mà họ đã
đóng góp. Và việc chi trả các chế độ BHXH bắt buộc được tiến hành trên cơ sở lấy

12


kết quả của số đông người tham gia để bù cho số ít người được hưởng. Ngoài ra, đây
cũng là cách mà cộng đồng giúp đỡ những đối tượng gặp rủi ro mà nếu không có sự
chia sẻ, tương trợ cộng đồng thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Thứ hai, mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công

của NLĐ.
Đối tượng của BHXH bắt buộc là phần thu nhập của người lao động trong
trường hợp bị giảm hoặc bị mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm. Cho nên mức đóng BHXH bắt buộc phải căn cứ vào mức thu nhập được bảo
hiểm thì mới đảm bảo nguyên tắc mức hưởng của BHXH bắt buộc phải tính trên cơ
sở mức đóng.
Nội dung của nguyên tắc:
- Mức thu nhập được bảo hiểm là mức tiền lương hoặc một mức thu nhập bằng
tiền nào đó do Nhà nước quy định. Mức thu nhập này là công cụ để Nhà nước giám
sát, kiểm tra, điều tiết trên giác độ quản lý vĩ mô đối với BHXH bắt buộc và quản lý
lao động trong nên kinh tế quốc dân. Yêu cầu trong việc lựa chọn mức thu nhập được
bảo hiểm được Nhà nước quán triệt là phải dựa trên cơ sở mức sống, mức thu nhập
bình quân thực tế của đại đa số người lao động…để đảm bảo cho mức thu nhập này
luôn thăng bằng tương đối, đảm bảo đời sống cho người lao động tham gia bảo hiểm
và gia đình họ.
- Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền công, tiền lương của người
lao động. Nguyên tắc này là phù hợp với xu hướng chung hiện nay, đảm bảo được sự
cân bằng giữa mức đóng BHXH với mức thu nhập của người lao động. Hơn nữa, nó
cũng đảm bảo sự ổn định cho quỹ BHXH trước sự biến động của giá cả thị trường.
Bên cạnh đó, cùng với nguyên tắc thứ nhất, nguyên tắc này sẽ tạo nên sự bình đẳng
tương đối giữa những người tham gia BHXH trong việc thụ hưởng quyền lợi khi mức
đóng góp của mỗi người là không giống nhau, bởi vì mức hưởng thì tính trên cơ sở
mức đóng BHXH và mức đóng BHXH thì lại được tính trên cơ sở tiền lương, tiền
công của người lao động, từ đó tạo ra sự cân xứng trong việc đóng góp và thụ hưởng.

13


Thứ ba, NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã

đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì không
được tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH.
Theo quy định của pháp luật về hình thức thì BHXH gồm có BHXH bắt buộc và
BHXH tự nguyện. Mặc dù số lượng người tham gia mỗi loại BHXH không giống
nhau nhưng đều về phương diện pháp lý, việc tham gia BHXH bắt buộc hay BHXH
tự nguyện đều tạo nên các quyền lợi về BHXH có giá trị như nhau. Xét trên thực tế,
có rất nhiều trường hợp người lao động có thể có những thời gian tham gia BHXH
theo các loại hình khác nhau. Từ đó đặt ra yêu cầu giải quyết quyền lợi cho họ sao
cho hợp lý nhất
Đây là quy định được Luật BHXH nâng lên thành nguyên tắc cơ bản, nhằm
đảm bảo quyền lợi của người lao động và tính liên thông trong quan hệ bảo hiểm xã
hội, hạn chế tình trạng thực tế có rất nhiều người lao động bị “cắt xén” quyền lợi khi
rơi vào trường hợp như trên.
Thứ tư, việc thực hiện BHXH bắt buộc phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo
đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH bắt buộc
- Người tham gia BHXH bắt buộc là NSDLĐ, NLĐ và nhà nước. Trong đó,
NSDLĐ là người có nghĩa vụ phải đóng góp bảo hiểm cho NLĐ nhưng họ lại không
đồng thời là người thụ hưởng. Cho nên, đối tượng chủ thể này thường ít khi mặn mà
với việc thực hiện trách nhiệm của mình. Để khuyến khích NSDLĐ thực hiện nghĩa
vụ trên, trình tự thủ tục đóng góp cũng như thực hiện BHXH bắt buộc phải giảm thiểu
sự phiền hà, phức tạp đến mức tối đa.
- Những trường hợp được hưởng các chế độ BHXH bắt buộc là những trường
hợp xảy ra rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập của NLĐ. Trong tình huống đó, họ và
gia đình rất cần đến khoản tiền BHXH bắt buộc một cách kịp thời, nhanh chóng để
giải quyết khó khăn, ổn định cuộc sống. Chính vì vậy, việc thực hiện BHXH phải
đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, kịp thời, đặc biệt là thủ tục hành chính để có
thể đảm bảo giải quyết một cách nhanh chóng, đầy đủ quyền lợi, đáp ứng yêu cầu cấp
thiết của người tham gia BHXH.

