Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Đánh giá thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại khu vực trung tâm huyện triệu sơn, tỉnh thanh hóa gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

-------  -------

LÊ QUANG HIỆP

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO
ĐẢM BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU
NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN VỚI ĐẤT TẠI
KHU VỰC TRUNG TÂM HUYỆN TRIỆU SƠN,
TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2016 - 2018

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

-------  -------

LÊ QUANG HIỆP

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO


HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO
ĐẢM BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU
NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN VỚI ĐẤT TẠI
KHU VỰC TRUNG TÂM HUYỆN TRIỆU SƠN,
TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2016 - 2018
Ngành: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số: 8.85.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Đàm Xuân Vận

THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, những số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực, chính xác và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn
Lê Quang Hiệp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





ii

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình và sự
đóng góp quý báu của nhiều tập thể và cá nhân để tôi hoàn thành Luận văn này.
Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc thầy giáo PGS TS. Đàm Xuân
Vận đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Quản lý Tài nguyên,
phòng Đào tạo, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tạo điều kiện, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của UBND huyện Triệu Sơn,
Phòng tài nguyên và môi trường, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, chi cục
thống kê huyện Triệu Sơn, UBND các xã, thị trấn đã tạo điều kiện cho tôi thu thập
số liệu, những thông tin cần thiết để hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn những người thân trong gia đình cùng
toàn thể các bạn học viên cùng lớp và bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, thực hiện luận văn này./.
Tác giả luận văn
Lê Quang Hiệp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU ......................................................................................vii
DANH MỤC HÌNH ................................................................................................ viii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài ...................................................................................... 2
3. Ý nghĩa của đề tài .................................................................................................... 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU ........................................... 4
1.1. Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm ....................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về giao dịch bảo đảm ....................................................................... 4
1.1.2. Khái niệm về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ........................................ 5
1.2. Cơ sở thực tiễn về đăng ký giao dịch bảo đảm .................................................... 6
1.2.1. Một số kinh nghiệm đăng ký giao dịch bảo đảm ở một số nước trên thế giới ...... 6
1.2.2. Thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm ở Việt Nam ........................................... 8
1.2.3. Thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm tại tỉnh Thanh Hóa .............................. 22
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....... 25
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 25
2.2. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 25
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Triệu Sơn .............................. 25
2.2.2. Hiện trạng sử dụng, quản lý đất đai của huyện Triệu Sơn .............................. 25
2.2.3. Đánh giá công tác giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại khu vực trung tâm huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hóa ...................................................................................... 25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





iv

2.2.4. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đăng ký giao dịch bảo
đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất quyền sử dụng đất tại khu vực trung tâm huyện Triệu Sơn ........ 25
2.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 25
2.3.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu ............................................................... 25
2.3.2. Phương pháp điều tra thu thập số liệu ............................................................. 26
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu ............................................................................... 27
2.3.4. Phương pháp so sánh....................................................................................... 27
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................. 28
3.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Triệu Sơn ..................... 28
3.1.1. Điều kiện tự nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên ................................ 28
3.1.2. Khái quát về thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ......................................... 30
3.1.3. Thực trạng phát triển hạ tầng .......................................................................... 31
3.2.1. Hiện trạng sử dụng đất huyện Triệu Sơn năm 2018 ....................................... 33
3.2.2. Tình hình công tác quản lý đất đai tại huyện Triệu Sơn ................................. 39
3.3. Đánh giá công tác đăng ký GDBĐ bằng QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất tại huyện Triệu Sơn .......................................... 48
3.3.1. Công tác đăng ký thế chấp bằng QSD đất ở, QSH nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất khu vực trung tâm huyện Triệu Sơn giai đoạn 2016 - 2018.............. 48
3.3.2. Đánh giá thực trạng GDBĐ và công tác đăng ký GDBĐ bằng quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại các xã,
Thị trấn nghiên cứu ........................................................................................ 50
3.4. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đăng ký giao dịch bảo đảm
bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền

với đất khu vực trung tâm huyện Triệu Sơn .................................................. 71
3.4.1. Giải pháp về cơ chế chính sách ....................................................................... 71
3.4.2. Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm
giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và các cơ quan có liên quan ............... 71
3.4.3. Giải pháp tuyên truyền .................................................................................... 71
3.4.4. Giải pháp về nguồn lực ................................................................................... 72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




v

3.4.5. Xây dựng và triển khai cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp
luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tại các cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm .......................................................................................................... 72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 73
1. Kết luận ................................................................................................................. 73
2. Kiến nghị ............................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt


Ý nghĩa của chữ viết tắt

1.

BLDS

Bộ luật Dân sự

2.

BTC

Bộ Tài chính

3.

BTP

Bộ Tư pháp

4.

BTNMT

Bộ Tài nguyên và Môi trường

5.

CP


Chính phủ

6.

GDBĐ

Giao dịch bảo đảm

7.



Nghị định

8.

NĐ-CP

Nghị định

9.

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

10.

QSH


Quyền sở hữu

11.

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

12.

TT

Thông tư

13.

TTLT

Thông tư liên tịch

14.

UBND

Ủy ban nhân dân

15.

VPĐKQSDĐ


Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất

STT

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1.

