Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

Hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ logistics của Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh Vân Minh Vân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 113 trang )

1
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn “Hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ
logistics của Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh
Vân Minh Vân” là công trình nghiên cứu độc lập, các tài liệu tham khảo, số liệu
thống kê phục vụ mục đích nghiên cứu trong công trình này được sử dụng đúng quy
định, không vi phạm quy chế bảo mật của nhà nước. Tác giả xin cam đoan những
vấn đề nêu trên là đúng sự thật. Nếu sai, tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước pháp luật.
Tác giả luận văn


2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài luận văn nghiên cứu với đề tài: “Hoàn thiện hoạt động
cung ứng dịch vụ logistics của Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và
thương mại Vinh Vân Minh Vân”, cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, em
xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Lục Thị Thu Hường đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp.
Đồng thời em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Sau đại học, các thầy cô
giáo phụ trách giảng dạy chuyên ngành Kinh doanh thương mại - Trường Đại học
Thương Mại, các đồng chí lãnh đạo và cán bộ của đơn vị, đã tận tình giúp đỡ, đóng
góp ý kiến quý báu và tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành đề tài luận văn này.
Tác giả luận văn

Trần Khánh Hồng


3
MỤC LỤC



4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT

TIẾNG ANH

TIẾNG VIỆT

-

Coload

Đổi hàng

B/L

Bill of lading

Vận đơn

CFS
CIF
Consol
CY
D/O
ECUS

Kho hàng lẻ
Tiền hàng, bảo hiểm, cước phí

Gom hàng lẻ
Bãi container
Lệnh giao hàng
Hải quan điện tử

FCL
FOB
H.B/L

Container Freight Station
Cost, Insurance, Freight
Consolidation
Container Yard
Delivery Order
Electronic Customs
Fédération Internationale des
Associations de Transitaires et
Assimilés
Full Container Load
Free On Board
House Bill of Lading

KCN

-

Khu công nghiệp

LCL


Less than Container Load

Hàng lẻ

M.O.B/L

VVMV

Master Ocean Bill of Lading
Vietnam Customs Intelligence
Information System
Vietnam Logistics Business
Association
Vietnam Automated Cargo And
Port Consolidated System
-

Vận đơn chủ
Hệ thống thông tin tình báo Hải
quan Việt nam
Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ
logistics Việt Nam
Hệ thống thông quan hàng hóa tự
động
Vinh Vân Minh Vân

WTO

World Trade Organization


Tổ chức Thương mại thế giới

FIATA

VCIS
VLA
VNACCS

DANH MỤC BẢNG

Liên đoàn các Hiệp hội Giao
nhận Vận tải Quốc tế
Hàng nguyên container
Giao hàng khi qua lan can tàu
Vận đơn thứ cấp


5


6
DANH MỤC HÌNH


7
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý thuyết và thực tế đã chỉ ra rằng logistics có vai trò thực sự quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội không chỉ riêng của bất cứ quốc gia nào mà là với toàn thế
giới. Chính bởi vì những lợi ích mà nó mang lại cả về tính hiệu năng và tính hiệu

quả trong các chuỗi cung ứng mà người ta chú ý nhiều hơn đến việc nâng cao hiệu
quả logistics. Logistics được nâng tầm thành một ngành, là chìa khóa cho việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, tổ chức hay quốc gia có chỉ số hoạt
động logistics (LPI) cao.
Cùng với sự phát triển của ngành dịch vụ logistics trên thế giới, ngành
logistics Việt Nam cũng đang trên đà hội nhập và có những bước phát triển mạnh
mẽ. Dịch vụ logistics thương mại nước ta bắt đầu từ những năm 1990 trên cơ sở
giao nhận vận tải, kho vận. Theo chỉ số LPI năm 2014, Việt Nam xếp thứ 48/160
nước được nghiên cứu và đứng thứ 4 trong các nước ASEAN (sau Singapore,
Malaysia và Thái Lan). Mặc dù các con số khá khiêm tốn nhưng không thể phủ
nhận tốc độ hội nhập vào ngành dịch vụ logistics của nước ta là khá cao. Mỗi năm
có hàng trăm tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics ra đời. Hầu hết các
công ty là vừa và nhỏ, tham gia cung ứng một hoặc một vài khâu riêng lẻ của toàn
bộ các hoạt động logistics, gồm: dịch vụ vận tải, kinh doanh cảng biển, ICD, ga
hàng hóa, kho bãi, đại lý tàu biển, đại lý hải quan và các dịch vụ logistics liên quan
khác liên quan (tư vấn, giao dịch hàng hóa, đào tạo và các giải pháp…). Có một số
ít các doanh nghiệp vươn lên đảm nhiệm được dịch vụ logistics tích hợp 3PL,
nhưng con số đó là không nhiều. Ở nước ta, hầu hết các công ty lớn trong ngành
đều là các công ty của nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics xuyên quốc gia và
đặt trụ sở tại Việt Nam. Các công ty này chiếm phần lớn thị phần của ngành
logistics Việt Nam, thị phần còn lại giành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nước. Điều này khiến cho mức độ cạnh tranh trong ngành ngày càng gay gắt. Doanh
nghiệp muốn có chỗ đứng vững chắc thì phải làm tốt, thậm chí rất tốt các mảng dịch
vụ của mình, cho dù nó chỉ là một hay một vài phân đoạn trong dây chuyền chuỗi
cung ứng của thế giới.
Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh Vân Minh
Vân (VVMV JSC) là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng các dịch
vụ logistics gồm giao nhận vận chuyển quốc tế cũng như trong nước, dịch vụ gom
hàng lẻ, đại lý Hải quan, tư vấn xuất nhập khẩu. Trong những năm qua, công ty đã



8
có những bước phát triển và có những đóng góp vào ngành dịch vụ logistics của
nước nhà. Lượng khách hàng của công ty cũng tăng lên qua các năm, nhưng cũng
không thể không kể đến việc nhiều khách hàng giảm số lượng thuê dịch vụ, thậm
chí từ bỏ để chuyển sang thuê ngoài các công ty khác. Ngoài nguyên nhân chủ quan
một phần là do năng lực cung ứng dịch vụ của công ty còn hạn chế, chưa đáp ứng
được các điều kiện của khách hàng, còn có nguyên nhân từ phía khách quan. Đó là
sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt đến từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước,
những yếu tố vĩ mô khác. Nhìn nhận được những hạn chế và khó khăn còn tồn tại
trong công ty, tác giả đã chọn đề tài là “ Hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ
logistics của Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh
Vân Minh Vân” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Logistics đã phát triển từ khá lâu trên thế giới, dần dần được chuyên môn hóa
để trở thành một ngành dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng trong giao thương toàn
cầu. Tuy nhiên, cho đến tận năm 2005, thuật ngữ “Logistics” mới được xuất hiện
chính thức trong Luật thương mại (sửa đổi), tức là muộn hơn rất nhiều so với tiến
trình phát triển của lĩnh vực này trên thế giới. Hiện nay, hoạt động logistics Việt
Nam được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, có thể kể đến một số sách và tài liệu tham
khảo phổ biến như sau:
“Logistics- Những vấn đề cơ bản”, Đoàn Thị Hồng Vân chủ biên, xuất bản
năm 2003, tái bản năm 2011 (NXB Lao động - xã hội). Trong cuốn sách này, các tác
giả tập trung vào giới thiệu những nét tổng quan về logistics cũng như về ngành
dịch vụ logistics như khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển, phân loại logistics,
kinh nghiệm phát triển logistics của một số quốc gia trên thế giới.
Đặng Đình Đào (2010), “Phát triển các dịch vụ logistics ở nước ta trong điều
kiện hội nhập quốc tế”, đề tài khoa học công nghệ độc lập cấp Nhà nước
ĐTĐL2010 T/33. Đề tài cô đọng nội dung của giáo trình Dịch vụ logisitics ở Việt

Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, khái quát thực tiễn của ngành logistics Việt
Nam trong bối cảnh xã hội, kinh tế hội nhập hiện tại. Đưa tới những xu hướng phát
triển và các quan điểm phát triển dịch vụ logistics ở nước ta.
An Thị Thanh Nhàn (2010),“Giải pháp thuê ngoài hoạt động Logistics tại các
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu cấp Trường, Trường Đại Học
Thương Mại. Đề tài hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về hoạt động thuê ngoài


9
Logistics. Khảo sát đánh giá thực trạng về hoạt động thuê ngoài logistics tại các
doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng chủ lực và các nhân tố ảnh hưởng đến nỗ lực
này. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cơ bản về hoạt động thuê ngoài
logistics nhằm hỗ trợ tối ưu cho hoạt động xuất nhập khẩu của các Doanh nghiệp
Việt Nam.
Lê Đình Minh (2012), “Phát triển dịch vụ logistics tại công ty cổ phần vận tải
– công nghiệp tàu thủy Bình Định”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng.
Luận văn đã tóm lược các nội dung lý thuyết cơ bản về logistics, hoạt động cung
ứng dịch vụ logistics. Phân tích và đánh giá thực trạng tại doanh nghiệp đang cung
ứng dịch vụ logistics, chủ yếu là dịch vụ giao nhận vân tải đường biển, nhìn nhận
được những điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ và thách thức của doanh nghiệp, từ đó
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các dịch vụ để đáp ứng khách hàng tốt hơn
đồng thời mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.
Đinh Lê Hải Hà (2012) “Phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay”, luận án tiến
sĩ kinh tế, Đại học Thương mại. Luận án tập trung nghiên cứu logistics ở góc độ vĩ
mô. Luận án đã hệ thống lý luận về logistics hiện đại theo quan điểm tiếp cận toàn
diện, tạo dựng cơ sở lý thuyết xác lập nội dung nghiên cứu và phát triển logistic
theo quan điểm hiện đại ở Việt Nam. Luận án đã phân tích và đánh giá khá đầy đủ,
toàn diện thực trạng phát triển của hệ thống logistics trong nền kinh tế Việt Nam
hiện nay ở các khía cạnh: trình độ phát triển về lý thuyết nghiên cứu và ứng dụng
logistics của nền kinh tế, thực trạng hệ thống cung ứng dịch vụ logistics của nền

kinh tế, thực trạng nhu cầu thị trường về dịch vụ logistics, thực trạng kết cấu hạ tầng
logistics, thực trạng môi trường cạnh tranh và cơ chế, chính sách, luật pháp cho phát
triển dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Tài liệu tham khảo nước ngoài
Viện nghiên cứu Nomura (Nhật Bản) (2002) ““Vietnam logistics development,
trade facilitation and the impact on poverty reduction” (Phát triển logistics Việt
Nam, tạo thuận lợi cho thương mại và tác động đến giảm nghèo), công trình nghiên
cứu này phân tích thực trạng phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam, chủ yếu tập
trung vào khía cạnh dịch vụ logistics và chi phí cho dịch vụ logistics của sản xuất và
xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Davil L. Cahill (2006), “Customer Loyalty in Third Party Logistics
Relationship: Finding from Studies in Germany anh the USA”, Nxb Physica –
Verlag HD- A Springger Company. Thị trường và xu hướng toàn cầu hóa, các hiệp


10
định giữa các nước trong khu vực ngày càng mở rộng, việc giao thương xuất nhập
khẩu hàng hóa ngày càng tăng cao dẫn tới thành công các công ty cung cấp dịch vụ
logistics 3PLs ngày càng quan tâm hơn nhu cầu khách hàng. Bên cạnh đó, tác phẩm
phân tích các nhân tố ảnh hưởng liên quan tới mô hình về lòng trung thành của
khách hàng và đưa ra kết luận ảnh hưởng yếu tố khác như: Văn hóa, trình độ ứng
dụng khoa học công nghệ, văn hóa doanh nghiệp ảnh hưởng lớn lòng trung thành
khách hàng và lựa chọn dịch vụ.
Martin Chiristopher (2008), “Logistics, Supply Chain Management”, Giáo
trình đưa ra một khung lý thuyết cơ bản về toàn bộ chuỗi cung ứng, hoạt động quản
trị logistics và vận tải, tầm quan trọng của việc phát triển hiệu quả và quản lý mạng
lưới dây chuyền cung ứng sẽ giảm tối đa chi phí và nâng cao giá trị chất lượng dịch
vụ cho khách hàng. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cách tiếp cận mới, quan
điểm mới của quốc tế về tổng quan ngành dịch vụ logistics.
Sullivan (2006), “Vietnam transportation and logistics: opportunities and

challenges” (Giao thông vận tải và logistics Việt Nam: cơ hội và thách thức), đánh
giá khái quát về thực trạng, cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực vận tải và dịch vụ
logistics ở Việt Nam. Nghiên cứu tập trung vào phân tích các cơ hội và thách thức
của Việt Nam đối với các phương thức vận tải hàng hóa như đường bộ, đường sắt,
đường không, đường biển.
3. Phương pháp phân tích dữ liệu
- Phương pháp thống kê: Là phương pháp được sử dụng rộng rãi khi cần xử lí
các dữ liệu qua các thời kì để có được những nhận định về tình hình của công ty.
Tác giả tiến hành lựa chọn và thống kê theo các tiêu chí đánh giá nhằm phục vụ quá
trình nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp so sánh: Thông qua các số liệu thống kê về thực trạng cung cấp
dịch vụ logistics của công ty, tác giả tiến hành so sánh các chỉ tiêu theo thông số
tuyệt đối và thông số tương đối.
- Phương pháp phân tích định tính: Việc phân tích dữ liệu định tính được dựa
trên các thông tin sơ cấp, thứ cấp và quan sát thực tế tại doanh nghiệp nhằm tìm tòi
một cách chính xác, cẩn thận vấn đề đặt ra. Trong luận văn này, những phần được
sử dụng phương pháp định tính như phân tích những thành công, tồn tại có ở công
ty liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ logistics.
- Phương pháp phân tích định lượng: Việc phân tích dữ liệu theo phương pháp
định lượng được dựa trên các thông tin sơ cấp, thứ cấp và quan sát thực tế tại doanh


