Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm qua thực tiễn tại tòa án nhân dân tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.27 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TRANH CHẤP KINH DOANH
THƢƠNG MẠI THEO THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM
QUA THỰC TIỄN TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC

LÊ MINH HOÀNG

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TRANH CHẤP KINH DOANH
THƢƠNG MẠI THEO THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM
QUA THỰC TIỄN TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC

LÊ MINH HOÀNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tác giả, có sự hỗ
trợ từ Giảng viên hướng dẫn là PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh. Các nội dung nghiên
cứu và kết quả trong đề tài là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ
trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh
giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong
phần tài liệu tham khảo. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và
nguyên bản của Luận văn.
Hà Nội, ngày 28 tháng 9 năm 2018

Tác giả luận văn

Lê Minh Hoàng


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn, ngoài sự nỗ lực của
bản thân, em đã nhận được sự giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý nhiệt tình của
quý thầy cô tại Viện Đại học Mở Hà Nội.
Trước hết, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, quý thầy cô Khoa Luật
kinh tế, Khoa Sau đại học Viện Đại học Mở Hà Nội và quý thầy cô tham gia giảng
dạy đã tận tình truyền đạt kiến thức, giúp đỡ em trong thời gian học tập. Đặc biệt,
em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh đã dành nhiều thời
gian, công sức trong giảng dạy và hướng dẫn em hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Em xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc là nơi
em công tác đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em thực hiện Luận văn tốt nghiệp.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể lớp cao học Luật K5.3 Viện Đại học
Mở Hà Nội, bạn bè và đồng nghiệp đã hỗ trợ trong quá trình thu thập tài liệu, chia
sẻ những kinh nghiệm hữu ích để thực hiện đề tài.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè là nguồn động viên
lớn, tạo điều kiện và hết lòng chăm sóc, khuyến khích em tham gia học tập và
nghiên cứu, để em có thể hoàn thành luận văn này.
Luận văn là thành quả sự nỗ lực của cá nhân tác giả trong thời gian qua. Tuy
nhiên, do kiến thức bản thân còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý quý báu của quý thầy cô và các bạn để
Luận văn này được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 9 năm 2018

Tác giả luận văn

Lê Minh Hoàng


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
Chƣơng 1. THỦ TỤC SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI ......6
1.1. Khái niệm thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại ...............................6
1.2. Đặc điểm của thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại .......................10
1.3. Thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện
hành .......................................................................................................................12
1.3.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh thương mại .................................12
1.3.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại ........................16
1.3.3. Phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại ...................................24

Kết luận Chương 1 ................................................................................................37
Chƣơng 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
KINH DOANH, THƢƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH
PHÚC........................................................................................................................39
2.1. Thực tiễn áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại ở
Việt Nam hiện nay ................................................................................................39
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc ..................................................42
2.2.1. Các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc ảnh hưởng đến giải quyết vụ án kinh doanh thương mại tại Tòa
án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc .............................................................................42
2.2.2. Kết quả giải quyết vụ án kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc ..................................................................................................47
2.2.3. Những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại trong việc giải quyết vụ án
KDTM tại TAND tỉnh Vĩnh Phúc ...................................................................49
Kết luận Chương 2 ................................................................................................63
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ...............................................................64


3.1. Phương hướng hoàn thiện ..............................................................................64
3.1.1. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ............................................64
3.1.2 Về mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân ..........................................64
3.1.3. Chú trọng cải cách tư pháp ở Việt Nam và việc đảm bảo thực hiện các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết án kinh doanh thương mại ......................................................................66
3.2. Giải pháp hoàn thiện ......................................................................................68
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương
mại ....................................................................................................................68

3.2.2. Giải pháp thực hiện pháp luật về thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh
thương mại ........................................................................................................76
Kết luận Chương 3 ................................................................................................89
KẾT LUẬN ..............................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