Hiện trạng sử dụng đất của huyện Triệu Sơn năm 2018 ..................... 34

Bảng 3.2.

Hiện trạng đất nông nghiệp của huyện Triệu Sơn năm 2018 .............. 35

Bảng 3.3.

Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp huyện Triệu Sơn năm 2018 ...... 38

Bảng 3.4.

Hiện trạng sử dụng đất chưa sử dụng huyện Triệu Sơn năm 2018 ..... 39

Bảng 3.5.


Tình hình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng của huyện Triệu
Sơn đến năm 2018 ............................................................................... 43

Bảng 3.6:

Tình hình thực hiện đăng ký thế chấp bằng QSD đất ở, QSH nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất tại khu vực trung tâm huyện
Triệu Sơn giai đoạn 2016 – 2018 ........................................................ 49

Bảng 3.7.

Tình hình thực hiện thế chấp bằng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất năm 2016-2018 ................ 50

Bảng 3.8.

Ý kiến người dân về việc thực hiện thế chấp bằng quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa
bàn nghiên cứu .................................................................................... 53

Bảng 3.9.

Kết quả điều tra cán bộ ngân hàng về cho vay có thế chấp bằng
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất tại huyện Triệu Sơn ................................................................ 56

Bảng 3.10:

Tình hình thực hiện cầm cố tài sản là nhà ở và tài sản khác gắn

liền với đất tại địa bàn nghiên cứu giai đoạn 2016-2018 .................... 59

Bảng 3.11:

Ý kiến người dân về việc thực hiện giao dịch cầm cố nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất tại địa bàn nghiên cứu giai đoạn 2016 - 2018 ......... 611

Bảng 3.12:

Tình hình thực hiện giao dịch đặt cọc để chuyển nhượng QSD
đất, QSH nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa bàn
nghiên cứu giai đoạn 2016-2018 ....................................................... 644

Bảng 3.13:

Ý kiến người dân về giao dịch đặt cọc để chuyển nhượng QSD
đất, QSH nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa bàn
nghiên cứu giai đoạn 2016 - 2018 .................................................... 666

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




viii

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1


Địa điểm nghiên cứu huyện Triệu Sơn ....................................... 28

Hình 3.2.

Cơ cấu các loại đất theo diện tích tự nhiên của huyện Triệu Sơn ........ 35

Hình 3.3.

Tình hình thực hiện thế chấp bằng quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa
bàn nghiên cứu giai đoạn 2016 – 2018 ....................................... 51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường hóa, tiền tệ hóa quyền sử dụng đất ngày càng rõ nét và quyền
của người sử dụng đất tương xứng với nghĩa vụ kinh tế mà họ đã đóng góp cho
xã hội, cho Nhà nước. Sự phát triển này đã hình thành thị trường đất đai, hòa
nhập vào nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, từng bước đồng bộ với các
thị trường khác trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, trong Đại hội Đảng lần thứ
IX đã có chủ trương phát triển đầy đủ thị trường quyền sử dụng đất. Luật Đất
đai năm 2013 có những quy định về giao quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân sử dụng và có những quy định để các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất có quyền dễ dàng thực hiện các quyền sử dụng đất như
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, góp vốn bằng quyền

sử dụng đất…
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nhu cầu vay vốn có
bảo đảm bằng tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày càng
không ngừng gia tăng. Các hoạt động giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được diễn ra hết sức
phức tạp, dưới nhiều hình thức khác nhau như thế chấp và một phần các hoạt
động đang diễn ra trôi nổi trên thị trường tạo thị trường “ngầm”. Điều này, đã
làm thất thu cho nguồn ngân sách nhà nước, làm ảnh hưởng, kìm hãm sự phát
triển kinh tế chung và phát sinh các tranh chấp dân sự. Vấn đề đặt ra hiện na y
là cần có các biện pháp quản lý nhà nước chặt chẽ về các hoạt động này thông
qua việc đăng ký giao dịch bảo đảm.
Đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những cách thức để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho bên nhận bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản gắn liền và các bên cùng tham gia giao dịch trong hợp
đồng, loại bỏ được những rủi ro pháp lý cho các giao dịch, tạo lập, duy trì và
đảm bảo một trật tự lợi ích chung trong đời sống kinh tế - dân sự, xóa bỏ thị
trường “ngầm”, tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng đất có thể thực hiện
một cách tốt nhất các quyền của mình theo quy định của pháp luật (Trần Quang
Huy, Nguyễn Quang Tuyến, 2013).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