11
nghiệp. Trong luận văn này, phương pháp định lượng được sử dụng trong các phần
như: Tình hình cung ứng dịch vụ logistics của công ty, tình hình hoạt động kinh
doanh chung của công ty…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình và hoạt động cung cấp dịch vụ
logistics của công ty VVMV JSC và các công ty cung ứng dịch vụ cho VVMV JSC

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Dữ liệu nghiên cứu thực trạng được lấy trong khoảng thời gian
từ năm 2014 đến hết năm 2016 và giải pháp hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ
logistics của công ty VVMV JSC trong tương lại 2017-2020
Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng quá trình và hoạt động cung cấp
dịch vụ logistics của công ty VVMV JSC. Hoạt động cung cấp dịch vụ logistic của
công ty được thực hiện trên địa bàn khắp cả nước, do công ty có trụ sở ở Thành phố
Hồ Chí Minh và chi nhánh Miền Bắc tại Hà Nội. Tuy nhiên, do giới hạn về thời
gian nghiên cứu, khả năng nghiên cứu nên luận văn chủ yếu tập trung về hoạt động
cung cấp dịch vụ logistics của công ty trên địa bàn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
tức là ở chi nhánh Hà Nội.
Về nội dung:
Đề tài nghiên cứu hoạt động cung cấp các dịch vụ logistics tại công ty VVMV
JSC cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh khác, tìm ra các điểm mạnh cần
phát huy và những điểm còn hạn chế cần khắc phục nhằm nâng cao chất lượng phục
vụ, tạo niềm tin và sự hài lòng của khách hàng, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh
nói chung và năng lực cung ứng dịch vụ nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu sơ cấp
Để có được thông tin đầy đủ cho mục đích nghiên cứu, tác giả sử dụng
phương pháp phỏng vấn kết hợp điều tra.
Đối tượng được phỏng vấn là các cán bộ quản lý và nhân viên làm việc tại các
bộ phận của công ty. Tác giả sẽ tiến hành phỏng vấn khoảng 2 người bao gồm Phó
giám đốc chi nhánh Hà Nội, Trưởng bộ phận điều vận. Nội dung phỏng vấn bao
gồm định hướng phát triển của công ty, thực trạng chất lượng các dịch vụ đang cung
cấp, các khó khăn gặp phải và hướng giải quyết.
Tác giả cũng kết hợp điều tra đánh giá của khách hàng về mức độ ảnh hưởng


12

của các nhân tố tới chất lượng dịch vụ, vai trò của việc cần hoàn thiện quá trình
cung cấp dịch vụ và những mong muốn của khách hàng.
5.2. Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp
Kết hợp với các phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp để đánh giá chính xác
hơn vấn đề, tác giả đã tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp từ nhiều nguồn khác nhau.
- Các giáo trình, luận văn, luận án có liên quan đến đề tài luận văn để hệ thống
và tham khảo xây dựng khung lý thuyết cho đề tài nghiên cứu của luận văn.
- Kế thừa, sử dụng các thông tin và kết quả nghiên cứu từ các công trình
nghiên cứu khoa học, các thông tin liên quan đến đề tài trên sách báo, tạp chí
chuyên ngành như Tạp chí Việt Nam Logistics Review, các trang web có liên quan
như www.vietnamshipper.com, www.vinamaso.net
- Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty từ năm 2014-2016 từ
phòng kế toán.
- Các báo cáo, số liệu liên quan đến thực trạng các dịch vụ đang được cung
cấp của công ty từ năm 2014-2016
6. Kết cấu dự kiến của đề tài
Ngoài mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục bảng biểu, hình vẽ, lời mở
đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung chính của luận
văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cung ứng dịch vụ
logistics của các công ty logistics
Chương 2: Thực trạng hoạt động cung ứng dịch vụ logistics tại Công ty Cổ
phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh Vân Minh Vân
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ logistics tại
Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh Vân Minh Vân


13
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
CUNG ỨNG DỊCH VỤ LOGISTICS CỦA CÁC CÔNG TY LOGISTICS

1.1. Tổng quan về dịch vụ logistics
1.1.1. Khái niệm logistics và dịch vụ logistics
Logistics là một thuật ngữ có nguồn gốc từ Hi Lạp – logistikos- xuất hiện lần
đầu không phải trong lĩnh vực thương mại mà trong lĩnh vực quân sự. Trải qua dòng
chảy lịch sử, logistics phát triển nhanh chóng, trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới, trở thành một ngành dịch vụ chiếm vai trò không
thiếu trong sự vận động của giao thương quốc tế. Được nghiên cứu và áp dụng sang
lĩnh vực kinh doanh, dưới góc độ doanh nghiệp, thuật ngữ “Logistics” thường được
hiểu là hoạt động quản lý chuỗi cung ứng hay quản lý hệ thống phân phối vật chất
của doanh nghiệp. Hiện nay có khá nhiều khái niệm về logistics như sau:
Theo Hội đồng quản trị logistics của Mỹ “Logistics là một phần của quá trình
chuỗi cung ứng, thực hiện hoạch định, thực hiện và kiểm soát dòng lưu chuyển, tồn
trữ hàng hóa, dịch vụ và thông tin có liên quan một cách hiệu quả, hiệu năng từ
điểm đầu đến điểm tiêu thụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng”.
Theo Đoàn Thị Hồng Vân (2011) “Logistics là tối ưu hóa về địa điểm và thời
điểm, tối ưu hóa việc lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu vào cho đến tay
người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với
chi phí thích hợp, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”.
Như vậy, dù có sự khác nhau về từ ngữ diễn đạt và cách trình bày, nhưng
trong nội dung tất cả các tác giả đều cho rằng “Logistics chính là hoạt động quản lý
dòng lưu chuyển của nguyên vật liệu từ khâu mua sắm qua quá trình lưu kho, sản
xuất ra sản phẩm và phân phối tới tay người tiêu dùng. Mục đích giảm tối đa chi
phí phát sinh hoặc sẽ phát sinh, với thời gian ngắn nhất trong quá trình vận động
của nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng như phân phối hàng hoá một cách kịp
thời”. Tuy nhiên ở đây không chỉ có sự vận động của “nguyên vật liệu, hàng hoá”
mà cần phải bao gồm thêm cả dòng luân chuyển “dịch vụ, thông tin”. Logistics
không chỉ hạn chế trong sản xuất mà nó còn liên quan đến mọi tổ chức bao gồm
chính phủ, bệnh viện, ngân hàng, người bán lẻ, người bán buôn…
Dịch vụ logistics
Nếu như hoạt động logistics là một chức năng hỗ trợ trong doanh nghiệp sản

xuất kinh doanh thì dịch vụ logistics được hiểu là một loại sản phẩm dịch vụ do nhà