14



Có thể thấy rằng, mỗi nguyên tắc BHXH bắt buộc có một nội dung riêng, phản
ánh những quy luật khách quan khác nhau của chính sách BHXH. Tuy vậy giữa chúng
luôn tồn tại mối quan hệ tác động qua lại với nhau, tạo thành một hệ thống thống
nhất, việc thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả
các nguyên tắc khác. Cho nên trong hoạt động BHXH bắt buộc cần phải kết hợp thực
hiện các nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý, tổ chức thực hiện các
chính sách BHXH bắt buộc.
1.2. Nội dung quy định pháp luật hiện hành về BHXH bắt buộc
Pháp luật về bảo hiểm BHXH bắt buộc được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp
luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh những quan hệ
xã hội hình thành trong quá trình đóng góp và chi trả các chế độ BHXH bắt buộc.
1.2.1. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Ở nước ta hiện nay, hình thức BHXH bắt buộc đang có sự phát triển khá nhanh,
đối tượng tham gia ngày càng mở rộng. Từ chỗ chỉ bảo vệ cho NLĐ trong khu vực
nhà nước, hiện nay, BHXH bắt buộc đã bao phủ tất cả các đối tượng tham gia quan
hệ lao động, trong mọi thành phần kinh tế. Theo Điều 2, Luật BHXH 2014 quy định
ba đối tượng chính tham gia BHXH bắt buộc bao gồm NLĐ là công dân Việt Nam,
NLĐ nước ngoài và NSDLĐ, cụ thể:
- NLĐ là công dân Việt Nam, bao gồm:
a. Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn; Người làm việc theo
HĐLĐ xác định thời hạn; Người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một
công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả HĐLĐ được
ký kết giữa NSDLĐ với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi;
b. Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;
c. Cán bộ, công chức, viên chức;
d. Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong
tổ chức cơ yếu; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người

làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;

15


e. Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân
dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được
hưởng sinh hoạt phí;
g. Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật NLĐ Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
h. Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng
tiền lương;
i. Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
Mức đóng và phương thức đóng của NLĐ là công dân Việt Nam tham gia
BHXH bắt buộc được quy định tại Điều 85, Luật BHXH 2014, trong đó:
Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và h nêu trên hằng tháng
đóng bằng 8% mức tiền lương tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất.
Người lao động quy định điểm i, hằng tháng đóng bằng 8% mức lương cơ sở
vào quỹ hưu trí và tử tuất.
Người lao động quy định tại điểm g, mức đóng và phương thức đóng được quy
định như sau: Mức đóng hằng tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất bằng 22% mức tiền
lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của người lao động trước khi đi làm việc ở nước
ngoài, đối với người lao động đã có quá trình tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc;
bằng 22% của 02 lần mức lương cơ sở đối với người lao động chưa tham gia bảo
hiểm xã hội bắt buộc hoặc đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng đã hưởng bảo
hiểm xã hội một lần; Phương thức đóng được thực hiện 3 tháng, 06 tháng, 12 tháng
một lần hoặc đóng trước một lần theo thời hạn ghi trong hợp đồng đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài.
Người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc
trở lên trong tháng thì không đóng BHXH tháng đó. Thời gian này không được tính để

hưởng BHXH, trừ trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.
- NLĐ là công dân nước ngoài: Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có
giấy phép lao động/chứng chỉ hành nghề/giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam cấp.

