Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.6 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ MINH TRANG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. VÕ ĐÌNH TOÀN

HÀ NỘI – 2018


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………….
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM TRONG
LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM ………………..……………….
1.1. Khái niệm bảo hiểm, các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi của người
được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, ……………………
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm và quyền lợi của người được bảo hiểm trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm………………………………………………..
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi của người được bảo hiểm
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ...........................................................
1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm, căn cứ
đánh giá quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh


bảo hiểm, quan hệ hợp đồng bảo hiểm……………………………………
1.2.1. Khái niệm…………………………………………………………...
1.2.2. Cấu trúc pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm............................................................
1.2.3. Căn cứ đánh giá quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm được bảo đảm ……………………………………...
1.2.4. Chủ thể của hợp quan hệ về quyền lợi của người được bảo hiểm
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, nguyên tắc ký kết hợp đồng ………..
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1…………………………………………………...

1

10
10
10
15
18
18
26
27
27
31

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TỪ GÓC ĐỘ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH BẢO HIỂM……………………………………..……...
32
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm con người và vấn đề bảo vệ
quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo

hiểm………
2.1.1. Quy định của pháp luật về bảo hiểm con người………
2.1.2. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm con người……………………………………………...
2.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ quyền
lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm về
bảo hiểm tài sản ở Việt Nam hiện nay…………

32
32
36

45


2.2.1. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm về bảo hiểm tài sản……………………………..……. 51
2.2.2. Pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm dân sự và vấn đề bảo vệ quyền
lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm………… 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2……………………………………………….. … 69
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM TRONG
LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH
BẢO HIỂM………………………………………………………………….
3.1. Định hướng chung của việc hoàn thiện pháp luật về bảo quyền lợi
của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm………....
3.1.1 Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về
phát triển thị trường bảo hiểm………………………………………………..
3.1.2 Hiện thực hóa Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược

phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011-2020……………...
3.1.3 Giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm
với người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm công khai,
minh bạch đúng pháp luật Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế………
3.1.4 Tái cấu trúc thị trường bảo hiểm…………………………………….
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hướng tới xây dựng một cơ
chế bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm một cách toàn diện, thống nhất………………………....
3.2.1. Giải quyết mối quan hệ điều chỉnh giữa Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Dân sự……………….
3.2.2 Hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền
lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm………….
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3………………………………………………..…
KẾT LUẬN CHUNG ………………………………………..…………….
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................

70
70
72
73

74
76

78
78
80
85
86
87



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tôi xin cam kết
luận văn tốt nghiệp này hoàn thành bởi sự nỗ lực của bản thân cùng với những kiến
thức đã học và tích lũy trong quá trình công tác, cùng với sự hướng dẫn tận tình từ
thầy giáo TS. Võ Đình Toàn đã giúp tôi hoàn thành luận văn này. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả thể hiện trong luận văn này là trung thực và chưa từng công
bố trong bất cứ công trình nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 28 tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Trang


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận
tình của thầy giáo TS. Võ Đình Toàn đã chỉ bảo, Thầy đã giúp đỡ hết lòng cho tôi
trong suốt quá trình tôi viết và hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo, các Cán bộ của phòng đào
tạo - sau đại học và Hội đồng khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội đã truyền đạt cho
tôi những kiến thức bổ ích để tôi hoàn thành bài luận văn này.
Và cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đến các bạn đồng nghiệp, các bạn
học viên trong lớp Cao học Luật kinh tế Viện Đại học Mở Hà Nội toàn thể các
thành viên trong gia đình tôi đã đồng hành cùng tôi trong suốt thời gian tôi theo học
tại trường, họ luôn là những người động viên, chia sẻ với tôi, tạo điều kiện về thời
gian và tinh thần giúp cho tôi hoàn thành hết khóa học của mình.
Hà Nội, ngày 28 tháng 9 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Trang


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

1.

Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm

DNKDBH

2.

Luật Kinh doanh bảo hiểm

3.

Hợp đồng bảo hiểm

4.

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ


5.

Bộ luật Dân sự

6.

Hợp đồng bảo hiểm tài sản

HĐBHTS

7.

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự

BHTNDS

8.

Kinh doanh bảo hiểm

KDBH

9.

Hiệp hội chung về thương mại dịch vụ

GATS

10.


Tổ chức thương mại thế giới

WTO

11.

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

BVQLNTD

12.

Hợp đồng bảo hiểm con người

HĐBHCN

LKDBH
HĐBH
HĐBHNT
BLDS


LỜI NÓI ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa thị trường bảo hiểm, ngành bảo hiểm Việt
Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, các Luật Kinh doanh bảo hiểm (sau đây gọi tắt
là KDBH) được Quốc hội thông qua đã tạo một nền tảng pháp lý cho hoạt động bảo
hiểm phát triển ở Việt Nam.