14
cung cấp là các doanh nghiệp logistics bán cho khách hàng và thu phí dịch vụ
logistics. Khách hàng ở đây là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp
xuất nhập khẩu hoặc các cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics.
Theo Luật Thương mại Việt Nam thì “Dịch vụ logistics là hoạt động thương
mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm
nhận tư vấn khách hàng, đóng góp bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch
vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thoản thuận với khách hàng để hưởng thù
lao” (mục 4, điều 233, Luật Thương mại 2005)
Khái niệm dịch vụ logistics được chia thành hai nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật thương
mại 2005, coi logistics gần tương tự với giao nhận hàng hóa. Tuy nhiên trong đó có
tính mở, thể hiện trong đoạn “hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa”.
Theo nhóm này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho
quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Theo đó, dịch vụ
logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics không có
nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức (MTO).
Thứ hai, nhóm định nghĩa dịch vụ logistics theo phạm vi rộng, có tác động từ
giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo
nhóm định nghĩa này, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật
liệu làm đầu tư cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đưa vào các kênh lưu
thông, phân phối để tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này kể về
dịch vụ logistics góp phần phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ
đơn lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ
sản xuất, tư vấn quản lý…với một nhà cung cấp dịch vụ logistic chuyên nghiệp,
người sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa tới
tay người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên

nghiệp đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ “trọn
gói” cho các khách hàng.
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ logistics
Dịch vụ logistics mặc dù là 1 loại dịch vụ đặc thù, nhưng nó vẫn mang đầy đủ
các đặc điểm của dịch vụ nói chung, bao gồm:
+ Tính vô hình: Cũng như các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ logistics mang
tính chất vô hình. Logistics thực hiện các công việc chu chuyển và lưu kho hàng
hóa, cùng các dịch vụ và thông tin có liên quan từ địa điểm xuất phát đến nơi tiêu


15
dùng, do vậy nó không phải là một sản phẩm vật chất hay một cái gì đó hiện hữu,
khách hàng không thể cầm nắm, không thể hình dung trước được Logistics là sản
phẩm như thế nào mà phải chờ đợi kết quả của quá trình vận chuyển, lưu kho…
Sau khi khách hàng sử dụng dịch vụ, họ sẽ có thể cảm nhận và đánh giá được chất
lượng của dịch vụ thông qua các tiêu thức như: thời gian giao nhận, độ an toàn của
hàng hóa, tính chính xác và nhanh chóng của việc hoàn thành các thủ tục, chứng
từ, mức độ hỗ trợ khách hàng…
Tính không hiện hữu của dịch vụ logistics gây ra tâm lý bất an cho khách
hàng, vì vậy công ty cung cấp dịch vụ cần có những biện pháp cụ thể để xóa bỏ điều
này, làm cho khách hàng tin tưởng hoàn toàn vào dịch vụ mà công ty đã cung cấp.
+Tính không tách rời: Đặc tính này thể hiện ở quá trình sản xuất và tiêu thụ
dịch vụ logistics diễn ra đồng thời. Ví dụ khách hàng sử dụng dịch vụ của công ty
logistics, thuê công ty này vận chuyển hàng hóa từ kho của công ty đến cảng biển,
thì lúc đó công ty logistics đang cung cấp dịch vụ và khách hàng đồng thời sử dụng
dịch vụ. Sự diễn ra đồng thời này mặc dù có những ưu điểm nhất định nhưng mang
đến không ít khó khăn cho cả 2 bên, khó dự đoán những rủi ro có thể xảy ra đồng
thời tính toán kĩ lưỡng về thời gian cũng như tính chính xác khi cung cấp dịch vụ.
+Tính không dự trữ được: Do tính chất vô hình và không thể tách rời giữa quá
trình cung cấp và sản xuất dẫn tới dịch vụ logistics không thể dự trữ mà chỉ được

sản xuất và cung ứng khi có nhu cầu của khách hàng. Chính điều này tạo nên sự mất
cân đối cung - cầu về dịch vụ trong những thời điểm khác nhau. Thông thường vào
những tháng cuối năm và đầu năm, cầu về dịch vụ logistics tăng rất cao, trong khi
những tháng giữa năm cầu lại ở mức thấp và trung bình, dẫn tới xảy ra tình trạng
bên cung ứng lúc thì khan hiếm khách hàng, lúc lại bị quá tải, không đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng. Điều này gây lãng phí một nguồn lực lớn cũng như ảnh
hưởng đến chuỗi cung ứng của các bên tham gia. Để hạn chế được điều này đòi hỏi
phải có sự phối hợp chặt chẽ của cả bên thuê dịch vụ và cung cấp dịch vụ, thông tin
trao đổi thường xuyên, kiểm soát chặt chẽ tình trạng dư cầu vào thời điểm chính vụ
là những tháng cuối năm khi nhu cầu giao nhận, vận chuyển hàng hóa xuất nhập
khẩu tăng mạnh.
+ Tính không đồng đều về chất lượng: Chất lượng dịch vụ logistics rất khó để
tiêu chuẩn hóa được bởi bản thân dịch vụ logistics phụ thuộc vào yếu tố như: yếu
tố máy móc, thiết bị, điều kiện môi trường do không gian cung ứng có tính phân
tán, ngoài ra chất lượng dịch vụ logistics còn phụ thuộc vào trình độ quản trị kinh


16
doanh, khả năng kiểm soát quá trình cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp, sự đánh
giá của khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Tức là mỗi lần cung cấp dịch vụ lại có
những yếu tố khác nhau tác động đến cách thức cung cấp. Thêm nữa, tùy theo từng
loại dịch vụ mà khách hàng yêu cầu, tùy theo tính chất hàng hóa, thời gian mà
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ sẽ quyết định cách thức phục cho phù hợp. Do bản
thân dịch vụ logistics phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vậy cho nên chất lượng dịch
vụ logistics sẽ dễ dàng bị biến đổi khi ít nhất một trong các yếu tố đó có sự thay đổi.
Ngoài những đặc điểm chung thì dịch vụ logistics còn có một số đặc điểm
riêng như sau:
+ Tính tích hợp cao: Tính tích hợp là khả năng phối hợp các hoạt động lại với
nhau, tạo ra môt hệ thống thống nhất có khả năng hỗ trợ, tương tác lẫn nhau. Từ đó
đạt được hiệu quả cao hơn so với hoạt động riêng lẻ. Hiện nay khi nền sản xuất kinh

