Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ logistics của Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh Vân Minh Vân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 126 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn “Hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ
logistics của Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh
Vân Minh Vân” là công trình nghiên cứu độc lập, các tài liệu tham khảo, số liệu
thống kê phục vụ mục đích nghiên cứu trong công trình này được sử dụng đúng quy
định, không vi phạm quy chế bảo mật của nhà nước. Tác giả xin cam đoan những
vấn đề nêu trên là đúng sự thật. Nếu sai, tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước pháp luật.
Tác giả luận văn


2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt bài luận văn nghiên cứu với đề tài: “Hoàn thiện hoạt
động cung ứng dịch vụ logistics của Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế
và thương mại Vinh Vân Minh Vân”, cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân,
em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Lục Thị Thu Hường đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp.
Đồng thời em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Sau đại học, các thầy cô
giáo phụ trách giảng dạy chuyên ngành Kinh doanh thương mại - Trường Đại học
Thương Mại, các đồng chí lãnh đạo và cán bộ của đơn vị, đã tận tình giúp đỡ, đóng
góp ý kiến quý báu và tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành đề tài luận văn này.
Tác giả luận văn

Trần Khánh Hồng


3



MỤC LỤC


4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

VIẾT TẮT
-

TIẾNG ANH

TIẾNG VIỆT

Coload
Association of Southeast Asian

Đổi hàng
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam

Nations
Bill of lading

Á
Vận đơn

CFS
CIF
Consol

CY
D/O
ECUS

Container Freight Station
Cost, Insurance, Freight
Consolidation
Container Yard
Delivery Order
Electronic Customs
Fédération Internationale des

Kho hàng lẻ
Tiền hàng, bảo hiểm, cước phí
Gom hàng lẻ
Bãi container
Lệnh giao hàng
Hải quan điện tử

FIATA

Associations de Transitaires et

FCL
FOB
GDP
H.B/L
ICD

Assimilés

Full Container Load
Free On Board
Gross Domestic Product
House Bill of Lading
Inland Container Depot

KCN

-

Khu công nghiệp

LCL

Less than Container Load

Hàng lẻ

LPI

Logistics performance index

M.O.B/L

Master Ocean Bill of Lading

Vận đơn chủ

Non-vessel operating common


Người vận tải (chuyên chở) công

carrier

cộng không tàu

OMS

Order Management System

Hệ thống quản lý đơn hàng

TMS

Transport Managerment System

Hệ thống quản lý vận tải

ASEAN
B/L

NVOCC

Liên đoàn các Hiệp hội Giao
nhận Vận tải Quốc tế
Hàng nguyên container
Giao hàng khi qua lan can tàu
Tổng sản phẩm quốc nội
Vận đơn thứ cấp
Cảng cạn


Chỉ số năng lực quốc gia về
Logistics


5

VCCI

Vietnam Chamber of Commerce Phòng thương mại và công
and Industry
Vietnam Customs Intelligence

nghiệp Việt Nam
Hệ thống thông tin tình báo Hải

Information System
Vietnam Logistics Business

quan Việt nam
Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ

Association
Vietnam Automated Cargo And

logistics Việt Nam
Hệ thống thông quan hàng hóa tự

VVMV


Port Consolidated System
-

động
Vinh Vân Minh Vân

WMS

Warehouse Management System Hệ thống quản lí kho hàng

WTO

World Trade Organization

VCIS
VLA
VNACCS

Tổ chức Thương mại thế giới

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
BẢNG

BIỂU ĐỒ


6

SƠ ĐỒ


HÌNH VẼ


7

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý thuyết và thực tế đã chỉ ra rằng logistics có vai trò thực sự quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội không chỉ riêng của bất cứ quốc gia nào mà là với toàn thế
giới. Chính bởi vì những lợi ích mà nó mang lại cả về tính hiệu năng và tính hiệu
quả trong các chuỗi cung ứng mà người ta chú ý nhiều hơn đến việc nâng cao hiệu
quả logistics. Logistics được nâng tầm thành một ngành , là chìa khóa cho việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, tổ chức hay quốc gia có chỉ số hoạt
động logistics (LPI) cao.
Cùng với sự phát triển của ngành dịch vụ logistics trên thế giới, ngành
logistics Việt Nam cũng đang trên đà hội nhập và có những bước phát triển mạnh
mẽ. Dịch vụ logistics thương mại nước ta bắt đầu từ những năm 1990 trên cơ sở
giao nhận vận tải, kho vận . Theo chỉ số LPI năm 2014, Việt Nam xếp thứ 48/160
nước được nghiên cứu và đứng thứ 4 trong các nước ASEAN (sau Singapore,
Malaysia và Thái Lan). Mặc dù các con số khá khiêm tốn nhưng không thể phủ
nhận tốc độ hội nhập vào ngành dịch vụ logistics của nước ta là khá cao. Mỗi năm
có hàng trăm tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics ra đời. Hầu hết các
công ty là vừa và nhỏ, tham gia cung ứng một hoặc một vài khâu riêng lẻ của toàn
bộ các hoạt động logistics, gồm: dịch vụ vận tải, kinh doanh cảng biển, ICD, ga
hàng hóa, kho bãi, đại lý tàu biển, đại lý hải quan và các dịch vụ logistics liên quan
khác liên quan (tư vấn, giao dịch hàng hóa, đào tạo và các giải pháp…). Có một số
ít các doanh nghiệp vươn lên đảm nhiệm được dịch vụ logistics tích hợp 3PL,
nhưng con số đó là không nhiều. Ở nước ta, hầu hết các công ty lớn trong ngành
đều là các công ty của nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics xuyên quốc gia và
đặt trụ sở tại Việt Nam. Các công ty này chiếm phần lớn thị phần của ngành

logistics Việt Nam, thị phần còn lại giành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nước. Điều này khiến cho mức độ cạnh tranh trong ngành ngày càng gay gắt.
Doanh nghiệp muốn có chỗ đứng vững chắc thì phải làm tôt, thậm chí rất tốt các
mảng dịch vụ của mình, cho dù nó chỉ là một hay một vài phân đoạn trong dây
chuyền chuỗi cung ứng của thế giới.