Việc thu hút lượng đầu tư lớn trong hoạt động KDBH thể hiện sự chuyển biến
về nhận thức, mức độ tiếp cận tham gia các dịch vụ bảo hiểm của người dân, tổ
chức trong thời gian qua. Tính đến hết năm 2017, tổng tài sản toàn thị trưởng bảo
hiểm ước đạt 302.935 tỉ đồng, tăng 23,44% so với năm 2016; tổng số tiền đầu tư trở
lại nền kinh tế ước đạt 247.801 tỉ đồng, tăng 26,74% so với năm 2016. Năm 2018,
Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm kỳ vọng, thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ duy trì
tốc độ tăng trưởng khoảng trên 20%1. Sự phát triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm
về sản phẩm, dịch vụ, chất lượng bảo hiểm ngoài những đóng góp về mặt kinh tế,
còn góp phần giải quyết các vấn đề về mặt xã hội khi đã giải quyết đền bù thiệt hại
cho các doanh nghiệp và người dân tham gia bảo hiểm giúp cho họ vượt qua khó
khăn, tiếp tục ổn định, phát triển sản xuất và đời sống.
Bên cạnh những kết quả tích cực từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì thực
tiễn bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
thời gian qua đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết khi quyền và lợi ích hợp pháp của
người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm chưa được bảo vệ một
cách chính đáng, cụ thể:
Thứ nhất, còn có tình trạng DNKDBH thường đưa ra nhiều “lý do” để thoái
thác nghĩa vụ bảo hiểm. Trường hợp này xảy ra rất nhiều trong thực tiễn khi có sự
kiện bảo hiểm xảy ra doanh nghiệp thường đưa ra rất nhiều lý do để thoái thác trách
1

Phùng Ngọc Khánh, Thị trường bảo hiểm Việt Nam 2017 và triển vọng 2018, mục Trao đổi bình
luận, tạp chí Tài chính.

1


nhiệm, nghĩa vụ thanh toán bảo hiểm cho người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm. Một trong lý do, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, DN bảo hiểm cho
rằng, khách hàng nợ phí bảo hiểm nên hợp đồng bảo hiểm đương nhiên bị chấm dứt

mặc dù hợp đồng đã ký, đã có giấy chứng nhận bảo hiểm.
Thứ hai, để được hưởng bảo hiểm người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm phải trải qua nhiều thủ tục, giấy tờ do phía DNKDBH đưa ra
nhưng pháp luật không có quy định cụ thể và hợp đồng bảo hiểm không có điều
khoản thỏa thuận hoặc không rõ ràng.
Để được tham gia bảo hiểm thì DNKDBH tạo điều kiện rất dễ dãi cho người
tham gia bảo hiểm, miễn là nộp phí bảo hiểm. Tiền bảo hiểm vào thì dễ nhưng khi
sự kiện bảo hiểm xảy ra, DN phải thực hiện trách nhiệm bảo hiểm thì người được
bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phải trải qua rất nhiều thủ tục, cung
cấp rất nhiều loại giấy tờ, khi thì thế này, mai thì thế khác làm cho người được bảo
hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tài
sản vào các thủ tục do phía DNKDBH yêu cầu. Việc cung cấp, chứng minh để
hưởng bảo hiểm thuộc trách nhiệm của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ bảo
hiểm thì cần minh bạch, công khai những thủ tục, giấy tờ cần thiết để chứng minh
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra từ phía quy định pháp luật, hợp đồng. Việc trải qua
nhiều thủ tục, nhiều loại giấy tờ không cần thiết, tự ý của phía DNKDBH đưa ra
trong thời gian không những ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người được bảo
hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm mà còn ảnh hưởng đến niềm tin của người
khác về việc tham gia bảo hiểm.
Thứ ba, người tham gia bảo hiểm không được thông tin đầy đủ, đảm bảo
quyền lợi khi tham gia bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là một trong những loại hợp đồng phức tạp, có nội dung
kỹ thuật khó hiểu đặc biệt là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, các điều khoản, quy định
thường rất phức tạp, người mua bảo hiểm không dễ để hiểu được tất cả mọi điều