doanh và thương mại hiện đại có tính tích hợp ngày càng cao thì với vai trò là hoạt
động hỗ trợ cho hoạt động thương mại, dịch vụ logistics cũng phải mang trong mình
đặc tính này để có thể phát triển và đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
+Mạng lưới phân phối rộng: Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động thương mại đang
trong xu hướng toàn cầu hóa vì vậy thị trường kinh doanh mở rộng và phát triển mạnh
mẽ dẫn tới việc đòi hỏi các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics phải có mạng lưới
cung ứng đa dạng ở nhiều vị trí, nhiều phạm vi ở các quốc gia và các vùng lãnh thổ để có
thể đáp ứng yêu cầu mua bán trong nước và quốc tế như hiện nay.
+ Hiệu quả dịch vụ logistics bị ảnh hưởng bởi trình độ công nghệ và quản lý:
So với các dịch vụ khác thì việc ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật vào trong
quá trình kinh doanh và cung ứng dịch vụ logistics là rất quan trọng. Bản thân hoạt
động logistics luôn đòi hỏi phải hoạt động dựa trên các phần mềm công nghệ thông
tin, kỹ thuật để có thể kết nối thông tin giữa những khu vực trên thế giới từ đó có
thể hạn chế một số khó khăn về khoảng cách địa lý, cũng như để điều hành một
khối lượng rất lớn công việc đòi hỏi cần phải xử lý trong khoảng thời gian ngắn.
1.1.3. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp logistics
a) Khái niệm Doanh nghiệp logistics
Căn cứ Luật thương mại 2005 tại Điều 233 và 234 và một số điều khoản của
Nghị định 140/2007/NĐ-CP ngày 05/05/2007 về điều kiện kinh doanh đối với
thương nhân kinh doanh các loại dịch vụ logistics. Tác giả xin được rút ra khái niệm
về doanh nghiệp logistics như sau: Các doanh nghiệp logistics (LP’s - Logistics
Providers) là các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và có đủ điều kiện kinh


17
doanh dịch vụ logistics theo quy định của pháp luật. Họ là những tổ chức có khả
năng cung ứng các dịch vụ logistics đơn lẻ hoặc tích hợp các dịch vụ đơn lẻ thành
các gói dịch vụ logistics khác nhau để đáp ứng nhu cầu của khách hàng là các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và thương mại trong nước và ngoài nước”.
b) Vai trò của doanh nghiệp logistics

- Với nền kinh tế
+ Là công cụ liên kết các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu: Nếu như
không có sự ra đời của các công ty logistics thì các khâu trong chuỗi logistics như
cung cấp, sản xuất, lưu thông phân phối, mở rộng thị trường cho các hoạt động kinh
tế khó có thể liên kết và phối hợp nhịp nhàng, trơn tru với nhau. Thị trường toàn cầu
phát triển với các tiến bộ công nghệ, đặc biệt là việc mở cửa thị trường ở các nước
đang và chậm phát triển là việc rất quan trọng. Các công ty cung cấp dịch vụ
logistics là những cánh tay nối dài giúp cho những doanh nghiệp này gia nhập tốt
hơn vào thị trường thương mại quốc tế.
+ Giảm chi phí logistics: Sự xuất hiện của các doanh nghiệp logistics đã tạo
nên được sự chuyên môn hóa cho hoạt động chuyên môn của mình một cách hiệu
quả nhất. Điều này dẫn tới sự thống nhất hoạt động của chuỗi cung ứng, từ đó giảm
được sự ách tắc, chồng chéo trong chuỗi. Điều đó giúp giảm được các chi phí phân
phối, vận động vật chất trong chuỗi.
+ Cải thiện năng suất logistics, đóng góp lớn vào GDP: Đây là một thành tố
quan trọng đóng góp vào GDP. Các doanh nghiệp logistics khi hoạt động hiệu quả
sẽ nâng cao năng suất lao động của một quốc gia thông qua tăng năng suất lao động
của từng doanh nghiệp khách hàng mà họ cung ứng dịch vụ, có động thái tích cực
đến giá cả trả cho hàng hóa và dịch vụ, đến cân bằng cán cân thanh toán của quốc
gia, giá trị đồng tiền và khả năng cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường toàn cầu, lợi
nhuận của ngành Công nghiệp (năng suất lao động cao, có nghĩa là chi phí thấp cho
hoạt động sản xuất và phân phối số sản phẩm tương đương số đã sản xuất ra).
+ Dịch vụ logistics phát triển góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn
hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế: Logistics đã cung cấp các dịch vụ đa dạng
trọn gói đã có tác dụng giảm rất nhiều các chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong buôn
bán quốc tế. Dịch vụ vận tải đa phương thức do người kinh doanh dịch vụ logistics
cung cấp đã loại bỏ đi rất nhiều chi phí cho giấy tờ thủ tục, nâng cấp và chuẩn hóa
chứng từ cũng như giảm khối lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hóa,



18
từ đó nâng cao hiệu quả buôn bán quốc tế.
Ngoài ra, cùng với việc phát triển logistics điện tử (electronic logistics) sẽ tạo
ra cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng từ
trong lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ
logistics ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian và
thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa.
- Với khách hàng sử dụng dịch vụ
+Thúc đẩy tính liên kết, phối hợp trong các chuỗi cung ứng quốc tế. Nhờ sự
hỗ trợ của các doanh nghiệp logistics mà các doanh nghiệp bên trong chuỗi cung
ứng có thể biết thêm được nhiều đối tác hơn thông qua danh sách khách hàng mà
các doanh nghiệp logistics biết hoặc đã phục vụ. Có thể thấy rằng các doanh nghiệp
logistics chính là chất keo dính để kết nối tất cả các tổ chức trong chuỗi logistics lại
với nhau, từ đó làm cho chuỗi trở nên thống nhất trong hoạt động.
+ Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho quá trình di chuyển và vận động của các
dòng hàng hóa trong và ngoài nước. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và
mở rộng thị trường trong và ngoài cho sản phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ của dịch
vụ logistics. Dịch vụ logistics có tác dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch
hàng hóa trên các tuyến đường đến địa điểm được yêu cầu đúng yêu cầu về thời gian
và địa điểm đặt ra. Theo nghiên cứu Viện Nomura (Nhật Bản) chỉ riêng hoạt động
logistics đã chiếm 15% GDP của mỗi nước. Do đó nâng cao hoạt động hiệu quả
logistics hỗ trợ các doanh nghiệp trong nền kinh tế diễn ra nhịp nhàng, đồng bộ một khi
dây chuyền hoạt động logistics hoạt động liên tục, nhịp nhàng.
+ Tăng cường tính chuyên môn hóa cho các chuỗi cung ứng. Nếu không có
bên thứ ba là các doanh nghiệp logistics thì bên bán và bên mua trong hoạt động
thương mại sẽ phải tự làm các những hoạt động logistics để hoàn thành quá trình
sản xuất kinh doanh dẫn tới sự tăng lên về chi phí và thời gian hoạt động. Đặc biệt
là trong điều kiện kinh doanh phát triển như hiện nay khi khối lượng đơn hàng tăng
lên, giá trị hàng hóa lớn và đòi hỏi khoảng thời gian thực hiện giao dịch nhanh
chóng thì chức năng của hoạt động logistics trong quá trình kinh doanh càng trở nên

quan trọng hơn. Vì vậy, sự xuất hiện của các doanh nghiệp logistics sẽ giúp cho các
doanh nghiệp bên trong chuỗi cung ứng có thể tiết kiệm thời gian, giảm chi phí thực
hiện hoạt động logistics và các bên có thể tập trung vào chuyên môn của mình để
tăng năng suất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường mục tiêu.