8

Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh Vân Minh
Vân (VVMV JSC) là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng các dịch
vụ logistics gồm giao nhận vận chuyển quốc tế cũng như trong nước, dịch vụ gom
hàng lẻ, đại lý Hải quan, tư vấn xuất nhập khẩu. Trong những năm qua, công ty đã
có những bước phát triển và có những đóng góp vào ngành dịch vụ logistics của
nước nhà. Lượng khách hàng của công ty cũng tăng lên qua các năm, nhưng cũng
không thể không kể đến việc nhiều khách hàng giảm số lượng thuê dịch vụ, thậm
chí từ bỏ để chuyển sang thuê ngoài các công ty khác. Ngoài nguyên nhân chủ quan
một phần là do năng lực cung ứng dịch vụ của công ty còn hạn chế, chưa đáp ứng
được các điều kiện của khách hàng, còn có nguyên nhân từ phía khách quan. Đó là
sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt đến từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước,
những yếu tố vĩ mô khác. Nhìn nhận được những hạn chế và khó khăn còn tồn tại
trong công ty, tác giả đã chọn đề tài là “ Hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ
logistics của Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh
Vân Minh Vân” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Các khái niệm cơ bản
- Dịch vụ: là một hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là
vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể
gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất. (theo Philip Kotler)
- Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là
bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận

thanh toán, bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán
cho bên cung ứng dịch vụ theo thỏa thuận. (Luật Thương mại 2005)
- Logistics
Theo Đoàn Thị Hồng Vân (2011) “Logistics là tối ưu hóa về địa điểm và thời
điểm, tối ưu hóa việc lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu vào cho đến tay
người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với
chi phí thích hợp, thông qau hàng loạt các hoạt động kinh tế.


9

Theo Hội đồng quản trị logistics của Mỹ “Logistics là một phần của quá trình
chuỗi cung ứng, thực hiện hoạch định, thực hiện và kiểm soát dòng lưu chuyển, tồn
trữ hàng hóa, dịch vụ và thông tin có liên quan một cách hiệu quả, hiệu năng từ
điểm đầu đến điểm tiêu thụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Dịch vụ logistics
Tại Mục 4 Điều 233 Luật Thương mại 2005 quy định : “Dịch vụ logistics là
hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công
việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ
tục giấy tờ khác, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc dịch vụ khác có
liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”
- Doanh nghiệp logistics
Các doanh nghiệp logistics là các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và
có đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics theo quy định của pháp luật. Họ là
những tổ chức có khả năng cung ứng các dịch vụ logistics đơn lẻ hoặc tích hợp các
dịch vụ đơn lẻ thành các gói dịch vụ logistics khác nhau để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và thương mại trong nước và
nước ngoài (theo tác giả)
3. Tổng quan nghiên cứu
3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Logistics đã phát triển từ khá lâu trên thế giới, dần dần được chuyên môn hóa
để trở thành một ngành dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng trong giao thương toàn
cầu. Tuy nhiên, cho đến tận năm 2005, thuật ngữ “Logistics” mới được xuất hiện
chính thức trong Luật thương mại (sửa đổi), tức là muộn hơn rất nhiều so với tiến
trình phát triển của lĩnh vực này trên thế giới. Hiện nay, hoạt động logistics Việt
Nam được nghiên cứu dưới nhiều góc đô, có thể kể đến một số sách và tài liệu tham
khảo phổ biến như sau:
“Logistics- Những vấn đề cơ bản”, Đoàn Thị Hồng Vân chủ biên, xuất bản
năm 2003, tái bản năm 2011 (NXB Lao động - xã hội). Trong cuốn sách này, các tác
giả tập trung vào giới thiệu những nét tổng quan về logistics cũng như về ngành


10

dịch vụ logistics như khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển, phân loại logistics,
kinh nghiệm phát triển logistics của một số quốc gia trên thế giới.
Đặng Đình Đào (2010), “Phát triển các dịch vụ logistics ở nước ta trong điều
kiện hội nhập quốc tế”, đề tài khoa học công nghệ độc lập cấp Nhà nước
ĐTĐL2010 T/33.Đề tài cô đọng nội dung của giáo trình Dịch vụ logisitics ở Việt
Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, khai quát thực tiễn của ngành logistics Việt
Nam trong bối cảnh xã hội, kinh tế hội nhập hiện tại. Đưa tới những xu hướng phát
triển và các quan điểm phát triển dịch vụ logistics ở nước ta.
An Thị Thanh Nhàn (2010),“Giải pháp thuê ngoài hoạt động Logistics tại các
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu cấp Trường, Trường Đại Học
Thương Mại. Đề tài hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về hoạt động thuê ngoài
Logistics. Khảo sát đánh giá thực trạng về hoạt động logistics thuê ngoài tại các
doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng chủ lực và các nhân tố ảnh hưởng đến nỗ lực
này. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cơ bản về hoạt động thuê ngoài
logistics nhằm hỗ trợ tối ưu cho hoạt động xuất nhập khẩu của các Doanh nghiệp
Việt Nam.

Lê Đình Minh (2012), “Phát triển dịch vụ logistics tại công ty cổ phần vận tải
– công nghiệp tàu thủy Bình Định”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng.
Luận văn đã tóm lược các nội dung lý thuyết cơ bản về logistics, hoạt động cung
ứng dịch vụ logistics. Phân tích và đánh giá thực trạng tại doanh nghiệp đang cung
ứng dịch vụ logistics, chủ yếu là dịch vụ giao nhận vân tải đường biển, nhìn nhận
được những điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ và thách thức của doanh nghiệp, từ đó
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các dịch vụ để đáp ứng khách hàng tốt hơn
đồng thời mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.
Đinh Lê Hải Hà (2012) “Phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay”, luận án tiến
sĩ kinh tế, Đại học Thương mại. Luận án tập trung nghiên cứu logistics ở góc độ vĩ
mô. Luận án đã hệ thống lý luận về logistics hiện đại theo quan điểm tiếp cận toàn
diện, tạo dựng cơ sở lý thuyết xác lập nội dung nghiên cứu và phát triển logistic
theo quan điểm hiện đại ở Việt Nam. Luận án đã phân tích và đánh giá khá đầy đủ,