2


khoản, đặc biệt đối với Việt Nam khi người dân, tổ chức chưa có truyền thống sử

dụng dịch vụ bảo hiểm. Do vậy, khách hàng bảo hiểm cần được tư vấn viên hoặc
đại lý bảo hiểm giải thích kỹ càng…. Tuy nhiên, thực tế việc thực hiện trách nhiệm,
nghĩa vụ này của doanh nghiệp không được được đảm bảo, nhất là các điều khoản
bất lợi cho khách hàng. Người tham gia bảo hiểm thường chỉ được tư vấn các vấn
đề “tích cực” điểm lợi khi tham gia bảo hiểm mà ít được tư vấn về các vấn đề liên
quan để hưởng được tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm phát sinh. Thực tiễn ghi
nhận rất nhiều trường hợp người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm rơi vào thế bất lợi do không được tổ chức bảo hiểm tư vấn, giải thích các điều
khoản trong hợp đồng khi xác lập các loại hợp đồng bảo hiểm về con người, tài sản,
trách nhiệm dân sự. Trường hợp sử dụng dịch vụ tư vấn của luật sư thì thường
không thích hợp với khả năng tài chính của người dân. Việc hợp đồng khó hiểu và
việc khách hàng không đọc kỹ các điều khoản trong hợp đồng mà chỉ nghe tư vấn
viên hoặc đại lý bảo hiểm giới thiệu rồi ký hợp đồng mua bảo hiểm không phải là
chuyện hiếm, để rồi tự đặt mình vào thế bất lợi khi sự việc xảy ra.
Thứ tư, khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, Doanh nghiệp KDBH thường lợi dụng
“sơ hở” của pháp luật, người tham gia bảo hiểm khi ký kết hợp đồng cách thoái
thác trách nhiệm
Theo Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm về trách nhiệm cung cấp thông tin,
thì cả doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đều có nghĩa vụ cung cấp
thông tin đầy đủ cho nhau và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của
thông tin đó. Cả hai bên đều có quyền đơn phương đình chỉ việc thực hiện hợp đồng
bảo hiểm khi một bên vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ hành vi cố ý
cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng từ bên mua bảo hiểm hoặc từ
doanh nghiệp bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng thì có thể coi việc cố ý cung cấp
thông tin sai là hành vi lừa dối và có thể đều dẫn đến một hậu quả pháp lý hợp đồng
vô hiệu theo quy định tại Điều 22 Luật KDBH: “Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong
các trường hợp sau đây: d) Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có
hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm…”, và khoản 2 Điều 22 Luật KDBH
3



quy định việc xử lý hợp đồng bảo hiểm vô hiệu được thực hiện theo quy định của
Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan, thế nhưng trên thực
tế cách thức giải quyết trong hai trường hợp lại hoàn toàn khác nhau. Theo quy định
tại Điều 122 Bộ luật dân sự 2015 thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Khi giao dịch dân sự
vô hiệu thì các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận… và bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Thực tế trong thời gian qua
DN KDBH đã dựa vào quy định này để tuyên bố nhiều hợp đồng bảo hiểm vô hiệu
để thoái thác trách nhiệm.2
Từ thực tiễn giải quyết các tranh chấp và nghiên cứu về thực trạng trên, tôi
cho rằng, một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quyền lợi của người
được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm đó là hệ thống pháp luật về kinh
doanh bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm chưa hoàn thiện còn bất cập với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Thứ nhất, các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ về quyền lợi của người
được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm còn thiếu cụ thể, còn phức tạp.
Điều này thể hiện rõ nhất về căn cứ xác định hợp đồng bảo hiểm vô hiệu hay
xác định khi nào hợp đồng bảo hiểm phát sinh hiệu lực cũng như xác định “lỗi” làm
căn cứ để một bên tuyên bố hợp đồng vô hiệu hoặc hủy hợp đồng. Điều này dẫn đến
sự “tùy tiện” tuyên hợp đồng bảo hiểm vô hiệu, hủy hợp đồng bảo hiểm từ phía
DNKDBH khi phát sinh trách nhiệm bảo hiểm. Bên cạnh đó, do pháp luật không quy
định về trình tự thủ tục để hưởng bảo hiểm mà dành cho doanh nghiệp bảo hiểm “tự
quy định” dẫn đến sự thiếu minh bạch, không rõ ràng trong quy trình để người được
bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thực hiện quyền của mình.
Thứ hai, quy định của pháp luật về quyền lợi có thể được bảo hiểm chưa hợp
lý với bản chất của bảo hiểm con người.

2


Ví dụ dẫn chứng tại địa chỉ: />
4


Theo quy định của LKDBH thì “quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng,
cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm”. Thực chất, quyền lợi có thể được bảo
hiểm quy định như trên chỉ là những quyền lợi vật chất thuần tuý của bên mua bảo
hiểm đối với đối tượng bảo hiểm. Trên thực tế, bảo hiểm con người không mang
yếu tố bồi thường thiệt hại, mà là sự bù đắp tổn thất tính mạng, sức khoẻ của người
được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm đối với chính người này và
người thân của họ (đồng thời có thể có yếu tố tiết kiệm như trong bảo hiểm nhân
thọ chẳng hạn). Chính vì vậy, những lợi ích tinh thần cần phải được đánh giá đúng
mức nhằm xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm như quan hệ hôn nhân, quan hệ
ông bà với cháu, giữa chủ sử dụng lao động và người lao động v.v.., trong bảo hiểm
con người.
Thứ ba, các chế tài xử lý DNKD BH chưa tương xứng với tính chất hành vi
vi phạm
Pháp luật dân sự, KDBH đặt ra nhiều quy định về trách nhiệm dân sự trong đó
có trách nhiệm của DN KDBH trong hoạt động KDBH. Từ những quy định về nghĩa
vụ cung cấp thông tin, nghĩa vụ thanh toán tiền bảo hiểm kịp thời... tuy nhiên khi sự
kiện bảo hiểm xảy ra, DNKDBH vẫn dây dưa, tìm đủ các lý do để chậm thanh toán
tiền bảo hiểm như là thiếu giấy tờ nọ kia, cần phải giám định thêm về thiệt hại… điều
này ảnh hưởng đến cả phần lợi ích trong khoảng thời gian không khai thác được tài
sản (Ví dụ như phương tiện giao thông, tài sản hoa lợi…). Tuy theo Luật Kinh doanh
bảo hiểm thì “khoản lợi ích mà đáng lẽ họ được hưởng” đó, không là căn cứ để công
ty bảo hiểm bồi thường, nhưng không vì thế mà pháp luật để cho doanh nghiệp bảo
hiểm có thể “cao su” trong việc thực hiện trách nhiệm của mình.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp
luật dân sự, Luật KDBH liên quan đến quyền lợi của người được bảo hiểm trong

lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là hết sức cần thiết để không những đảm bảo lợi ích
cho các bên khi tham gia bảo hiểm nói chung, người được bảo hiểm nói riêng mà

5


còn góp phần thúc đẩy thị trường dịch vụ bảo hiểm ở Việt Nam phát triển, góp phần
tích tụ vốn cho đầu tư của nền kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có thể kể đến một số
nghiên cứu như: Trần Vũ Hải, 2006. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, những vấn đề lý
luận và thực tiễn. Nxb Tư pháp; Lê Thị Thảo, T11/2010. Vai trò và trách nhiệm của
đại lý bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nghiên cứu lập pháp
21(182): tr 51-54; Nguyễn Vũ Hoàng. Những khía cạnh kinh tế và luật pháp về bảo
hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển trong thương mại quốc tế; Trần Hồng
Thành, 2005. Về cơ chế giám sát việc giao kết hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu có giá trị lớn. Tòa án nhân dân 21: tr 22-24; Trần Vũ Hải,
2006.Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Luật học 7: tr 8-13;
Phí Thị Quỳnh Nga, 2006. Những bất cập của điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo
hiểm trong luật kinh doanh bảo hiểm. Nghiên cứu lập pháp 10: tr 51-55; Nguyễn
Như Tiến, 2006. Thị trường bảo hiểm Việt Nam cơ hội và thách thức trong quá
trình hội nhập. Nxb Lý luận chính trị; Phạm Văn Tuyết, 2007. Bảo hiểm và kinh
doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam. Nxb Tư pháp; Phạm Nguyệt Thảo, 2007.
Một số vấn đề pháp lý về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Tạp chí luật học 12: tr4956; Trương Tân Ngọc, 2007. Mối quan hệ giữa người yêu cầu bồi thường tổn hại
nhân thân thông thường và quyền đề nghị bồi thường bảo hiểm. Luật học Trung
Quốc số 02, kỳ 136: tr 52-66; Trần Vũ Hải, 2008. Điều khoản mẫu trong hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ. Tạp chí luật học số 8: tr 14-20; Nguyễn Văn Thành, Nguyễn
Văn Hiệu, 2008. Xu thế hoạt động bảo hiểm – Ngân hàng và việc hình thành quỹ

bảo vệ người tham gia bảo hiểm nhân thọ. Ngân hàng số 9: tr 46-48; Nguyễn Mậu
Tuân, 2008. Bảo hiểm trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Lý luận chính trị số 2: tr 75-77; Trần Vũ Hải, tháng 9/2008. Các
nội dung chưa hợp lý trong luật kinh doanh bảo hiểm. Nghiên cứu lập pháp số

6


14(130): tr 34-38; Hoàng Thị Hằng, 2009. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong điều
kiện nền kinh tế thị trường. Dân chủ và pháp luật số 8: tr 28-31…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung khai thác các vấn
đề về quản lý, kinh doanh trong hoạt động bảo hiểm hướng tới đối tượng là các tổ
chức bảo hiểm, trong khi các bài nghiên cứu về cơ chế bảo vệ người được bảo hiểm
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ.
Từ những vấn đề nêu trên, đặt trong bối cảnh các nhà nghiên cứu pháp luật và
các nhà nghiên cứu chính sách đang mong muốn tìm kiếm giải pháp tháo gỡ những
khó khăn cho hệ thống bảo hiểm hướng tới nâng cao việc bảo vệ quyền lợi cho người
được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Do đó, việc nghiên cứu đề tài:
“Bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
theo pháp luật Việt Nam” là rất cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chung: Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi
của người được bảo hiểm trên cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng pháp luật.
Nhiệm vụ nghiên cứu gồm:
 Nghiên cứu lý luận: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật bảo vệ quyền
lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
 Nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước điều chỉnh quan hệ giữa
người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm trong việc bảo vệ quyền lợi của
người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
 Nghiên cứu thực trạng pháp luật hiện hành và các biện pháp bảo vệ quyền

lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
 Nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật
để đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm thông
qua việc sửa đổi BLDS, Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản pháp luật khác có
liên quan.
7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống quy định pháp luật hiện hành về quyền
lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm liên quan đến
trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu pháp luật trong kinh doanh theo Luật
Kinh doanh bảo hiểm nhìn từ góc độ bảo vệ người tiêu dùng. Đối với các loại hình
bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế…cũng như các
vấn đề liên quan đến doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm lâm vào tình trạng phá sản,
giải thể không thuộc đối tượng nghiên cứu của Đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên, phương pháp luận nghiên cứu là
phép biện chứng duy vật, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp dụng là phân
tích, tổng hợp, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
- Hệ thống các quan điểm đã góp phần làm rõ thêm lý luận pháp luật về bảo vệ
quyền lợi của người được bảo hiểm.
- Đánh giá đúng thực trạng, phát hiện những bất cập liên quan đến pháp luật
về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm.
- Xác định được định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến
bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm góp phần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này.
7. Cơ cấu luận văn