19
+ Góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế: Sản xuất có mục đích
là phục vụ tiêu dùng, cho nên trong sản xuất kinh doanh, vấn đề thị trường luôn là
vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và kinh doanh quan tâm. Dịch vụ
logistics có tác dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hóa trên các
tuyến đường mới đến các thị trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt
ra. Dịch vụ logistics phát triển có tác dụng rất lớn trong việc khai thác và mở rộng
thị trường kinh doanh cho các doanh nghiệp ở cả thị trường trong nước và quốc tế
1.1.4. Phân loại doanh nghiệp logistics
a) Theo mức độ sở hữu tài sản
Doanh nghiệp có tài sản và cơ sở vật chất logistics. Đây được hiểu là những
doanh nghiệp có tài sản và cơ sở vật chất để trực tiếp cung cấp được dịch vụ giao
nhận vận tải, kho bãi, khai thuê hải quan như kho, bãi, các loại xe tải, container, xe
nâng hạ hay tàu biển, các thiết bị làm hàng, máy móc…
Doanh nghiệp không có tài sản, vật chất logistics. Là các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ logistics nhưng không có tài sản và cơ sở vật chất trực tiếp để phục vụ
các hoạt động đó. Các doanh nghiệp này có thể cung cấp các dịch vụ tài chính, dịch
vụ quản lý, dịch vụ khai thuê hải quan, tư vấn hải quan…
b) Theo loại hình dịch vụ cung ứng
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận tải. Hoạt động vận tải là tiền để để phát
triển hoạt động logistics, là dịch vụ cốt lõi của chuỗi logistics toàn cầu. Vận tải có
vai trò rất quan trọng, không thể thiếu với các hàng hóa hữu hình, bởi chỉ có nhờ
vận tải thì hàng hóa mới được chuyển từ người gửi hàng tới người nhận hàng. Các
công ty cung cấp dịch vụ này có phương tiện vận tải (xe tải, xe container, xe cẩu, xe

nâng, tàu biển các loại…) và chủ động trong việc sử dụng phương tiện của mình để
cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Với các doanh nghiệp dịch vụ đơn thuần thì họ sẽ
nhận đơn đặt hàng của khách thụ động và giao hàng đến nơi quy định. Một số
doanh nghiệp vận tải có chuyên môn logistics hơn sẽ được kết nối với hệ thống
quản lý kho của doanh nghiệp, nắm được kế hoạch sản xuất và phân phối của doanh
nghiệp để chủ động lên kế hoạch vận tải, cung cấp cũng như giao hàng cho doanh
nghiệp một cách hiệu quả nhất.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kho bãi. Các doanh nghiệp này có hệ thống
kho, bãi cho thuê để chứa hàng hóa, bảo quản hàng hóa. Có nhiều loại kho bãi khác
nhau với nhiều mục đích, phù hợp với từng loại hàng hóa. Quy mô của kho cũng
khá đa dạng, kho cỡ nhỏ từ 200-1000m2, kho cỡ trung bình có diện tích từ 100-


20
5000m2 cho đến quy mô cỡ lớn là trên 5000m2. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
thuê kho bãi ra đời dựa trên nhu cầu của các chủ hàng và người gom hàng, thường
thì kho sẽ là nơi lưu trữ hàng hóa tạm thời trước khi hàng được đưa về nhà máy của
chủ hàng hoặc tập kết trước khi đưa lên tàu. Dịch vụ này ra đời mang lại lợi ích rất
lớn cho tất cả các bên, về mặt kinh tế, thời gian và đảm bảo chất lượng hàng hóa.
Doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ tích hợp. Là những doanh nghiệp đồng
thời cung ứng nhiều dịch vụ trong chuỗi các hoạt động logistics, có thể là kết hợp
giao nhận vận tải với kho bãi, hay kèm theo cả dịch vụ hải quan, quản trị dây
chuyền chuỗi cung ứng và những dịch vụ không trực tiếp liên quan tới dòng hàng
hóa như dịch vụ quản lý, dịch vụ tài chính… Các doanh nghiệp này có tính chuyên
môn hóa cao, mức độ hoạt động hiệu quả, khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng đa
dạng với quy mô lớn nên có thể cung cấp cùng một dịch vụ với chi phí thấp hơn rất
nhiều so với khách hàng tự làm, tăng đáng kể tốc độ lưu thông hàng hóa, đạt được
tính hiệu quả và hiệu năng trong chuỗi cung ứng của mình.
c) Theo vị trí tham gia
Doanh nghiệp logistics tự cung tự cấp hay còn gọi là 1PL . Người chủ sở hữu

hàng hóa tự tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics của mình. Họ phải đầu tư
vào các phương tiện vận tải, nhà xưởng, thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực khác bao
gồm cả con người để thực hiện các hoạt động logistics riêng. Các công ty này sẽ
làm phình to quy mô của doanh nghiệp và làm giảm hiệu quả kinh doanh.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics bên thứ hai (2PL). Đây là các công
ty cung cấp các dịch vụ logistics đơn lẻ trong chuỗi hoạt động logistics nhằm đáp
ứng nhu cầu của chủ hàng. Các công ty này ra đời do nhu cầu thuê ngoài của các
khách hàng, là các tổ chức hay cá nhân cần thực hiện hoạt động logistics nhưng
không sở hữu hay có đủ phương tiện cũng như cơ sở hạ tầng. Lý do của phương
thức này là để giảm chi phí hoặc cắt giảm vốn đầu tư ban đầu. Các 2PL cung cấp
các dịch vụ truyền thống như vận tải, kho vận, thủ tục hải quan, thanh toán.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL) hay logistics theo hợp
đồng. Các 3PL được hiểu là các công ty logistics, thay mặt cho khách hàng của mình
thực hiện các hoạt động logistics dựa trên hợp đồng đã được thỏa thuận giữa 2 bên.
Theo đó các công ty 3PL sẽ thực hiện các công việc như kê khai hải quan và thông
quan hàng hóa, cung cấp các chứng từ giao nhận vận tải, xếp hàng, bốc dỡ hàng và vận
chuyển đến nơi được yêu cầu. 3PL bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt
chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hoá, xử lý thông tin ,... có tính tích hợp vào dây


21
chuyền cung ứng của khách hàng. Sử dụng 3PL là việc thuê các công ty bên ngoài
để thực hiện các hoạt động logistics, có thể là toàn bộ quá trình quản lý logistics
hoặc chỉ là một số hoạt động có chọn lọc tùy theo mục đích và chi phí của bên thuê.
Đây được coi như một liên minh chặt chẽ giữa một công ty và nhà cung cấp dịch vụ
Logistics, nó không chỉ nhằm thực hiện các hoạt động Logistics mà còn chia sẻ thông
tin, rủi ro và các lợi ích theo hợp đồng.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bên thứ tư (4PL) hay Logistics chuỗi phân
phối. 4PL là một khái niệm phát triển trên nền tảng của 3PL nhằm tạo ra sự đáp ứng
dịch vụ, hướng về khách hàng và linh hoạt hơn. 4PL quản lý và thực hiện các hoạt