11

toàn diện thực trạng phát triển của hệ thống logistics trong nền kinh tế Việt Nam
hiện nay ở các khía cạnh: trình độ phát triển về lý thuyết nghiên cứu và ứng dụng
logistics của nền kinh tế, thực trạng hệ thống cung ứng dịch vụ logistics của nền
kinh tế, thực trạng nhu cầu thị trường về dịch vụ logistics, thực trạng kết cấu hạ tầng
logistics, thực trạng môi trường cạnh tranh và cơ chế, chính sách, luật pháp cho phát
triển dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Tài liệu tham khảo nước ngoài
Viện nghiên cứu Nomura (Nhật Bản) (2002) ““Vietnam logistics development,
trade facilitation and the impact on poverty reduction” (Phát triển logistics Việt Nam,
tạo thuận lợi cho thương mại và tác động đến giảm nghèo), công trình nghiên cứu này
phân tích thực trạng phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam, chủ yếu tập trung vào
khía cạnh dịch vụ logistics và chi phí cho dịch vụ logistics của sản xuất và xuất khẩu
một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

Davil L. Cahill (2006), “Customer Loyalty in Third Party Logistics
Relationship: Finding from Studies in Germany anh the USA”, Nxb Physica –
Verlag HD- A Springger Company. Thị trường và xu hướng toàn cầu hóa, các hiệp
định giữa các nước trong khu vực ngày càng mở rộng, việc giao thương xuất nhập
khẩu hàng hóa ngày càng tăng cao dẫn tới thành công các công ty cung cấp dịch vụ
logistics 3PLs ngày càng quan tâm hơn nhu cầu khách hàng. Bên cạnh đó, tác phẩm
phân tích các nhân tố ảnh hưởng liên quan tới mô hình về lòng trung thành của
khách hàng và đưa ra kết luận ảnh hưởng yếu tố khác như: Văn hóa, trình độ ứng
dụng khoa học công nghệ, văn hóa doanh nghiệp ảnh hưởng lớn lòng trung thành
khách hàng và lựa chọn dịch vụ.
Martin Chiristopher (2008), “Logistics, Supply Chain Management”, Giáo
trình đưa ra một khung lý thuyết cơ bản về toàn bộ chuỗi cung ứng, hoạt động quản
trị logistics và vận tải, tầm quan trọng của việc phát triển hiệu quả và quản lý mạng
lưới dây chuyền cung ứng sẽ giảm tối đa chi phí và nâng cao giá trị chất lượng dịch
vụ cho khách hàng. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cách tiếp cận mới, quan
điểm mới của quốc tế về tổng quan ngành dịch vụ logistics.


12

Sullivan (2006), “Vietnam transportation and logistics: opportunities and
challenges” (Giao thông vận tải và logistics Việt Nam: cơ hội và thách thức), đánh
giá khái quát về thực trạng, cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực vận tải và dịch vụ
logistics ở Việt Nam. Nghiên cứu tập trung vào phân tích các cơ hội và thách thức
của Việt Nam đối với các phương thức vận tải hàng hóa như đường bộ, đường sắt,
đường không, đường biển.
3.3. Phương pháp phân tích dữ liệu
- Phương pháp thông kê: Là phương pháp được sử dụng rộng rãi khi cần xử lí
các dữ liệu qua các thời kì để có được những nhận định về tình hình của công ty.
Tác giả tiến hành lựa chọn và thống kê theo các tiêu chí đánh giá nhằm phục vụ quá

trình nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp so sánh: Thông qua các số liệu thống kê về thực trạng cung cấp
dịch vụ logistics của công ty, tác giả tiến hành so sánh các chỉ tiêu theo thông số
tuyệt đối và thông số tương đối.
- Phương pháp phân tích định tính: Việc phân tích dữ liệu định tính được dựa
trên các thông tin sơ cấp, thứ cấp và quan sát thực tế tại doanh nghiệp nhằm tìm tòi
một cách chính xác, cẩn thận vấn đề đặt ra. Trong luận văn này, những phần được
sử dụng phương pháp định tính như phân tích những thành công, tồn tại có ở công
ty liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ logistics.
- Phương pháp phân tích định lượng: Việc phân tích dữ liệu theo phương pháp
định lượng được dựa trên các thông tin sơ cấp, thứ cấp và quan sát thực tế tại doanh
nghiệp. Trong luận văn này, phương pháp định lượng được sử dụng trong các phần
như: Tình hình cung ứng dịch vụ logistics của công ty, tình hình hoạt động kinh
doanh chung của công ty…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình và hoạt động cung cấp dịch vụ
logistics của công ty VVMV JSC và các công ty cung ứng dịch vụ cho VVMV JSC


13

4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Dữ liệu nghiên cứu thực trạng được lấy trong khoảng thời gian
từ năm 2013 đến hết tháng 6 năm 2016 và giải pháp hoàn thiện hoạt động cung ứng
dịch vụ logistics của công ty VVMV JSC trong tương lại 2017-2020
Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng quá trình và hoạt động cung cấp
dịch vụ logistics của công ty VVMV JSC. Hoạt động cung cấp dịch vụ logistic của
công ty được thực hiện trên địa bàn khắp cả nước, do công ty có trụ sở ở Thành phố
Hồ Chí Minh và chi nhánh Miền Bắc tại Hà Nội. Tuy nhiên, do giới hạn về thời

gian nghiên cứu, khả năng nghiên cứu nên luận văn chủ yếu tập trung về hoạt động
cung cấp dịch vụ logistics của công ty trên địa bàn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
trong đó tập trung ở Hà Nội và Hải Phòng.
Về nội dung:
Đề tài nghiên cứu hoạt động cung cấp các dịch vụ logistics tại công ty VVMV
JSC cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh khác, tìm ra các điểm mạnh cần
phát huy và những điểm còn hạn chế cần khắc phục nhằm nâng cao chất lượng phục
vụ, tạo niềm tin và sự hài lòng của khách hàng, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh
nói chung và năng lực cung ứng dịch vụ nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu sơ cấp
Để có được thông tin đầy đủ cho mục đích nghiên cứu, tác giả sử dụng
phương pháp phỏng vấn. Đối tượng được phỏng vấn là các cán bộ quản lý và nhân
viên làm việc tại các bộ phận của công ty.
Tác giả sẽ tiến hành phỏng vấn khoảng 30 người bao gồm Giám đốc, Trưởng
các bộ phận và nhân viên các bộ phận Kinh doanh, chứng từ, vận tải, kho bãi và
hiện trường.
Nội dung phỏng vấn bao gồm những khó khăn gặp phải trong công việc, thực
trạng chất lượng các dịch vụ đang cung cấp, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới
chất lượng dịch vụ, vai trò của việc vần hoàn thiện quá trình cung cấp dịch vụ…
5.2. Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp


14

Kết hợp với các phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp để đánh giá chính xác
hơn vẫn đề, tác giả đã tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp từ nhiều nguồn khác nhau.
- Các giáo trình, luận văn, luận án có liên quan đến đề tài luận văn để hệ thống
và tham khảo xây dựng khung lý thuyết cho đề tài nghiên cứu của luận văn.
- Kế thừa, sử dụng các thông tin và kết quả nghiên cứu từ các công trình

nghiên cứu khoa học, các thông tin liên quan đến đề tài trên sách báo, tạp chí
chuyên ngành như Tạp chí Việt Nam Logistics Review, các trang web có liên quan
như www.vietnamshipper.com, www.vinamaso.net
- Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty từ năm 2013-2016 từ
phòng kế toán.
- Các báo cáo, số liệu liên quan đến thực trạng các dịch vụ đang được cung
cấp của công ty từ năm 2013-2016
6. Kết cấu dự kiến của đề tài
Ngoài mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục bảng biểu, hình vẽ, lời mở
đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung chính của luận
văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cung ứng dịch vụ
logistics của các công ty logistics
Chương 2: Thực trạng hoạt động cung ứng dịch vụ logistics tai Công ty Cổ
phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh Vân Minh Vân
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ logistics tai
Công ty Cổ phần dịch vụ vận chuyển quốc tế và thương mại Vinh Vân Minh Vân


15

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
CUNG ỨNG DỊCH VỤ LOGISTICS CỦA CÁC CÔNG TY LOGISTICS
1.1. Tổng quan về dịch vụ logistics
1.1.1. Khái niệm logistics và dịch vụ logistics
Logistics là một thuật ngữ có nguồn gốc từ Hi Lạp – logistikos- xuất hiện lần
đầu không phải trong lĩnh vực thương mại mà trong lĩnh vực quân sự. Trong các
cuộc chiến tranh cổ đại của đế chế La Mã và Hy Lạp, những binh lính mang chức
danh Logistikos có nhiệm vụ cung ứng và phân phối vũ khí, nhu yếu phẩm cho
quân đội. Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics phát triển nhanh chóng, trong nhiều

ngành, nhiều lĩnh vực và ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trở thành một ngành
dịch vụ chiếm vai trò không thiếu trong sự vận động của giao thương quốc tế. Được
nghiên cứu và áp dụng sang lĩnh vực kinh doanh, dưới góc độ doanh nghiệp, thuật
ngữ “Logistics” thường được hiểu là hoạt động quản lý chuỗi cung ứng hay quản lý
hệ thống phân phối vật chất của doanh nghiệp. Hiện nay có khá nhiều khái niệm về
logistics như sau:
Theo Giáo sư David Simchi-Levi (MIT) thì: “Hệ thống logistics là một nhóm
các cách tiếp cận được sử dụng để liên kết các nhà cung cấp, nhà sản xuất, kho, cửa
hàng một cách hiệu quả để hàng hóa được sản xuất và phân phối đúng số lượng,
đúng địa điểm và đúng thời điểm nhằm mục đích giảm thiểu chi phí trên toàn hệ
thống đồng thời đáp ứng được các yêu cầu về mức độ phục vụ”
Theo Hội đồng quản trị logistics của Mỹ “Logistics là một phần của quá trình
chuỗi cung ứng, thực hiện hoạch định, thực hiện và kiểm soát dòng lưu chuyển, tồn
trữ hàng hóa, dịch vụ và thông tin có liên quan một cách hiệu quả, hiệu năng từ
điểm đầu đến điểm tiêu thụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng”.
Theo Đoàn Thị Hồng Vân (2011) “Logistics là tối ưu hóa về địa điểm và thời
điểm, tối ưu hóa việc lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu vào cho đến tay
người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với
chi phí thích hợp, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”.


16

Như vậy, dù có sự khác nhau về từ ngữ diễn đạt và cách trình bày, nhưng trong
nội dung tất cả các tác giả đều cho rằng “Logistics chính là hoạt động quản lý dòng
lưu chuyển của nguyên vật liệu từ khâu mua sắm qua quá trình lưu kho, sản xuất ra
sản phẩm và phân phối tới