Ngoài lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được thực hiện theo
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm và pháp luật về bảo vệ quyền lợi
của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm

8


Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm từ góc độ bảo vệ quyền lợi của
người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi
của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm

9


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM

1.1. Khái niệm bảo hiểm, các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi của người được bảo
hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm và quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm
Bảo hiểm với đặc tính là dịch vụ thương mại xuất hiện rất sớm trong lịch sử
nhân loại.
Bảo hiểm với đặc tính là dịch vụ thương mại là hình thức bảo hiểm ngày càng
có vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội. Hình thức bảo hiểm mang tính thương
mại đầu tiên xuất hiện ở Babylone vào khoảng 1.700 năm trước công nguyên.

Hiện nay, trong các tài liệu nghiên cứu, trong các văn bản pháp luật ở nước
ta cũng như ở nhiều nước có sự định danh không thống nhất về hình thức bảo
hiểm mang tính thương mại như: Bảo hiểm rủi ro, bảo hiểm nhà nước, bảo hiểm
thương mại...
Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, ở nước ta cũng như phổ biến
ở các nước xã hội chủ nghĩa, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động độc quyền
của nhà nước nên loại hình bảo hiểm này được gọi là bảo hiểm nhà nước.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường Nhà nước thừa nhận và bảo đảm sự tồn tại,
phát triển của các thành phần kinh tế theo nguyên tắc bình đẳng, cạnh tranh trong
khuôn khổ pháp luật. Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Nhà nước cho phép các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thực hiện hoạt động kinh doanh. Do đó, hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực này không còn thuần túy mang tính nhà nước như
trước.
10


Hoạt động kinh doanh bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện với
tư cách là người bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm lập quỹ bảo hiểm trên cơ sở
đóng góp phí bảo hiểm của người mua bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang đặc tính của ngành kinh doanh dịch vụ.
Hoạt động này làm phát sinh các mối quan hệ giữa các chủ thể sau:
Người mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với
doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm.
Như vậy, người mua bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là một bên
giao kết hợp đồng bảo hiểm, có thể có các tư cách chủ thể sau:
- Là người được bảo hiểm: Nếu người mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài
sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm cho
quyền lợi của chính mình.
- Là người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm: Nếu người mua bảo hiểm ký hợp
đồng để mua bảo hiểm cho quyền lợi của chính mình.

- Là người có quyền chuyển giao quyền lợi bảo hiểm cho tổ chức, cá nhân
khác. Trong bảo hiểm con người nếu người mua bảo hiểm chỉ định cho tổ chức, cá
nhân hưởng quyền lợi bảo hiểm thì tổ chức, cá nhân này là người thụ hưởng quyền
lợi bảo hiểm.
Để được hưởng quyền lợi bảo hiểm, người mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng
phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà
người mua bảo hiểm có nghĩa vụ nộp cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và
phương thức do các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm của người mua bảo hiểm, người
được hưởng lợi ích bảo hiểm sẽ được đền bù khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

11


Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên dự liệu trong hợp đồng
bảo hiểm hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra trên thực tế thì bên
bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm) phải thanh toán bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được thụ hưởng. Sự kiện bảo hiểm có thể là các rủi ro và
cũng có thể là sự kiện khác do các bên thỏa thuận. Việc thanh toán bảo hiểm có thể
thực hiện bằng tiền hoặc hiện vật.
Quỹ bảo hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để bồi thường, bù đắp
cho những trường hợp thuộc diện được bảo hiểm. Chính nhờ phương thức thu phí
bảo hiểm của số đông và chỉ chi trả khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra trên thực tế mà
tạo ra thu nhập (lợi tức) cho doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, việc sử dụng quỹ bảo
hiểm trong thời gian nhàn rỗi để đầu tư cũng tạo nên thu nhập cho loại hình doanh
nghiệp này.
Doanh nghiệp bảo hiểm là bên cung ứng dịch vụ bảo hiểm.
Quan hệ bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng trong việc mua
bảo hiểm gọi là bảo hiểm gốc.