động Logistics phức hợp như quản lý nguồn lực, trung tâm điều phối kiểm soát và
các chức năng kiến trúc và tích hợp các hoạt động Logistics. 4PL bao gồm lĩnh vực
rộng hơn gồm cả các hoạt động của 3PL, các dịch vụ công nghệ thông tin, và quản
lý các tiến trình kinh doanh. 4PL được xem là một điểm liên lạc duy nhất, nơi thực
hiện việc quản lý, tổng hợp các nguồn lực và giám sát các chức năng 4PL trong suốt
chuỗi phân phối nhằm vươn tới thị trường toàn cầu, lợi thế chiến lược và các mối
quan hệ lâu bền.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bên thứ năm (5PL). 5PL là dịch vụ logistic
phổ biến và phát triển nhất hiện nay dành cho Thương mại điện tử. 5PL quản lý và
điều phối hoạt động của các 3PL, 4PL thông qua các giải pháp thông tin liên quan
đến cung và cầu trên thị trường dịch vụ giao hàng thương mại điện tử. Điểm đặc
trưng của 5PL là các hệ thống (Hệ thống quản lý đơn hàng (OMS), Hệ thống quản
lý kho hàng (WMS) và Hệ thống quản lý vận tải (TMS). Cả ba hệ thống này có liên
quan chặt chẽ với nhau trong một hệ thống thống nhất và công nghệ thông tin. 5PL
là giải pháp dành cho các cửa hàng, doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ có thể tích hợp dễ dàng
hệ thống quản lý/ ứng dụng của 5PL khi vận hành hệ thống chuyên nghiệp.
1.2. Hoạt động cung ứng dịch vụ logistics của doanh nghiệp logistics
1.2.1. Quy trình cung ứng dịch vụ logistics
Vậy doanh nghiệp sẽ cung ứng cái gì và cung ứng như thế nào? Cung ứng cái
gì tức là doanh nghiệp đang mang tới chất lượng kỹ thuật, cung ứng như thế nào
thông qua đánh giá chất lượng giao tiếp.


22
Chất lượng kỹ thuật được tạo nên từ các biện pháp kỹ thuật, bí quyết nghề
nghiệp, hệ thống thông tin và thiết bị cơ sở vật chất. Còn chất lượng giao tiếp thể hiện
ở tác phong, cách ứng xử, khả năng tiếp cận, sự sẵn sàng phục vụ của nhân viên.
Quá trình cung ứng dịch vụ logistics bao gồm nhiều thành phần tham gia và có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, bao gồm khách hàng, người gửi hàng, người nhận hàng,
các dịch vụ cung ứng.

Khách hàng: khách hàng chính là người tiếp cận, người tiêu dùng dịch vụ. Do
đặc điểm của dịch vụ là không hiện hữu, quá trình tiêu dùng tương ứng với quá
trình cung ứng dịch vụ, nên khách hàng là một yếu tố cực kì quan trọng của hệ
thống. Không có khách hàng thì sẽ không có dịch vụ. Khách hàng là người trực tiếp
tiêu dùng dịch vụ của nhà cung ứng. Chất lượng dịch vụ cao hay thấp cũng không
chỉ do bản chất của dịch vụ quyết định mà còn do kỹ năng của người cung ứng, đặc
biệt là do cảm nhận của người tiêu dùng. Khách hàng có thể có những thông tin
phản hồi để người cung ứng tạo ra dịch vụ có chất lượng hơn, ngược lại công ty
cũng có những động thái tác động ngược trở lại khách hàng để tăng cảm nhận của
họ về dịch vụ. Mối quan hệ giữa các khách hàng với nhau cũng tác động đến kết
quả dịch vụ. Đối với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics thì khách hàng ở đây
bao gồm cả người gửi hàng và người nhận hàng.
Người gửi hàng là người yêu cầu được cung ứng dịch vụ logistics, có nhu cầu
gửi hàng đến địa điểm cụ thể trong thời gian nhất định. Nhà cung ứng sẽ thực hiện
các hoạt động như lấy hàng, vận chuyển hàng, làm các thủ tục cần thiết, đưa hàng
lên tàu hay máy bay, đảm bảo thời gian giao hàng, không để xảy ra sự cố và hao
hụt, hỏng hóc hàng, trao đổi thông tin kịp thời và chính xác… Mục tiêu của người
gửi hàng là sử dụng dịch vụ sao cho tối thiểu hóa tổng chi phí logistics (bao gồm
chi phí vận chuyển, dự trữ, thông tin…) mà vẫn đảm bảo được hàng hóa và thời
gian giao hàng. Người gửi hàng và đơn vị vận tải cần xây dựng mối quan hệ hợp
tác, gắn bó trên cơ sở hai bên cùng có lợi và phát triển bền vững.
Người nhận hàng: là người yêu cầu bên gửi hàng phải thực hiện đúng hợp
đồng giao nhận hàng hóa, bao gồm giao hàng đến đúng địa điểm, đúng thời gian,
đúng số lượng, chất lượng và cơ cấu với mức giá mà hai bên đã thỏa thuận. Người
nhận hàng quan tâm tới chất lượng dịch vụ trong mối tương quan với giá cả. Đơn vị
cung ứng dịch vụ logistics là chủ sở hữu, vận hành các phương tiện vận tải, kho bãi
và các phương tiện có liên quan, thực hiện cung ứng dịch vụ cho các bên liên quan
vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và nhanh chóng hoàn trả vốn đầu tư. Mức độ cạnh



23
tranh trên thị trường dịch vụ sẽ phần lớn quyết định đến giá cả, tính đa dạng và chất
lượng dịch vụ của từng loại hình dịch vụ logistics đơn lẻ hay trọn gói. Đơn vị cung
ứng dịch vụ phải đạt được tính chuyên nghiệp cao trong việc nhận biết nhu cầu của
người gửi và người nhận, hỗ trợ ra quyết định về phương án và lộ trình cung ứng
dịch vụ tối ưu, quản lý tốt nguồn lực và nâng cao hiệu quả hoạt động logistics. Đơn
vị dịch vụ logistics và khách hàng cần trao đổi kỹ lưỡng với nhau về phương án để
nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ. Trong đó cần rút ngắn thời gian vận chuyển
bình quân, tăng hệ số sử dụng trọng tải của phương tiện, nâng cao hệ số sử dụng
kho bãi, nâng cao năng suất bốc xếp hàng, rút ngắn thời gian làm thủ tục giấy tờ…
Dịch vụ: Dịch vụ là mục tiêu của quá trình và cũng là kết quả của hệ thống
cung ứng. Dịch vụ có thể được thiết kế, phác thảo, quy định theo quy trình nhất
định từ trước đó. Sự tác động qua lại giữa các yếu tố trong hệ thống như cở sở vật
chất, nhân viên tiếp xúc khách hàng cùng với nghệ thuật tổ chức và quản lý công ty
sẽ tạo ra dịch vụ cuối cùng có chất lượng nhằm thỏa mãn nhu cầu cao nhất của
khách hàng.