2
Đăng ký giao dịch bảo đảm còn góp phần vào việc ngăn ngừa các tranh
chấp về dân sự liên quan đến giao dịch bảo đảm, hợp đồng vay, góp vốn và
cung cấp chứng cứ để Tòa án giải quyết các tranh chấp đó. Tuy nhiên, trong
thực tiễn, công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền

sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất vẫn còn nhiều bất cập như:
- Các văn bản quy phạm pháp luật nhiều, đôi lúc còn chồng chéo ảnh
hưởng đến việc thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm cho người sử dụng đất;
- Việc xử lý tài sản hình thành trong tương lai chưa có quy định cụ thể.
Triệu Sơn là một huyện của tỉnh Thanh Hóa có nhiều ưu thế về vị trí,
tiềm năng và thế mạnh có khả năng thu hút thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện đã thu hút nhiều dân cư
về sinh sống, đất nông nghiệp dần bị thu hẹp, kết cấu hạ tầng bước đầu được
cải thiện. Cùng với quá trình công nghiệp hóa thì nhu cầu vốn ngày càng gia
tăng, các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
diễn ra khá sôi động trên địa bàn huyện, đặc biệt phần lớn các giao dịch bảo
đảm của huyện Triệu Sơn được thực hiện nhiều nhất tại các xã trung tâm của
huyện vì sự phát triển kính tế, các khu đô thị, trung tâm thương mai, các dịch
vụ phần đa là tập chung ở đây. Việc đăng ký các giao dịch trên tại các cơ quan
nhà nước theo quy định của pháp luật ngày càng tăng. Tuy nhiên, việc quản lý
các giao dịch này vẫn còn những tồn tại, bất cập cần đi sâu nghiên cứu và đề
xuất giải pháp giải quyết.
Xuất phát từ thực tế khách quan nói trên, tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá
thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đăng ký giao dịch bảo đảm
bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại
khu vực trung tâm huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016 - 2018 ” là
cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Điều tra, đánh giá tình hình quản lý đất đai, thực trạng các giao dịch
bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất tại khu vực trung tâm huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đăng ký giao dịch
bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất ở tại khu vực trung tâm huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





3
3. Ý nghĩa của đề tài
- Đánh giá đầy đủ, chính xác thực trạng các giao dịch bảo đảm, đăng ký
giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất.
- Phân tích những nguyên nhân tác động đến thực hiện các giao dịch bảo
đảm và công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Các giải pháp đề xuất có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần nâng
cao hiệu quả công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đồng thời phù hợp với điều
kiện thực tế của địa bàn nghiên cứu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm
1.1.1. Khái niệm về giao dịch bảo đảm
Theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 thì, “Giao dịch bảo
đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc
thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này”; bao

gồm: tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Bên
cạnh đó, nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch của các quan hệ về giao dịch bảo
đảm, BLDS 2005 quy định: các giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 323, Điều 325) (Quốc hội nước
CHXHCNVN, 2005) và xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo
đảm theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm. Tài sản theo Điều 326 Bộ luật Dân sự
2005 là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Thế chấp tài sản theo Điều 432 Bộ luật Dân sự năm 2005 là việc một bên
dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với
bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Đặt cọc theo Điều 358 Bộ luật Dân sự 2005 là việc một bên giao cho bên
kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là
tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng
dân sự. Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. Trong trường hợp, hợp đồng dân
sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc
được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận
đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc
tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp
có thoả thuận khác.
Ký cược theo Điều 359 Bộ luật Dân sự 2005 là việc bên thuê tài sản là động
sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá
trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





5
sản thuê. Trong trường hợp tài sản thuê được trả lại thì bên thuê được nhận lại tài
sản ký cược sau khi trừ tiền thuê; nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê thì bên cho
thuê có quyền đòi lại tài sản thuê; nếu tài sản thuê không còn để trả lại thì tài sản ký
cược thuộc về bên cho thuê.
Ký quỹ theo Điều 360 Bộ luật Dân sự 2005 là việc bên có nghĩa vụ gửi một
khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong
toả tại một ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp
bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có
quyền được ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa
vụ gây ra, sau khi trừ chi phí dịch vụ ngân hàng.
Bảo Lãnh theo Điều 361 Bộ luật Dân sự 2005 là việc người thứ ba (say đây
gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu
khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện
nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Tín chấp theo Điều 372 Bộ luật Dân sự 2005 là việc một tổ chức chính trị xã hội tại cơ sở (Hội Phụ nữ tại địa phương, Công đoàn cơ sở…) có thể đảm bảo
bằng tín chấp cho cá nhân của tổ chức mình, hộ gia đình nghèo tại địa phương vay
một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ theo quy định của Chính phủ.
1.1.2. Khái niệm về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi vào Sổ
đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu các thông tin về giao dịch
bảo đảm dùng tài sản bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài
sản gắn liền với đất để thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm. Các tài
sản dùng bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền
với đất trong giao dịch bảo đảm có thể có trước khi thông tin được ghi vào Sổ, hay

nhập vào cơ sở dữ liệu hoặc được xác lập sau khi cơ quan đăng ký ghi thông tin về
các giao dịch bảo đảm vào Sổ đăng ký, nhập vào cơ sở dữ liệu theo quy định của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