tay


người tiêu dùng. Mục đích giảm tối đa chi phí phát

sinh hoặc sẽ phát sinh, với thời gian ngắn nhất trong quá trình vận động của
nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng như phân phối hàng hoá một cách kịp thời”.
Tuy nhiên ở đây không chỉ có sự vận động của “nguyên vật liệu, hàng hoá” mà cần
phải bao gồm thêm cả dòng luân chuyển “dịch vụ, thông tin”. Logistics không chỉ
hạn chế trong sản xuất mà nó còn liên quan đến mọi tổ chức bao gồm chính phủ,
bệnh viện, ngân hàng, người bán lẻ, người bán buôn…
Dịch vụ logistics
Nếu như hoạt động logistics là một chức năng hỗ trợ trong doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh thì dịch vụ logistics được hiểu là một loại sản phẩm dịch vụ do nhà
cung cấp là các doanh nghiệp logistics bán cho khách hàng và thu phí dịch vụ
logistics. Khách hàng ở đây là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp
xuất nhập khẩu hoặc các cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics.
Ở Việt Nam, trước Luật Thương mại 2005, chưa hề có những quy định về dịch
vụ Logistics, mà mới chỉ có những quy định liên quan đến vận chuyển, giao nhận
hàng hóa. Chỉ đến Luật Thương mại 2005, dịch vụ Logistics mới được đưa vào một
mục của Luật với 8 điều (điều 233- điều 240), bao gồm các quy định về dịch vụ
Logistics, điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics, quyền và nghĩa vụ của thương
nhân kinh doanh dịch vụ Logistics, quyền và nghãi vụ của khách hàng, các trường
hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics, giới hạn
trách nhiêm, quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa và nghĩa vụ của thương nhân
kinh doanh dịch vụ Logistics.
Theo Luật Thương mại Việt Nam thì “Dịch vụ logistics là hoạt động thương
mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm
nhận tư vấn khách hàng, đóng góp bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch
vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thoản thuận với khách hàng để hưởng thù
lao” (mục 4, điều 233, Luật Thương mại 2005)



17

Khái niệm dịch vụ logistics được chia thành hai nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật thương
mại 2005, coi logistics gần tương tự với giao nhận hàng hóa. Tuy nhiên trong đó có
tính mở, thể hiện trong đoạn “hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa”.
Theo nhóm này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho
quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Theo đó, dịch vụ
logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics không có
nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức (MTO).
Thứ hai, nhóm định nghĩa dịch vụ logistics theo phạm vi rộng, có tác động từ
giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo
nhóm định nghĩa này, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật
liệu làm đầu tư cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đưa vào các kênh lưu
thông, phân phối để tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này kể về
dịch vụ logistics góp phần phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ
đơn lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ
sản xuất, tư vấn quản lý…với một nhà cung cấp dịch vụ logistic chuyên nghiệp,
người sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa tới
tay người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên
nghiệp đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ “trọn
gói” cho các khách hàng. Đây là một công việc mang tính chuyên môn hóa cao. Ví
dụ, khi một nhà cung cấp dịch vụ logistics cho một nhà sản xuất thép, anh ta sẽ chịu
trách nghiệm cân đối sản lượng của nhà máy và lượng hàng tồn kho để nhập phôi
thép, tư vấn cho doanh nghiệp về chu trình sản xuất, kỹ năng quản lý và lập kênh
phân phối, các chương trình marketing, xúc tiến bán hàng để đưa sản phẩm đến
người tiêu dùng, kèm thêm các dịch vụ hải quan và điều vận để đưa hàng hóa đến
người nhập khẩu hoặc nhận từ người xuất khẩu.
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ logistics
Dịch vụ logistics mặc dù là 1 loại dịch vụ đặc thù, nhưng nó vẫn mang đầy đủ

các đặc điểm của dịch vụ nói chung, bao gồm:


18

+ Tính vô hình: Cũng như các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ logistics mang
tính chất vô hình. Khách hàng sẽ không thể biết mình nhận được gì nếu như chưa
sử dụng dich vụ, nói cách khác, bán dịch vụ chính là bán một lời hứa rằng doanh
nghiệp sẽ đem đến cho khách hàng một điều gì đó. Logistics thực hiện các công
việc chu chuyển và lưu kho hàng hóa, cùng các dịch vụ và thông tin có liên quan từ
địa điểm xuất phát đến nơi tiêu dùng, do vậy nó không phải là một sản phẩm vật
chất hay một cái gì đó hiện hữu, khách hàng không thể cầm nắm, không thể hình
dung trước được Logistics là sản phẩm như thế nào mà phải chờ đợi kết quả của
quá trình vận chuyển, lưu kho… Đó là tính không hiện hữu của dịch vụ Logisstic.
Sau khi khách hàng sử dụng dịch vụ, họ sẽ có thể cảm nhận và đánh giá được chất
lượng của dịch vụ thông qua các tiêu thức như: thời gian giao nhận, độ an toàn của
hàng hóa, tính chính xác và nhanh chóng của việc hoàn thành các thủ tục, chứng
từ, mức độ hỗ trợ khách hàng…
Tính không hiện hữu của dịch vụ logistics gây ra một số khó khăn không nhỏ
đối với các công ty cung cấp dịch vụ. Nó thể hiện ở chỗ khách hàng không trực tiếp
tiếp cận với dịch vụ mà phải chờ đợi kết quả của quá trình thực hiện. Điều này đem
tới cho khách hàng tâm lý bất an, vì vậy công ty cung cấp dịch vụ cần có những
biện pháp cụ thể để xóa bỏ tâm lý bất an trong khách hàng, làm cho khách hàng tin
tưởng hoàn toàn vào dịch vụ mà công ty đã cung cấp.
+Tính không tách rời: Đặc tính này thể hiện ở quá trình sản xuất và tiêu thụ
dịch vụ logistics diễn ra đồng thời. Ví dụ khách hàng sử dụng dịch vụ của công ty
logistics, thuê công ty này vận chuyển hàng hóa từ kho của công ty đến cảng biển,
thì lúc đó công ty logistics đang cung cấp dịch vụ và khách hàng đồng thời sử dụng
dịch vụ. Sự diễn ra đồng thời này mặc dù có những ưu điểm nhất định nhưng mang
đến không ít khó khăn cho cả 2 bên, khó dự đoán những rủi ro có thể xảy ra đồng

thời tính toán kĩ lưỡng về thời gian cũng như tính chính xác khi cung cấp dịch vụ.
+Tính không dự trữ được: Do tính chất vô hình và không thể tách rời giữa quá
trình cung cấp và sản xuất dẫn tới dịch vụ logistics không thể dự trữ mà chỉ được
sản xuất và cung ứng khi có nhu cầu của khách hàng. Chính điều này tạo nên sự mất