Để phân tán rủi ro, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm có thể cùng ký kết hợp đồng
bảo hiểm với bên mua bảo hiểm để thực hiện một dịch vụ bảo hiểm, gọi là đồng bảo
hiểm. Đồng bảo hiểm thiết lập giữa nhiều doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo
hiểm trong một dịch vụ bảo hiểm cũng thuộc loại quan hệ bảo hiểm gốc. Ngoài
phương thức đồng bảo hiểm, để phân tán rủi ro, sau khi thiết lập quan hệ bảo hiểm
với khách hàng, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thực hiện việc tái bảo hiểm.
Tái bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm chuyển trách nhiệm bảo hiểm với
rủi ro đã chấp nhận bảo hiểm cho một hoặc nhiều doanh nghiệp bảo hiểm theo mức
phí bảo hiểm tương ứng.
Tái bảo hiểm là phương thức phân tán rủi ro mà doanh nghiệp bảo hiểm nhận
bảo hiểm được chuyển giao bằng việc doanh nghiệp bảo hiểm hoặc doanh nghiệp
chuyên doanh tái bảo hiểm tiếp nhận trách nhiệm bảo hiểm đối với rủi ro mà doanh
nghiệp bảo hiểm cam kết bảo hiểm với người mua bảo hiểm. Để phân tán trách
12


nhiệm bảo hiểm, bảo đảm an toàn trong kinh doanh, sau khi nhận tái bảo hiểm,
doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm có thể chuyển giao trách nhiệm tái bảo hiểm cho
doanh nghiệp bảo hiểm (hoặc doanh nghiệp chuyên doanh tái bảo hiểm) khác gọi là
nhượng tái bảo hiểm. Theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa
đổi bổ sung năm 2010 của nước ta, tái bảo hiểm là một loại hình kinh doanh trong
lĩnh vực bảo hiểm. Tuy vậy, kinh doanh tái bảo hiểm mang đặc tính là hoạt động
kinh doanh có tính phái sinh từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động do doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nhằm
mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm cam kết và thực hiện thanh toán
bảo hiểm (trả tiền hoặc bồi thường) khi xảy ra sự kiện bảo hiểm trên cơ sở bên mua
bảo hiểm đóng phí bảo hiểm.
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm, pháp luật của Việt Nam cũng như các nước
phân chia kinh doanh bảo hiểm làm ba nhóm chính:
- Bảo hiểm tài sản: Là loại hình bảo hiểm mà theo đó doanh nghiệp bảo hiểm

sẽ trả tiền hoặc đền bù bằng tài sản cho giá trị tài sản của người được bảo hiểm khi
có rủi ro xâm hại.
- Bảo hiểm con người: Là loại hình bảo hiểm mà theo đó doanh nghiệp bảo
hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm liên quan đến tuổi thọ,
tính mạng, sức khỏe và tai nạn của người được bảo hiểm.
Bảo hiểm con người gồm có:
+ Bảo hiểm nhân thọ;
+ Bảo hiểm con người phi nhân thọ.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Là loại hình bảo hiểm mà theo đó doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm cho người bị thiệt hại khi người mua bảo hiểm
phát sinh nghĩa vụ dân sự phải đền bù cho người đó. Theo điều 8 Luật Kinh doanh
bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2010) bảo hiểm trách
nhiệm dân sự là một loại hình bảo hiểm bắt buộc.

13


Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh dịch vụ tài chính. Do đó, người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm là người có quyền lợi cần được pháp luật bảo hộ. Pháp
luật của các nước về kinh doanh bảo hiểm không có định nghĩa riêng thế nào là
quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên,
quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có thể nhận
diện qua suy đoán từ quyền lợi của người tiêu dùng hưởng dịch vụ của nhà kinh
doanh.
Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
(Luật số 59/2010/QH12 thì "người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch
vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức". Như vậy,
người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là một dạng "người tiêu
dùng". Người tiêu dùng là người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm có quyền lợi đó là được doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán tiền bảo hiểm

(hoặc đền bù tài sản) khi xảy ra sự kiện bảo hiểm hoặc các sự kiện do các bên thỏa
thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là
lợi ích vật chất của người thụ hưởng, người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm được pháp luật thừa nhận. Chính vì vậy, trong hợp đồng bảo
hiểm không có điều khoản về quyền lợi phi vật chất của các bên. Tùy thuộc vào
từng loại hình bảo hiểm mà quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm được xác định, cụ thể:
- Trong bảo hiểm con người, quyền lợi bảo hiểm là số tiền bảo hiểm hoặc
phương thức xác định số tiền bảo hiểm được bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Trong bảo hiểm tài sản, quyền lợi bảo hiểm là số tiền mà bên mua bảo hiểm
yêu cầu bảo hiểm cho tài sản đó.

14


- Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, quyền lợi bảo hiểm là số tiền mà doanh
nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng
bảo hiểm.
Ở đây cần có sự phân biệt quyền lợi bảo hiểm với quyền lợi có thể được bảo
hiểm. Quyền lợi bảo hiểm của người mua bảo hiểm đó là lợi ích vật chất của người
mua bảo hiểm mà khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải
đền bù vật chất (trả tiền hoặc thay thế vật) theo thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng bảo hiểm. Còn khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm dùng để chỉ những
đối tượng mà người mua bảo hiểm có thể mua bảo hiểm để khắc phục những bất lợi
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Khoản 9 Điều 3 của Luật Kinh doanh bảo hiểm quy
định: Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được
bảo hiểm.