6
pháp luật (Chính phủ,2010).
Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện tại Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất (Văn phòng Đăng ký đất đai) theo trình tự, thủ tục quy định tại
Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/09/2017 về đăng ký biện pháp bảo đảm.
Thông tư số 09/2016/TTLT – BTP – BTNMT ngày 23/06/2016 hướng dẫn việc
đăng ký thế chấp quyến sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Hồ sơ đăng ký giao
dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất gồm có: Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo
đảm; Hợp đồng bảo đảm hoặc hợp đồng bảo đảm có công chứng hoặc chứng thực
theo quy định của pháp luật; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc các Giấy chứng nhận đã cấp qua các
thời kỳ; Bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của người yêu
cầu đăng ký; trường hợp người yêu cầu đăng ký là người được ủy quyền thì phải
có văn bản ủy quyền. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (Văn phòng Đăng ký
đất đai) sẽ ghi nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm vào Giấy chứng nhận, Sổ Địa
chính, Sổ theo dõi biến động đất đai theo quy định của pháp luật.
1.2. Cơ sở thực tiễn về đăng ký giao dịch bảo đảm
1.2.1. Một số kinh nghiệm đăng ký giao dịch bảo đảm ở một số nước trên thế giới
- Thụy Điển:
Ở Thụy Điển, pháp luật đất đai về cơ bản là dựa trên việc sở hữu tư nhân
về đất đai và nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, sự giám sát chung của xã hội

tồn tại trên rất nhiều lĩnh vực, ví dụ như phát triển đất đai và bảo vệ môi
trường. Hoạt động giám sát là một hoạt động phổ biến trong tất cả các nền kinh
tế thị trường cho dù hệ thống pháp luật về chi tiết được hình thành khác nhau
(Nguyễn Đình Bồng và các tác giả, 2005).
Hệ thống pháp luật đất đai tại Thụy Điển gồm có rất nhiều các đạo luật,
luật, pháp lệnh phục vụ cho các hoạt động đo đạc địa chính và quản lý đất đai.
Các hoạt động cụ thể như hoạt động địa chính, quy hoạch sử dụng đất, đăng ký
đất đai, bất động sản và việc xây dựng ngân hàng dữ liệu đất đai… đều được
luật hóa. Cụ thể:
+ Việc thế chấp: Quyền sở hữu được đăng ký sau khi hợp đồng đã được
ký kết nhưng thế chấp lại được thực hiện theo một cách khác. Theo quy định

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




7
của pháp luật về thế chấp, có 3 thủ tục để thực hiện thế chấp (Nguyễn Thị Thu
Hồng, 2000) như sau:
Bước 1: Trước tiên người sở hữu đất đai phải làm đơn xin thế chấp để
vay một khoản tiền nhất định. Nếu đơn được duyệt thì thế chấp đó sẽ được
đăng ký và tòa án sẽ cấp cho chủ sở hữu một văn bản xác nhận đủ điều kiện thế
chấp. Văn bản xác nhận đủ điều kiện thế chấp này sẽ được sử dụng cho một
cam kết thế chấp thế chấp thực tế được thực hiện sau khi đăng ký. Văn bản xác
nhận đủ điều kiện thế chấp dường như chỉ có ở Thụy Điển.
Bước 2: Văn bản xác nhận đủ điều kiện thế chấp được gửi cho bên cho
vay. Khi thực hiện bước 1, tòa án không kiểm tra, xác minh các yêu cầu đối với
thế chấp. Yêu cầu đối với thế chấp chỉ được xét đến khi thực sự sử dụng bất
động sản để vay vốn (tức là chỉ được xem xét đến ở bước 2). Các yêu cầu đặt ra

khi thế chấp là bên đi vay phải là chủ sở hữu bất động sản; bên cho vay cần đặt
ra các điều kiện cho người đi vay; bên đi vay phải cam kết việc thực hiện thế
chấp và bên cho vay sẽ giữ văn bản thế chấp. Khi không đáp ứng các yêu cầu
này thì thế chấp sẽ không hợp pháp. Đó là trình tự thế chấp theo quy định của
pháp luật nhưng trên thực tế hầu hết các thế chấp đều do ngân hàng và các tổ
chức tín dụng thực hiện. Tại ngân hàng, bên đi vay sẽ ký ba văn bản: hợp đồng
vay (nêu rõ lượng tiền vay), hợp đồng thế chấp (thế chấp bất động sản) và một
đơn gửi tòa án để xin đăng ký thế chấp. Ngân hàng sẽ gửi hai tài liệu đầu tiên và
gửi đơn xin thế chấp đến tòa án. Sau khi được xử lý, đơn xin thế chấp lại được
chuyển lại ngân hàng và lưu trong hồ sơ thế chấp. Thông thường ngân hàng đợi
đến khi có quyết định phê duyệt của tòa án mới chuyển tiền cho người đi vay.
Khi nợ thế chấp được thanh toán hết, văn bản xác nhận đủ điều kiện thế chấp sẽ
được trả lại cho bên đi vay.
Bước 3: Được áp dụng khi hợp đồng thế chấp bị vi phạm. Khi không
được thanh toán đúng hợp đồng, bên cho vay sẽ làm đơn xin tịch thu tài sản để
thế nợ. Việc này sẽ do một cơ quan có thẩm quyền đặc biệt thực hiện, đó là: cơ
quan thi hành pháp luật. Nếu yêu cầu không được chấp nhận, tài sản sẽ được
bán đấu giá và bên cho thế chấp sẽ được thanh toán khoản tiền đã cho thế chấp.
Thủ tục này được tiến hành khá nhanh chóng. Vụ việc sẽ được xử lý trong vòng
6 tháng kể từ khi có đơn xin bán đấu giá.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