19

cân đối cung - cầu về dịch vụ trong những thời điểm khác nhau. Thông thường vào
những tháng cuối năm và đầu năm, cầu về dịch vụ logistics tăng rất cao, trong khi
những tháng giữa năm cầu lại ở mức thấp và trung bình, dẫn tới xảy ra tình trạng
bên cung ứng lúc thì khan hiếm khách hàng, lúc lại bị quá tải, không đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng. Điều này gây lãng phí một nguồn lực lớn cũng như ảnh
hưởng đến chuỗi cung ứng của các bên tham gia. Để hạn chế được điều này đòi hỏi
phải có sự phối hợp chặt chẽ của cả bên thuê dịch vụ và cung cấp dịch vụ, thông tin
trao đổi thường xuyên, kiểm soát chặt chẽ tình trạng dư cầu vào thời điểm chính vụ
là những tháng cuối năm khi nhu cầu giao nhận, vận chuyển hàng hóa xuất nhập
khẩu tăng mạnh. Do tính không thể lưu giữ được nên các dịch vụ logstics không
được sản xuất trước, vì vây khi cầu dịch vụ tăng mạnh các doanh nghiệp logistics
không thể tối đa hóa năng lực sản xuất kinh doanh, còn khi cầu dịch vụ giảm nhiều,
xảy ra tình trạng dư thừa nhân lực, các trang thiết bị máy móc không được sử dụng
đến trong khi tình trạng khấu hao vẫn xảy ra,...
+ Tính không đồng đều về chất lượng: Chất lượng dịch vụ logistics rất khó để
tiêu chuẩn hóa được bởi bản thân dịch vụ logistics phụ thuộc vào yếu tố như: yếu
tố máy móc, thiết bị, điều kiện môi trường do không gian cung ứng có tính phân
tán, ngoài ra chất lượng dịch vụ logistics còn phụ thuộc vào trình độ quản trị kinh
doanh, khả năng kiểm soát quá trình cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp, sự đánh
giá của khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Tức là mỗi lần cung cấp dịch vụ lại có
những yếu tố khác nhau tác động đến cách thức cung cấp. Thêm nữa, tùy theo từng
loại dịch vụ mà khách hàng yêu cầu, tùy theo tính chất hàng hóa, thời gian mà

doanh nghiệp cung cấp dịch vụ sẽ quyết định cách thức phục cho phù hợp. Do bản
thân dịch vụ logistics phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vậy cho nên chất lượng dịch
vụ logistics sẽ dễ dàng bị biến đổi khi ít nhất một trong các yếu tố đó có sự thay đổi.
Ngoài những đặc điểm chung thì dịch vụ logistics còn có một số đặc điểm
riêng như sau:
+ Tính tích hợp cao: Tính tích hợp là khả năng phối hợp các hoạt động lại với
nhau, tạo ra môt hệ thống thống nhất có khả năng hỗ trợ, tương tác lẫn nhau. Từ đó


20

đạt được hiệu quả cao hơn so với hoạt động riêng lẻ. Hiện nay khi nền sản xuất kinh
doanh và thương mại hiện đại có tính tích hợp ngày càng cao thì với vai trò là hoạt
động hỗ trợ cho hoạt động thương mại, dịch vụ logistics cũng phải mang trong mình
đặc tính này để có thể phát triển và đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Tính tích
hợp cao của dịch vụ Logistics được hiểu theo hai chiều hướng.
Thứ nhất là dịch vụ logistics có tính tích hợp cao với hoạt động thương mại
quốc tế do dịch vụ logistics là một trong những hoạt động hỗ trợ cho hoạt động giao
lưu, thương mại, ... giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ thì logistics là bên thứ ba kết
nối các giao dịch, kết nối bên bán và bên mua và cung ứng các dịch vụ hỗ trợ cho
các dòng di chuyển hàng hóa để đáp ứng nhu cầu thương mại của các bên và đòi hỏi
tính chuyên môn hóa cao.
Thứ hai là yêu cầu tích hợp các hoạt động logistics với nhau. Một là sự tích
hợp tồn tại trong một doanh nghiêp, nghĩa là các doanh nghiệp logistics sẽ tích hợp
các dịch vụ riêng lẻ của mình thành các gói dịch vụ để cùng một lúc có thể cùng
cung cấp dịch vụ riêng lẻ của mình thành các gói dịch vụ để cùng một lúc có thể
cùng cung cấp nhiều dịch vụ cho khách hàng. Hai là sự tích hợp của nhiều doanh
nghiệp logistics trong ngành, không phải doanh nghiệp logistics nào cũng có đủ khả
năng về nguồn lực để có thể cung cấp cho khách hàng đầy đủ các dịch vụ trong
chuỗi dịch vụ logistics. Cho nên việc lựa chọn cộng tác, liên minh với các doanh

nghiệp khác trong ngành để có thể nhận được sự hỗ trợ, tận dụng các lợi thế và sử
dụng các nguồn lực nhàn rỗi của nhau để phát triển là phương án tốt nhất có thể
tăng tính hiệu quả trong kinh doanh cho các doanh nghiệp logistics.
+Mạng lưới phân phối rộng: Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động thương mại
đang trong xu hướng toàn cầu hóa vì vậy thị trường kinh doanh mở rộng và phát triển
mạnh mẽ dẫn tới việc đòi hỏi các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics phải có
mạng lưới cung ứng đa dạng ở nhiều vị trí, nhiều phạm vi ở các quốc gia và các vùng
lãnh thổ để có thể đáp ứng yêu cầu mua bán trong nước và quốc tế như hiện nay.
+ Hiệu quả dịch vụ logistics bị ảnh hưởng bởi trình độ công nghệ và quản lý:
So với các dịch vụ khác thì việc ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật vào trong


21

quá trình kinh doanh và cung ứng dịch vụ logistics là rất quan trọng. Bản thân hoạt
động logistics luôn đòi hỏi phải hoạt động dựa trên các phần mềm công nghệ thông
tin, kỹ thuật để có thể kết nối thông tin giữa những khu vực trên thế giới từ đó có
thể hạn chế một số khó khăn về khoảng cách địa lý, cũng như để điều hành một
khối lượng rất lớn công việc đòi hỏi cần phải xử lý trong khoảng thời gian ngắn.
1.1.3. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp logistics
a) Khái niệm Doanh nghiệp logistics
Căn cứ Luật thương mại 2005 tại Điều 233 và 234 và một số điều khoản của
Nghị định 140/2007/NĐ-CP ngày 05/05/2007 về điều kiện kinh doanh đối với
thương nhân kinh doanh các loại dịch vụ logistics. Tác giả xin được rút ra khái niệm
về doanh nghiệp logistics như sau: Các doanh nghiệp logistics (LP’s - Logistics
Providers) là các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và có đủ điều kiện kinh
doanh dịch vụ logistics theo quy định của pháp luật. Họ là những tổ chức có khả
năng cung ứng các dịch vụ logistics đơn lẻ hoặc tích hợp các dịch vụ đơn lẻ thành
các gói dịch vụ logistics khác nhau để đáp ứng nhu cầu của khách hàng là các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và thương mại trong nước và ngoài nước”.