1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm
1.1.2.1. Đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, khi doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
nhận phí bảo hiểm do bên bảo hiểm đóng thì họ không chuyển giao tài sản hay một
loại sản phẩm hữu hình mà người mua bảo hiểm chỉ nhận được cam kết từ phía
doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này đặt ra yêu cầu là người có quyền lợi được bảo
hiểm phải hiểu biết pháp luật và hợp đồng bảo hiểm. Mặt khác, về phương diện lập
pháp, nhà nước cần có các quy định cụ thể, minh bạch thì mới có cơ sở để bảo vệ
quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm .
1.1.2.2. Chính sách của nhà nước
Chính sách của nhà nước đối với việc phát triển thị trường kinh doanh bảo
hiểm ảnh hưởng tới phạm vi cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng của doanh
nghiệp bảo hiểm và đương nhiên ảnh hưởng tới quyền lợi của người được bảo hiểm
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm . Điều này thể hiện ở chỗ, khi quyền tự do kinh
15


doanh của doanh nghiệp bảo hiểm được mở rộng thì khả năng hưởng lợi của người
được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cũng có thể tăng lên nếu như họ
hiểu biết về bảo hiểm. Tuy nhiên, lợi ích của người được bảo hiểm trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm cũng có thể đi theo chiều hướng bất lợi nếu họ không hiểu biết
về bảo hiểm và các rủi ro có thể phát sinh do hợp đồng bảo hiểm được ký kết có
nhiều lỗ hổng gây bất lợi cho người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm.
Vấn đề đặt ra là để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm thì việc tạo lập môi trường dịch vụ tài chính nói chung, dịch
vụ bảo hiểm nói riêng thông thoáng nhưng minh bạch là cần thiết.
1.1.2.3. Luật pháp quốc tế và tập quán quốc tế
Trên cơ sở nội luật hóa, luật pháp quốc tế trở thành một nguồn quan trọng của pháp

luật quốc gia. Theo Jerome Yeatman (2001) các thị trường liên minh Châu Âu trong lĩnh
vực bảo hiểm luôn có ý nghĩa quan trọng trong nhiều trường hợp có thể làm thay đổi căn
bản các quy định pháp luật của các quốc gia thành viên3.
Riêng những quy định trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS)
trong khuôn khổ tổ chức thương mại thế giới (WTO) có ý nghĩa ràng buộc với các
nước thành viên. Theo GATS thì bảo hiểm chia làm hai sản phẩm chính là bảo hiểm
nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Việt Nam sau khi gia nhập WTO đã mở cửa thị
trường bảo hiểm đối với tất cả các loại dịch vụ bảo hiểm, trừ bảo hiểm y tế.
Ngoài các quy định của pháp luật quốc tế, tập quán quốc tế về bảo hiểm cũng
có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh bảo hiểm, trong đó có vấn đề bảo hiểm quyền lợi
của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, với tư cách là bên có
lợi ích trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Tập quán quốc tế về bảo hiểm được quan
niệm phổ biến là chuẩn mực chung, áp dụng rộng rãi trong đời sống quốc tế. Chính
vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm, pháp luật quốc gia cần thể hiện tinh thần phổ quát của tập quán quốc tế.
3

Giáo khoa quốc tế về bảo hiểm, Nxb Thống Kê, Hà Nội, (2001) tr123

16


1.1.2.4. Năng lực thi hành pháp luật
Năng lực thi hành pháp luật là khả năng về nhận thức, khả năng về điều kiện thi
hành pháp luật. Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, năng lực thi hành pháp luật để
bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm được đánh
giá ở các yếu tố sau:
Thứ nhất, nhận thức của người mua bảo hiểm đóng vai trò quan trọng bậc
nhất. Bởi vì, dù ở bất kỳ môi trường pháp lý - chính trị nào thì người có quyền lợi
phải nhận thức đúng, đủ quyền lợi của mình trong việc thiết lập quan hệ pháp luật

và phản kháng khi quyền lợi bị xâm hại. Thực tế ở nhiều nước, ở nhiều thị trường
bảo hiểm cho thấy khi người mua bảo hiểm (người có quyền lợi được bảo hiểm) có
nhận thức cao về bảo hiểm thì ít xảy ra tranh chấp và ngược lại, với nhận thức thấp
sẽ dẫn tới tranh chấp nhiều hơn.
Thứ hai, các điều kiện để bảo đảm quyền lợi của người được bảo hiểm trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm gồm năng lực tài chính của người được bảo hiểm
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm khi tham gia tố tụng và cơ chế quản lý của nhà
nước là yếu tố không thể thiếu được trong cấu thành năng lực thi hành pháp luật để
bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Trong hai yếu tố này thì cơ chế quản lý nhà nước có vai trò rất quan trọng. Điều này
thể hiện ở chỗ, ngoài sự minh bạch, thống nhất của hệ thống pháp luật thì bộ máy,
con người thi hành pháp luật là yếu tố bảo đảm pháp luật được thi hành trên thực tế.
Ngoài hai yếu tố trên đây thì môi trường cạnh tranh trong kinh doanh bảo
hiểm cũng tác động trực tiếp đến thi hành pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người
được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Điều này có thể lý giải rằng,
nếu môi trường kinh doanh không lành mạnh thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể vì
lợi nhuận mà chà đạp lên lợi ích của khách hàng. Ngoài ra, một vấn đề cần phải chú
trọng đó là năng lực của cơ quan tài phán tranh chấp mà trụ cột là hệ thống tòa án.
Nếu năng lực của tòa án không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn thì khả năng thi
hành pháp luật chỉ có ý nghĩa khi chưa có tranh chấp.