8
- Trung Quốc:
Theo Điều 10, Hiến pháp năm 1982 của nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, đất đai ở Trung Quốc thuộc sở hữu Nhà nước (đối với đất đô thị) hoặc sở

hữu tập thể (đối với đất thuộc khu vực nông thôn). Vì đất đai ở nông thôn cũng
là đối tượng quản lý của chính quyền địa phương và Trung ương, nên quyền sở
hữu đối với toàn bộ đất đai ở Trung Quốc đều “dưới sự làm chủ” của Nhà nước
Trung Quốc (Nguyễn Thị Mai, 2002). Mặc dù không thừa nhận tư hữu đất đai
nhưng Điều 2 của Hiến pháp được sửa đổi năm 1988, quyền sử dụng đất được
phép chuyển nhượng tại Trung Quốc. Trong điều kiện này, quyền sử dụng đất
đã được tách rời khỏi quyền sở hữu đất đai.
Hiện nay, quyền sử dụng đất ở Trung Quốc có thể chia làm 2 loại: quyền
sử dụng đất được “cấp” và quyền sử dụng đất được “giao”. Quyền sử dụng đất
được “cấp” là loại quyền sử dụng đất truyền thống được áp dụng cho các doanh
nghiệp nhà nước. Nhà nước cấp đất cho các doanh nghiệp nhà nước không thu
tiền hoặc thu rất ít và có thể thu hồi bất cứ lúc nào. Đối với trường hợp này,
quyền sử dụng đất không thể chuyển nhượng, cho thuê hay thế chấp (Hoàng
Huy Biểu, 2000).
Người sử dụng đất có thể thế chấp quyền sử dụng đất thông qua giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng ở địa phương để vay
vốn. Giao dịch thế chấp phải được thực hiện thông qua hợp đồng giữa người sử
dụng đất và chủ thể cho vay. Nếu đến hạn thanh toán mà người thế chấp không
trả được nợ, bên cho vay có thể phải đăng ký quyền sử dụng với tư cách là
người sử dụng đất mới.
Đối với người sử dụng đất nước ngoài, việc thế chấp quyền sử dụng đất
để vay vốn từ các tổ chức tín dụng địa phương vẫn còn khó khăn, bởi họ
thường được coi là nguồn cấp vốn cho thị trường trong nước, chứ không phải là
người đi vay tiền của Trung Quốc (Lưu Quốc Thái, 2006)
1.2.2. Thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm ở Việt Nam
1.2.2.1. Giai đoạn từ những năm cuối thập kỷ 80, 90 của thế kỷ trước
Trong nền kinh tế kế hoạch toán tập trung, các giao dịch tự nguyện, tự
chịu trách nhiệm giữa các chủ thể bình đẳng về quyền, nghĩa vụ pháp lý hầu như
không tồn tại và điều đó đồng nghĩa với thực tế, ở nước ta, thời kỳ này không có


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




9
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Tình trạng nói trên kéo dài cho đến năm
cuối cùng của thập kỷ 80 của thế kỷ trước, khi nước ta bước vào giai đoạn đầu
của quá trình thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, với việc ban hành Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế năm 1989, Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, lần đầu tiên các
biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng kinh tế bao
gồm: thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh tài sản; và các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng dân sự là: thế chấp tài sản, cầm cố tài sả n,
bảo lãnh, đặt cọc đã được luật hoá trong văn bản của Nhà nước. Tuy nhiên, trong
thời kỳ đầu thực hiện chuyển đổi nền kinh tế này, giao dịch bảo đảm mới được
tiếp cận dưới góc độ là biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ trong quan hệ hợp
đồng dân sự, hợp đồng kinh tế chứ chưa phải là đối tượng của hoạt động đăng ký
với ý nghĩa công khai hoá các quyền tồn tại từ trước đối với tài sản bảo đảm
nhằm hạn chế và loại trừ rủi ro pháp lý cho các giao dịch được thiết lập sau liên
quan đến tài sản đó (Nguyễn Thị Mai, 2002).
Trong thời kỳ này, các hợp đồng kinh tế được ký kết chủ yếu giữa các doanh
nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, do vậy, mục đích thiết lập hợp đồng nói chung và
những hợp đồng có điều khoản bảo đảm thi hành nghĩa vụ nói riêng trong nhiều
trường hợp không xuất phát từ nhu cầu và lợi ích thực sự của các bên mà chủ yếu
thực hiện theo “chỉ tiêu”, “pháp lệnh” của Nhà nước. Chính tư duy kinh tế kế hoạch
hoá tập trung cùng với sự thiếu sinh động, phong phú của thực tiễn đời sống kinh tế,
dân sự khi chúng ta mới bước vào giai đoạn đầu xây dựng nền kinh tế thị trường đã
có sự ảnh hưởng mang tính chi phối đến cách tiếp cận của pháp luật thời kỳ này về
giao dịch bảo đảm.
Có thể nói giao dịch bảo đảm của pháp luật thời kỳ này là sự quy định riêng

về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng kinh tế và biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự trên nền quan điểm pháp lý
phân biệt rạnh ròi giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Theo đó, hai văn bản
quy phạm pháp luật được xem là “xương sống”, phục vụ trực tiếp cho việc xây
dựng và điều tiết sự vận hành của các quan hệ thị trường là Pháp lệnh hợp đồng dân
sự và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đều quy định về biện pháp thi hành nghĩa vụ, tuy
nhiên, giữa hai Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này lại có
nhiều nét khác biệt. Điều này thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, về loại hình giao dịch bảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