16


Mức đóng và phương thức đóng của người lao động là công dân nước ngoài
làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được quy định tại
Điều 12, Nghị định 143/2018/NĐ-CP ngày 15/10/2018 của Chính Phủ, quy định chi
tiết Luật BHXH và Luật ATVSLĐ về BHXH bắt buộc đối với NLĐ là công dân nước
ngoài làm việc tại Việt Nam. Trong đó quy định từ 01/01/2022, NLĐ là công dân
nước ngoài làm việc tại Việt nam hàng tháng đóng bằng 8% mức tiền lương tháng
vào quỹ hưu trí và tử tuất.
- Người sử dụng lao động:
Điều 2 Luật BHXH 2014 quy định rõ năm nhóm NSDLĐ phải tham gia BHXH
bắt buộc, bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;
Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức
quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh
cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác; Cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ.
Mức đóng và phương thức đóng của NSDLĐ được quy định tại Điều 86, Luật
BHXH 2014, trong đó:
NSDLĐ hằng tháng đóng trên quỹ tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của NLĐ
quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và h nêu trên như sau: 3% vào quỹ ốm đau và thai
sản; 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (từ tháng 6/2017 đóng 0,5%);
14% vào quỹ hưu trí và tử tuất.
NSDLĐ hằng tháng đóng trên mức lương cơ sở đối với mỗi NLĐ quy định
tại điểm e nêu trên như sau: 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (từ tháng

6/2017 đóng 0,5%); 22% vào quỹ hưu trí và tử tuất.
NSDLĐ hằng tháng đóng 14% mức lương cơ sở vào quỹ hưu trí và tử tuất cho
NLĐ quy định tại điểm i nêu trên.
Từ tháng 12/2018, NSDLĐ đóng 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; 0.5% vào
quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và từ tháng 01/2022 đóng 3% vào quỹ ốm
đau và thai sản; 0.5% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 14% vào quỹ hưu
trí và tử tuất cho NLĐ là công dân nước ngoài.

17


NSDLĐ không phải đóng bảo hiểm xã hội cho NLĐ không làm việc và không
hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng.
Như vậy, pháp luật có quy định rất chi tiết và cụ thể về các đối tượng phải
tham gia BHXH bắt buộc, mức đóng và phương thức đóng của từng đối tượng. Ngoài
các đối tượng trên đây, các đối tượng còn lại sẽ không thuộc trường hợp tham gia
BHXH bắt buộc.
Có thể thấy rằng, Luật BHXH 2014 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong việc mở rộng đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc theo đó đối tượng áp dụng
BHXH bắt buộc từ ngày 01/01/2016 sẽ được mở rộng tới tất cả những NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng, tới những người hoạt động không chuyên trách ở
xã, phường thị trấn; từ ngày 01/01/2018 tiếp tục mở rộng tới những người làm việc
theo HĐLĐ có thời gian từ đủ 01 tháng trở lên và NLĐ là công dân nước ngoài vào
làm việc tại Việt Nam. Bên cạnh đó, Luật BHXH 2014 đã mở rộng các đối tượng
thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc: theo qui định tại Luật BHXH 2006, NLĐ tham
gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 3
tháng trở lên. Theo đó, người làm việc theo HĐLĐ thời hạn dưới 3 tháng và lao động
tự do không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Để mở rộng đối tượng tham
gia BHXH bắt buộc, Luật BHXH 2014 qui định thêm ba nhóm đối tượng như sau:
+ NLĐ làm việc theo HĐLĐ thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng, áp dụng

từ ngày 1/1/2018;
+ NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao
động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam cấp, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018;
+ Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn.
1.2.2. Các chế độ BHXH bắt buộc
Các chế độ BHXH bắt buộc được quy định tại Khoản 1, Điều 4 Luật BHXH 2014
bao gồm:

18


×