17


1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm. Căn cứ đánh giá
quyền lợi của người được bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, quan
hệ hợp đồng bảo hiểm.
1.2.1. Khái niệm
Ở Thái Lan cũng tương tự Việt Nam và phổ biến ở nhiều nước, người được
bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm được được xem là người tiêu dùng

dịch vụ bảo hiểm. Trong hệ thống pháp luật, các quy định về bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng nói chung được quy định trong pháp luật bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng được xem là luật chung, còn các đạo luật về kinh doanh bảo hiểm là
luật chuyên ngành quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người được bảo hiểm
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Ở Thái Lan, Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 1979 và Luật về tiếp thị và bán
hàng trực tiếp năm 2002 là hai luật trọng tâm bảo vệ người tiêu dùng. Theo đó, Luật
Bảo vệ người tiêu dùng quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng,
của chủ thể kinh doanh và cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng và điều chỉnh ba lĩnh vực chính: bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực
quảng cáo, vấn đề ghi nhãn mác và hợp đồng. Luật về tiếp thị và bàn hàng trực tiếp
bảo vệ người tiêu dùng thông qua giám sát, quản lý hoạt động tiếp thị và bán hàng
trực tiếp của doanh nghiệp. Văn phòng Ủy ban Bảo vệ người tiêu dùng (Office of
the Consumer Protection Board) trực thuộc Văn phòng Thủ tướng Chính phủ là cơ
quan trung ương về bảo vệ người tiêu dùng. Văn phòng thành lập theo quy định của
Luật Bảo vệ người tiêu dùng và chịu trách nhiệm thực thi 2 nguồn luật này ở Thái
Lan.
Ngoài Luật Bảo vệ người tiêu dùng và Luật tiếp thị và bán hàng trực tiếp, còn
có các luật khác có liên quan như: Luật các điều khoản hợp đồng không lành mạnh
A.D.1997, Luật Cạnh tranh Thương mại năm 1999, Luật giao dịch điện tử
A.D.2001, Luật về lương thực, thực phẩm A.D.1979, Luật Dược phẩm A.D.1958,
Luật về mỹ phẩm A.D.1992.

18


Bên cạnh các văn bản luật, Thái Lan còn xây dựng chính sách phát triển con
người và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chính phủ áp dụng thuế tiêu thụ hàng hóa
cho những hàng hóa có hại tới sức khỏe con người nhằm thay đổi thói quen tiêu
dùng cá nhân, tránh và ngăn chặn những thói quen tiêu dùng có hại cho sức khỏe,

sử dụng những nguồn thu đó để cải thiện sức khỏe và các hoạt động xã hội. Dựa
trên tiêu chí an toàn cuộc sống và xã hội, Chính phủ thúc đẩy người dân với thu
nhập thấp và trung bình có được nơi cư trú cho riêng mình thông qua các khoản cho
vay dài hạn với lãi suất thích hợp để những người này có thể trả nhiều lần và thông
qua các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng.
Nếu như Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)
của Việt Nam quy định chung về doanh nghiệp bảo hiểm (Chương III, từ Điều 58
đến Điều 73) thì Đạo luật Bảo hiểm nhân thọ của Thái Lan quy định rất cụ thể về
Công ty kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, cụ thể:
Về hình thức tổ chức kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, hoạt động kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ chỉ được tiến hành khi thành lập công ty hữu hạn theo quy định
của Luật dân sự và Luật thương mại hoặc công ty công cộng hữu hạn tuân theo quy
định của Luật công ty công cộng hữu hạn nhà nước; và đã được cấp Giấy phép hoạt
động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ với sự phê chuẩn của Chính phủ.
Việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty công cộng hữu hạn
phải được Bộ trưởng Bộ Tài chính chấp thuận với sự phê chuẩn của Chính phủ.
Khi công ty hữu hạn hoặc công ty công cộng hữu hạn đã đăng ký và ký quỹ
theo quy định và duy trì quỹ vốn theo quy định, trong thời gian 6 tháng kể từ khi
đăng ký thành lập, công ty phải nộp đơn xin giấy phép hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ lên Bộ trưởng Tài chính xem xét.
Một đặc điểm đáng chú ý là pháp luật của Thái Lan quy định rất rõ:
Hợp đồng bảo hiểm bao gồm cả các tài liệu có liên quan và bản sửa đổi bổ
sung phải theo hình thức, nội dung đã được Người đứng đầu cơ quan quản lý bảo
hiểm phê chuẩn.
19


×