10
đảm. Theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trong hợp đồng kinh tế bao gồm: thế chấp, cầm cố, bảo lãnh; trong
khi đó, theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng dân sự, ngoài thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh, đặt cọc cũng được xem là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Thứ
hai, về nội dung và bản chất của biện pháp bảo lãnh (Vũ Thị Hồng Yến, 2009)
Theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Nghị định số 17/HĐBT
ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế (sau đây gọi là Nghị định số 17/HĐBT), bảo lãnh được coi là biện
pháp bảo đảm mang tính chất “đối vật”. Tại Điều 2 Nghị định số 17/HĐBT, bảo
lãnh được định nghĩa là “sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người
nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người
này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết.”. Trong khi đó, theo quy định của Pháp
lệnh hợp đồng dân sự, bảo lãnh lại được hiểu “là việc cá nhân hoặc pháp nhân, gọi
chung là người bảo lãnh, cam kết chịu trách nhiệm thay cho người được bảo lãnh,
nếu đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện hợp đồng

không đúng thoả thuận.
Người bảo lãnh chỉ có thể bảo lãnh bằng tài sản hoặc bằng việc thực hiện
một việc.” (Điều 40). Như vậy, khác với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, bảo lãnh
trong Pháp lệnh hợp đồng dân sự có thể là bảo lãnh bằng tài sản (mang tính chất
đối vật) hoặc bằng hành vi cụ thể (mang tính chất đối nhân). Thứ ba, về quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Trên nền tư duy
quan hệ pháp luật giữa các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu nhà nước mà đại diện chủ
yếu là các doanh nghiệp nhà nước là quan hệ mang tính chất “công”, chịu sự
quản lý và điều hành trực tiếp của chủ sở hữu là Nhà nước thông qua các “chỉ
tiêu”, “pháp lệnh”, còn quan hệ pháp luật dân sự là các quan hệ mang tính chất
“tư” nên quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự có phần “mềm dẻo” và “linh hoạt” hơn so
với quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng kinh tế.
Một đặc điểm nữa của pháp luật thời kỳ này, giao dịch bảo đảm là đã bước
đầu có những quy định mang tính khuyến nghị bên có quyền cần tìm hiểu thông
tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, pháp luật mới chỉ dừng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




11
lại ở mức độ đưa ra quy định mang tính cảnh báo bên có quyền mà chưa luật hoá
cơ chế công khai thông tin để bên cho vay (bên có quyền) biết được thông tin về
tài sản bảo đảm.
Theo quy định tại mục V, thông tư số 108/TT-PC ngày 19/5/1990 của trọng
tài kinh tế nhà nước hướng dẫn ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, khi áp dụng
biện pháp thế chấp, “Để tránh tình trạng một số tài sản được đem thế chấp nhiều

nơi... bên đòi thế chấp phải xem xét cụ thể tài sản đó hiện còn đang thế chấp ở đâu
chưa. Nếu tài sản đó hiện không thế chấp ở một nơi nào khác thì khi nhận thế chấp
cần yêu cầu giữ giấy tờ sở hữu tài sản đó nhằm ngăn chặn không để cho tài sản đó
được đem thế chấp nơi khác.” Điều này cho thấy, ý nghĩa và mục đích của khuyến
nghị mang tính cảnh báo này là nhằm hạn chế và loại trừ tình trạng dùng một tài sản
để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, chứ không phải nhằm giảm thiểu rủi ro cho
bên nhận bảo đảm sau trong trường hợp tài sản bảo đảm đã được dùng để bảo đảm
thực hiện nhiều nghĩa vụ trước đó.
Có thể nói, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Pháp lệnh hợp đồng dân sự về các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ còn ở phạm vi hẹp và mang tính sơ khai, một
số quy định còn chưa phù hợp với sự phát triển của thị trường tín dụng hiện đại.
Mặc dù vậy, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Pháp lệnh hợp đồng dân sự cũng đã đặt
nền móng quan trọng cho việc hình thành và phát triển của pháp luật về giao dịch
bảo đảm tại Việt Nam, tạo tiền đề cần thiết cho sự ra đời của pháp luật về đăng ký
giao dịch bảo đảm.
1.2.2.2. Giai đoạn Bộ luật Dân sự 1995 có hiệu lực
Với sự ra đời của BLDS 1995, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã
được quy định đầy đủ hơn, bao gồm các quy định chung về các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự và các quy định cụ thể về từng biện pháp như cầm cố, thế
chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, phạt vi phạm. Đây có thể xem là một bước
tiến mới của Bộ luật nước ta về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, việc để Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế có hiệu lực thi hành song song với BLDS đã làm cho tình trạng
cùng tồn tại các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong pháp luật dân sự và
pháp luật kinh tế vẫn tiếp tục được duy trì cho dù các quy định về vấn đề này trong
nhiều trường hợp thể hiện nhiều quan điểm và nội dung pháp lý không thống nhất.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, để thi hành các quy định của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