Doanh nghiệp Logistics tạo mối liên kết kinh tế xuyên suốt gần như toàn bộ
quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa góp phần hỗ trợ giao dịch kinh
tế diễn ra nhịp nhàng, đồng bộ khi hoạt động các doanh nghiệp logistics trong
ngành hoạt động nhịp nhàng. Với chức năng là cầu nối quan trọng giữa sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa thì hoạt động doanh nghiệp logistics góp phần quan trọng giúp
hàng hóa sẽ có được dòng chảy đầu vào đảm bảo và chất lượng. Doanh nghiệp
Logistics tốt sẽ cung ứng sản phẩm ngay đúng lúc thị trường cần và mối quan hệ
sản xuất là đầu ra của một tổ chức này chính là một đầu vào của tổ chức khác. Hơn
nữa, với cơ sở vật chất và thông tin hiện đại, các nhà cung ứng này có thể cung ứng
hàng hóa với chất lượng đảm bảo hơn cho các nhà sản xuất.
b) Vai trò của doanh nghiệp logistics


22

- Với nền kinh tế
+ Là công cụ liên kết các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu: Nếu như
không có sự ra đời của các công ty logistics thì các khâu trong chuỗi logistics như
cung cấp, sản xuất, lưu thông phân phối, mở rộng thị trường cho các hoạt động kinh
tế khó có thể liên kết và phối hợp nhịp nhàng, trơn tru với nhau. Thị trường toàn cầu
phát triển với các tiến bộ công nghệ, đặc biệt là việc mở cửa thị trường ở các nước
đang và chậm phát triển là việc rất quan trọng. Các công ty cung cấp dịch vụ
logistics là những cánh tay nối dài giúp cho những doanh nghiệp này gia nhập tốt
hơn vào thị trường thương mại quốc tế.
+ Giảm chi phí logistics: Sự xuất hiện của các doanh nghiệp logistics đã tạo
nên được sự chuyên môn hóa cho hoạt động chuyên môn của mình một cách hiệu
quả nhất. Điều này dẫn tới sự thống nhất hoạt động của chuỗi cung ứng, từ đó giảm
được sự ách tắc, chồng chéo trong chuỗi. Điều đó giúp giảm được các chi phí phân
phối, vận động vật chất trong chuỗi.
+ Cải thiện năng suất logistics, đóng góp lớn vào GDP: Là một thành tố quan

trọng đóng góp vào GDP, logistics tác động tới việc mất giá đồng tiền, mức lãi ngân
hàng, năng suất lao động, giá năng lượng và các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Các
doanh nghiệp logistics khi hoạt động hiệu quả sẽ nâng cao năng suất lao động của
một quốc gia thông qua tăng năng suất lao động của từng doanh nghiệp khách hàng
mà họ cung ứng dịch vụ, có động thái tích cực đến giá cả trả cho hàng hóa và dịch
vụ, đến cân bằng cán cân thanh toán của quốc gia, giá trị đồng tiền và khả năng
cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường toàn cầu, lợi nhuận của ngành Công nghiệp
(năng suất lao động cao, có nghĩa là chi phí thấp cho hoạt động sản xuất và phân
phối số sản phẩm tương đương số đã sản xuất ra).
+ Dịch vụ logistics phát triển góp phần giảm chi phí,hoàn thiện và tiêu chuẩn
hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế: Chi phí cho các thủ tục giấy tờ để phục vụ
mọi mặt giao dịch thương mại trên thế giới hàng năm là rất lớn. Theo tính toán của
các chuyên gia, riêng các loại giấy tờ, chứng từ rườm rà hàng năm khoản chi phí
tiêu tốn cho nó cũng chiếm tới hơn 10% kim ngạch mậu dịch quốc tế, ảnh hưởng rất


23

lớn tới các hoạt động buôn bán quốc tế. Logistics đã cung cấp các dịch vụ đa dạng
trọn gói đã có tác dụng giảm rất nhiều các chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong buôn
bán quốc tế. Dịch vụ vận tải đa phương thức do người kinh doanh dịch vụ logistics
cung cấp đã loại bỏ đi rất nhiều chi phí cho giấy tờ thủ tục, nâng cấp và chuẩn hóa
chứng từ cũng như giảm khối lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hóa,
từ đó nâng cao hiệu quả buôn bán quốc tế.
Ngoài ra, cùng với việc phát triển logistics điện tử (electronic logistics) sẽ tạo
ra cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng từ
trong lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ
logistics ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian và
thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ xích
lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông.