Hình 1.1. Quá trình cung ứng dịch vụ logistics
(Nguồn:tổng hợp dựa theo Logistics- Những vấn đề căn bản- Đoàn Thị Hồng Vân)
1.2.2. Nội dung các dịch vụ logistics cung ứng cho khách hàng


24
1.2.2.1.Các dịch vụ logistics cơ bản
a. Dịch vụ giao nhận
Dịch vụ giao nhận là dịch vụ về giám sát vận tải đa phương thức nguyên
container từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu. Có thể hiểu dịch vụ giao nhận bao
gồm cả về quản lý cước phí đường biển, hàng không và cả cước vận tải nội địa.
Trước kia, việc giao nhận có thể do người gửi hàng (nhà xuất khẩu) hay người nhận
hàng (nhà nhập khẩu) hay do người chuyên chở đảm nhiệm và tiến hành. Tuy nhiên,

cùng với sự phát triển của buôn bán quốc tế với mức độ và qui mô chuyên môn hoá
ngày càng cao, giao nhận cũng dần dần được chuyên môn hóa. Dịch vụ trọn gói về
giao nhận giúp cho khách hàng chỉ cần liên lạc với ký hợp đồng với một đối tác duy
nhất và hoàn toàn yên tâm chờ nhận hàng, thay vì phải cử nhân viên giám sát từng
khâu từ mua hàng, vận chuyển, làm thủ tục hải quan, bốc dỡ hàng hóa. Hiện nay,
các công ty cung cấp dịch vụ vận chuyển đa phương thức dành cho những khách
hàng có nhu cầu giải quyết các vấn đề về giao nhận - vận tải trong điều kiện chi phí
và thời gian nhất định. Hàng đóng trong container có thể được kết hợp vận chuyển
bằng nhiều hình thức khác nhau: đường biển, đường không, đường sắt, đường bộ.
Tùy theo yêu cầu của khách hàng cũng như tính chất riêng biệt của hàng hóa vận
chuyển mà kết hợp vận tải sao cho hợp lý và hiệu quả nhất.
Công ty cung cấp dịch vụ giao nhận sẽ nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận
chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác liên quan để giao
hàng cho người nhận theo sự ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hay người làm
dịch vụ giao nhận khác. Dịch vụ giao nhận gồm 2 mảng lớn là: cung ứng tàu biển, môi
giới hàng hải, đại lý tàu biển và đại lý giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu.
b. Dịch vụ vận tải hàng hóa
Dịch vụ vận tải hàng hóa chủ yếu gồm vận chuyển quốc tế bằng đường biển
và đường hàng không.
- Dịch vụ vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường biển
Là việc nhà cung cấp dịch vụ sẽ đưa hàng từ người xuất khẩu tới người nhập
khẩu bằng đường biển. Đây là phương thức vận chuyển đảm nhiệm 3/5 lượng hàng
hóa luân chuyển trên thế giới. Ưu điểm của hình thức này là vận chuyển được khối
lượng hàng lớn và chi phí rẻ, tuy nhiên kèm theo nhược điểm là thời gian vận
chuyển lâu và dễ gặp rủi ro, đặc biệt ở các trường hợp bất khả kháng.
Vận chuyển quốc tế bằng đường biển có 3 hình thức:
+ Vận chuyển hàng nguyên container (FCL): là vận chuyển hàng xếp đủ trong


25

1 container mà không cần ghép với hàng của các lô khác
+ Vận chuyển hàng lẻ (LCL): Hàng lẻ là các lô hàng chưa thể xếp đủ 1
container. Thông thường các nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển sẽ làm công tác gom
hàng, tức là gom các lô hàng có cùng lô trình đi cho vào đủ 1 container, nhằm giảm
chi phí vận chuyển cho chủ hàng đồng thời mang lại hiệu quả cho chủ tàu, tiết kiệm
không gian trên tàu.
+ Vận chuyển hàng rời: Hàng rời là các loại hàng mà không được bao kiện hay
đóng gói, điển hình là các loại khoáng sản, phế liệu, nguyên liệu thô… Ngày nay
người ta thiết kế những con tàu chuyên chở hàng rời gọi là tàu rời (bulk carrier)
- Dịch vụ vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường hàng không
Đây là dịch vụ dành cho các loại hàng hóa có một số đặc thù như kích thước
nhỏ, khối lượng không lớn và thời gian cần hàng nhanh. Các nhà cung cấp dịch vụ
sẽ nhận hàng từ nhà xuất khẩu và thực hiện các thủ tục cần thiết để nhằm chuyên
chở hàng hóa nhanh và tiết kiệm chi phí nhất.
Ngoài dịch vụ hàng không đơn thuần, nhiều nhà cung cấp dịch vụ logistics lớn
còn có các giải pháp dịch vụ mới như đường không – đường biển, đường biển –
đường không. Những giải pháp này giúp cho người xuất khẩu có thể giao hàng đúng
hạn hợp đồng dù tiến độ sản xuất có thể chậm trễ vài ngày. Cước phí lại rẻ hơn rất
nhiều so với việc đi toàn bộ bằng đường hàng không. Lượng hàng trễ càng lớn thì
giải pháp này lại càng mang tới hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên chỉ có các nhà cung
cấp dịch vụ lớn mới có thể cung ứng dịch vụ này, họ có thể sở hữu tàu biển, khai
thác nhiều tuyến đường, có nhiều đại lý ở trên thế giới và có mối quan hệ mật thiết
với các hãng hàng không thì mới có thể đảm bảo lịch trình của hàng chính xác.
Đồng thời dịch vụ này còn đòi hỏi khả năng lập kế hoạch, khả năng bám sát kế
hoạch, bám sát thông tin và xử lý nhanh nhạy các tình huống phát sinh. Vì thời gian
gấp và có chuyển tải nên đòi hỏi phải có sự chuyên môn hóa trong khâu bốc dỡ
hàng sao cho đảm bảo thời gian và đảm bảo an toàn hàng hóa.
c. Dịch vụ gom hàng
Dịch vụ gom hàng là dịch vụ vận chuyển bằng cách gom các lô hàng lẻ thành
hàng nguyên container nhằm tiết kiệm chi phí vận tải. Nhà cung cấp dịch vụ logistic

sẽ nhận hàng từ nhiều người gửi hàng (vendor) khác nhau, tập kết hàng tại các kho
hàng lẻ, còn gọi là CFS (Container Freight Station). Sau đó gom chúng lại xếp vừa
đủ các container.


×