12
BLDS về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ tín dụng, Ngân hàng nhà nước
đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng về lĩnh vực này.
Như vậy, thay vì quy định thống nhất về giao dịch bảo đảm, pháp luật thời kỳ này
lại phân chia các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo từng lĩnh vực áp dụng,
đó là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong lĩnh vực dân sự, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong lĩnh vực tín dụng ngân
hàng. Thực tế cho thấy, sự thiếu nhất quán của pháp luật thời kỳ này về giao dịch
bảo đảm đã dẫn đến nhiều “hệ luỵ” về mặt pháp lý cũng như nhiều vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng.
Điểm nhấn đáng kể của pháp luật thời kỳ này là lần đầu tiên, thuật ngữ về
giao dịch bảo đảm được quy phạm hoá trong một văn bản pháp quy của Nhà nước,
đó chính là Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao
dịch bảo đảm. Theo quy định của Nghị định này, giao dịch bảo đảm được hiểu “là
hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với
bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”
(khoản 1 Điều 2). Từ quy định này cho thấy, giao dịch bảo đảm chính là một loại
hình giao dịch dân sự, có danh vị độc lập là hợp đồng về biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự chứ không phải thuần tuý là thoả thuận về biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế như quan niệm của
pháp luật thời kỳ trước đó. Với định nghĩa này, Nghị định số 165/1999/NĐ-CP đã
cho thấy tư duy pháp luật mới về giao dịch bảo đảm.
Tuy nhiên, dấu ấn mang tính đột phá của pháp luật thời kỳ này không phải ở
việc luật hoá khái niệm giao dịch bảo đảm, mà ở việc ban hành Nghị định số
08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm. Với việc ban hành
Nghị định số 08/2000/NĐ-CP, lần đầu tiên, giao dịch bảo đảm được coi là đối
tượng của hoạt động đăng ký với ý nghĩa công bố công khai lịch sử tồn tại của các
quyền (giao dịch) cũng như chủ thể quyền (giao dịch) đối với tài sản bảo đảm. Thực

tiễn đã minh chứng rằng, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP đã ngày càng cho thấy vai
trò quan trọng của nó trong việc mở rộng cơ hội tiếp cận tín dụng cho nền kinh tế
nước ta. Bởi lẽ, trong môi trường kinh doanh của nền tài chính hiện đại, giao dịch
bảo đảm được thiết lập trên cơ sở bên cho vay không cần trực tiếp nắm giữ tài sản,
nghĩa là, bên vay vẫn giữ tài sản đã được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




13
bên cho vay và tiếp tục sử dụng nó, phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh của
mình. Đặc điểm này của nền tài chính hiện đại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với nhà đầu tư, bởi lẽ, thương gia phải có hàng trong tay thì mới có thể giới thiệu,
tiếp thị hàng hoá; nhà thầu phải sử dụng thiết bị mới có thể thực hiện hợp đồng; và
một nhà nông phải có máy móc để gieo trồng và thu hoạch mùa màng.
Xét dưới phương diện lợi ích của bên thứ ba, “điểm yếu” của cơ chế cho vay
này là, trong nhiều trường hợp bên thứ ba có thể bị lừa đảo nếu không có cơ chế
minh bạch hoá thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm. Thực tế nêu trên
phản ánh nhu cầu thiết lập cơ chế công khai hoá thông tin về tài sản bảo đảm và xác
định thứ tự ưu tiên thanh toán theo thứ tự thời gian công khai hoá; bên cạnh việc
thừa nhận và bảo hộ việc dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ; và
cơ chế cho vay trên cơ sở bên vay vẫn nắm giữ và kiểm soát tài sản bảo đảm.
Từ thực tiễn trên, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP đã được ban hành trong vai
trò là giải pháp quan trọng cho vấn đề nêu trên, thông qua việc công nhận một cách
đầy đủ các quyền bảo đảm tồn tại từ trước đối với tài sản nếu được công khai hoá
dưới hình thức nộp đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan đăng ký;
cũng như quy định về quyền tiếp cận thông tin về tài sản bảo đảm nếu những thông
tin đó được công bố công khai thông qua thiết chế đăng ký theo Điều 24; và xác lập

thứ tự ưu tiên giữa các giao dịch bảo đảm bằng cùng một tài sản theo thứ tự đăng ký
giao dịch bảo đảm theo Điều 22.
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số điểm hạn chế, bất cập đang được nghiên
cứu, sửa đổi, nhưng theo đánh giá chung, với sự ra đời của Nghị định số
08/2000/NĐ-CP đã cho thấy một bước tiến dài của pháp luật nước ta trong lĩnh vực
đăng ký giao dịch bảo đảm. Thông qua việc thiết lập cơ chế đăng ký, Nghị định số
08/2000/NĐ-CP đã góp phần bảo vệ chủ thể quyền đã được công khai hoá, đồng thời
loại bỏ được những rủi ro pháp lý cho các giao dịch được thiết lập sau; từ đó, tạo lập,
duy trì và đảm bảo một “trật tự lợi ích” chung trong đời sống kinh tế - dân sự.
1.2.2.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực đến nay
BLDS 2005 đã đưa ra khái niệm bao quát hơn về giao dịch bảo đảm. Theo
khoản 1 Điều 323 BLDS 2005 thì, “Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các
bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm quy
định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này”; bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