- Với khách hàng sử dụng dịch vụ
+Thúc đẩy tính liên kết, phối hợp trong các chuỗi cung ứng quốc tế. Nhờ sự
hỗ trợ của các doanh nghiệp logistics mà các doanh nghiệp bên trong chuỗi cung
ứng có thể biết thêm được nhiều đối tác hơn thông qua danh sách khách hàng mà
các doanh nghiệp logistics biết hoặc đã phục vụ. Có thể thấy rằng các doanh nghiệp
logistics chính là chất keo dính để kết nối tất cả các tổ chức trong chuỗi logistics lại
với nhau, từ đó làm cho chuỗi trở nên thống nhất trong hoạt động.
+ Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho quá trình di chuyển và vận động của các
dòng hàng hóa trong nước và nước ngoài. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm
lĩnh và mở rộng thị trường trong và ngoài cho sản phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ
của dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics có tác dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển
dịch hàng hóa trên các tuyến đường đến địa điểm được yêu cầu đúng yêu cầu về thời
gian và địa điểm đặt ra. Theo nghiên cứu Viện Nomura (Nhật Bản) chỉ riêng hoạt động
logistics đã chiếm 15% GDP của mỗi nước. Do đó nâng cao hoạt động hiệu quả
logistics hỗ trợ các doanh nghiệp trong nền kinh tế diễn ra nhịp nhàng, đồng bộ một khi
dây chuyền hoạt động logistics hoạt động liên tục, nhịp nhàng.
+ Tăng cường tính chuyên môn hóa cho các chuỗi cung ứng. Nếu không có


24

bên thứ ba là các doanh nghiệp logistics thì bên bán và bên mua trong hoạt động
thương mại sẽ phải tự làm các những hoạt động logistics để hoàn thành quá trình
sản xuất kinh doanh dẫn tới sự tăng lên về chi phí và thời gian hoạt động. Đặc biệt
là trong điều kiện kinh doanh phát triển như hiện nay khi khối lượng đơn hàng tăng
lên, giá trị hàng hóa lớn và đòi hỏi khoảng thời gian thực hiện giao dịch nhanh
chóng thì chức năng của hoạt động logistics trong quá trình kinh doanh càng trở nên
quan trọng hơn. Vì vậy, sự xuất hiện của các doanh nghiệp logistics sẽ giúp cho các
bên trong chuỗi cung ứng có thể tiết kiệm thời gian, giảm chi phí thực hiện hoạt
động logistics và các bên có thể tập trung vào chuyên môn của mình để tăng năng

suất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường mục tiêu.
+ Góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế: Sản xuất có mục đích
là phục vụ tiêu dùng, cho nên trong sản xuất kinh doanh, vấn đề thị trường luôn là
vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và kinh doanh quan tâm. Các nhà
sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị trường cho sản phẩm của
mình phải cần sự hỗ trợ của dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics có tác dụng như
chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hóa trên các tuyến đường mới đến các thị
trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Dịch vụ logistics phát
triển có tác dụng rất lớn trong việc khai thác và mở rộng thị trường kinh doanh cho
các doanh nghiệp ở cả thị trường trong nước và quốc tế
1.1.4. Phân loại doanh nghiệp logistics
a) Theo mức độ sở hữu tài sản
Doanh nghiệp có tài sản và cơ sở vật chất logistics. Đây được hiểu là những
doanh nghiệp có tài sản và cơ sở vật chất để trực tiếp cung cấp được dịch vụ giao
nhận vận tải, kho bãi, khai thuê hải quan như kho, bãi, các loại xe tải, container, xe
nâng hạ hay tàu biển, các thiết bị làm hàng, máy móc…
Doanh nghiệp không có tài sản, vật chất logistics. Là các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ logistics nhưng không có tài sản và cơ sở vật chất trực tiếp để phục vụ
các hoạt động đó. Các doanh nghiệp này có thể cung cấp các dịch vụ tài chính, dịch
vụ quản lý, dịch vụ khai thuê hải quan, tư vấn hải quan…
b) Theo loại hình dịch vụ cung ứng


25

Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận tải. Hoạt động vận tải là tiền để để phát
triển hoạt động logistics, là dịch vụ cốt lõi của chuỗi logistics toàn cầu. Vận tỉa có
vai trò rất quan trọng, không thể thiếu với các hàng hóa hữu hình, bởi chỉ có nhờ
vận tải thì hàng hóa mới được chuyển từ người gửi hàng tới người nhận hàng. Các
công ty cung cấp dịch vụ này có phương tiện vận tải (xe tải, xe container, xe cẩu, xe

nâng, tàu biển các loại…) và chủ động trong việc sử dụng phương tiện của mình để
cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Với các doanh nghiệp dịch vụ đơn thuần thì họ sẽ
nhận đơn đặt hàng của khách thụ động và giao hàng đến nơi quy định. Một số
doanh nghiệp vận tải có chuyên môn logistics hơn sẽ được kết nối với hệ thống
quản lý kho của doanh nghiệp, nắm được kế hoạch sản xuất và phân phối của doanh
nghiệp để chủ động lên kế hoạch vận tải, cung cấp cũng như giao hàng cho doanh
nghiệp một cách hiệu quả nhất.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kho bãi. Các doanh nghiệp này có hệ thống
kho, bãi cho thuê để chứa hàng hóa, bảo quản hàng hóa. Có nhiều loại kho bãi khác
nhau với nhiều mục đích, phù hợp với từng loại hàng hóa. Quy mô của kho cũng
khá đa dạng, kho cỡ nhỏ từ 200-1000m2, kho cỡ trung bình có diện tích từ 1005000m2 cho đến quy mô cỡ lớn là trên 5000m2. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
thuê kho bãi ra đời dựa trên nhu cầu của các chủ hàng và người gom hàng, thường
thì kho sẽ là nơi lưu trữ hàng hóa tạm thời trước khi hàng được đưa về nhà máy của
chủ hàng hoặc tập kết trước khi đưa lên tàu. Dịch vụ này ra đời mang lại lợi ích rất
lớn cho tất cả các bên, về mặt kinh tế, thời gian và đảm bảo chất lượng hàng hóa.
Doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ tích hợp. Là những doanh nghiệp đồng
thời cung ứng nhiều dịch vụ trong chuỗi các hoạt động logistics, có thể là kết hợp
giao nhận vận tải với kho bãi, hay kèm theo cả dịch vụ hải quan, quản trị dây
chuyền chuỗi cung ứng và những dịch vụ không trực tiếp liên quan tới dòng hàng
hóa như dịch vụ quản lý, dịch vụ tài chính… Các doanh nghiệp này có tính chuyên
môn hóa cao, mức độ hoạt động hiệu quả, khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng đa
dạng với quy mô lớn nên có thể cung cấp cùng một dịch vụ với chi phí thấp hơn rất
nhiều so với khách hàng tự làm, tăng đáng kể tốc độ lưu thông hàng hóa, đạt được


×