14
sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo tính
công khai, minh bạch của các quan hệ về giao dịch bảo đảm, BLDS 2005 quy định
các giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký giao
dịch bảo đảm theo (Điều 323, Điều 325), và xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi
xử lý tài sản bảo đảm theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm (Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005). Bộ luật Dân sự.
Trước tiên, có thể dễ dàng nhận thấy, BLDS 2005 không chỉ ra những đặc
điểm chung, cơ bản nhất của các giao dịch bảo đảm mà chỉ liệt kê những biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều này hoàn toàn khác so với khái niệm giao

dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật nhiều nước. Tham khảo pháp luật một số
quốc gia trên thế giới cho thấy, khái niệm giao dịch bảo đảm được hiểu là toàn bộ
các giao dịch, không giới hạn và phụ thuộc vào hình thức và tên gọi của giao dịch,
có mục đích tạo lập một quyền lợi được bảo đảm đối với tài sản, bao gồm: hàng
hoá, giấy tờ (có giá) hoặc các tài sản vô hình khác. Chính vì vậy, bên cạnh các biện
pháp bảo đảm truyền thống như cầm cố, thế chấp, pháp luật về giao dịch bảo đảm
của các quốc gia này còn được áp dụng với các giao dịch khác có tính chất bảo đảm
cho việc thực hiện nghĩa vụ như thuê mua tài chính; gửi bán thương mại; chuyển
giao nợ, cho thuê tài sản dài hạn, bán có bảo lưu quyền sở hữu; mua trả chậm, trả
dần; chuyển nhượng quyền đòi nợ; quyền cầm giữ… Điều này cũng đồng nghĩa,
loại hình giao dịch bảo đảm với tư cách là đối tượng của hoạt động đăng ký theo
quy định của pháp luật các nước này không bị “bó hẹp” trong khái niệm giao dịch
bảo đảm.
Tuy nhiên, giao dịch bảo đảm trong BLDS 2005 đã bộc lộ một số điểm hạn chế,
bất cập trong môi trường tín dụng hiện đại. Bởi lẽ, công khai hoá những thông tin về
các giao dịch bảo đảm truyền thống như cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ vẫn
còn là chưa đủ để loại trừ rủi ro đối với nhà đầu tư; vẫn còn những người có quyền đối
với tài sản phát sinh trên cơ sở giao dịch hoặc theo quy định của pháp luật cần phải
được công khai hoá nhằm đảm bảo tính minh bạch về tình trạng pháp lý của tài sản như
cầm giữ tài sản, thuê mua tài chính, gửi bán thương mại… Điều này cho thấy, BLDS
2005 về giao dịch bảo đảm vô hình chung đã thu hẹp phạm vi đăng ký và yêu cầu cung
cấp thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




15
Chính vì vậy, để khắc phục những tồn tại trên Bộ Tư pháp đã ban hành

Thông tư số 04/2007/TT-BTP và Thông tư số 07/2007/TT-BTP quy định các lợi ích
được bảo đảm khác, đó là một số hợp đồng như hợp đồng mua trả chậm, trả dần có
bảo lưu quyền sở hữu của bên bán, hợp đồng cho thuê có thời hạn từ một năm trở
lên, hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ; và việc kê
biên tài sản thi hành án thuộc diện đăng ký (thông báo) và được biết đến dưới một
định chế chung là “đăng ký hợp đồng” hay “thông báo kê biên tài sản thi hành án”.
Tuy nhiên, nếu xét theo tiêu chí giao dịch bảo đảm theo quy định của BLDS 2005,
các hợp đồng này không phải là giao dịch bảo đảm và không thuộc diện phải đăng
ký giao dịch bảo đảm. Do đó, mặc dù quy định về đăng ký nhưng hợp đồng xuất
phát từ nhu cầu của thực tiễn, và nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn chế định này
dường như vượt ra ngoài phạm vi và sự hiệu chỉnh của BLDS 2005 - một Bộ luật
được xem là văn bản gốc về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm.
Theo quy định của BLDS 2005, tất cả các giao dịch dân sự do các bên thoả
thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm như cầm cố tài
sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp đều được “gọi”
dưới tên chung là giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, mục đích của việc đăng ký là
nhằm công khai hoá thông tin về giao dịch bảo đảm và xác định thứ tự ưu tiên thanh
toán khi xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp một tài sản được bảo đảm để thực
hiện cho nhiều nghĩa vụ theo thứ tự thời gian công khai hoá (đăng ký). Do đó, giao
dịch bảo đảm với tư cách là đối tượng của hoạt động đăng ký chỉ có thể các biện
pháp bảo đảm bằng một tài sản cụ thể (mang tính chất đối vật), không bao hàm bảo
lãnh, tín chấp (là biện pháp bảo đảm theo quy định của BLDS 2005) nhưng lại có
tính chất đối nhân. (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005). Bộ
luật Dân sự.
Mặc dù BLDS 2005 không trực tiếp giải quyết vấn đề này, nhưng xuất phát
từ nguyên lý của việc xử lý tài sản bảo đảm, phạm vi giao dịch bảo đảm thì không
có sự đồng nhất với phạm vi đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định
của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Điều này tiếp tục được khẳng định tại
Thông tư số 03/2007/TT-BTP ngày 17/5/2007 của Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một
số điều của Thông tư số 06/2006/TT-BTP ngày 28/9/2006 của Bộ Tư pháp hướng

dẫn một số vấn đề về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




×