KDTM

Kinh doanh, thương mại

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKS

Viện kiểm sát

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

HĐXX

Hội đồng xét xử

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, thủ tục giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại tại Tòa án thực hiện theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự (BLTTDS) về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự nói chung. Trong đó, thủ tục sơ
thẩm vụ án kinh doanh, thương mại bao gồm các thủ tục như xem xét điều kiện thụ lý
vụ án, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án và xét xử sơ thẩm vụ án.
Những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các
quan hệ dân sự nói chung, quan hệ thương mại nói riêng nảy sinh ngày càng đa
dạng, theo đó những vụ án kinh doanh, thương mại Tòa án phải thụ lý, giải quyết
ngày càng nhiều và phức tạp. Riêng tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc thì loại vụ
án này Tòa án phải thụ lý giải quyết đang có chiều hướng gia tăng và phức tạp bởi
Vĩnh Phúc trước đây là một tỉnh thuần nông với cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm tỉ
trọng lớn, nhưng những năm gần đây cơ cấu kinh tế dần chuyển sang công nghiệp

và dịch vụ, tốc độ đô thị hóa nhanh, trình độ dân trí không đồng đều. Do vậy các vụ
án kinh doanh, thương mại phát sinh với giá trị tài sản tranh chấp rất lớn và ngày
càng phức tạp.
Ngày 25/11/2015 Quốc hội ban hành Bộ luật tố tụng dân sự mới, có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2016 với nhiều quy định mfgvới về trình tự, thủ tục giải quyết
vụ án dân sự nói chung và trình tự, thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án kinh doanh,
thương mại nói riêng. Việc nghiên cứu về trình tự, thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại là rất cần thiết khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 mới
được thi hành, việc áp dụng còn nhiều vướng mắc. Xuất phát từ những lý do trên,
tác giả đã lựa chọn đề tài “Giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại theo thủ tục
xét xử sơ thẩm qua thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài luận
văn thạc sĩ luật học của mình.

1


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự nói chung và thủ tục sơ thẩm vụ án kinh
doanh, thương mại nói riêng đã được giới khoa học pháp lý và nhất là những người

trực tiếp làm công tác xét xử của ngành Tòa án quan tâm nghiên cứu. Nhiều vấn đề
còn vướng mắc khi áp dụng BLTTDS trong thực tiễn giải quyết các vụ án đã được
các bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý đề cập, trao đổi như:
- Bài viết “Sự tương thích trong các quy định của pháp luật Việt Nam về biện

pháp khẩn cấp tạm thời” của tác giả Trần Phương Thảo đăng trên tạp chí Tòa án
nhân dân Số 5 - 2018;
- Bài viết “Một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng các quy định của Bộ luật tố

tụng dân sự năm 2015 trong giải quyết vụ án dân sự và đề xuất, kiến nghị” của tác

giả Nguyễn Thị Hương đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 5 - 2018;
- Bài nghiên cứu “Hòa giải vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm”

của tác giả Nguyễn Hữu Minh - Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đăng
trên tạp chí điện tử Tòa án nhân dân ngày 20 tháng 3 năm 2018;
- Bài nghiên cứu “Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng

cứ và hòa giải theo BLTTDS 2015” của tác giả Chu Quang Minh - Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Ninh đăng trên tạp chí điện tử Tòa án nhân dân ngày 19 tháng 3 năm 2018;
- Nguyễn Thị Vân Anh (2010), “Một số kiến nghị liên quan đến quy định về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án theo Điều 29
BLTTDS”, Tạp chí Nghề luật (số 3/2010);
- Triệu Thị Quỳnh Hoa (2012), “Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án”, Tạp chí Tòa án nhân dân
(số 19/2012);
- Vũ Đức Hoàng (2010), “Một số khó khăn khi áp dụng các Biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án”, Tạp
chí Tòa án nhân dân (số 19/2010);

2


- Nguyễn Thị Hoài Phương (2010), “Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại Tòa án – những vấn đề
đặt ra cho việc hoàn thiện BLTTDS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 3/2010);
- Tưởng Thị Lan (2013), “Thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại Thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội”, Luận
vă thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Trong số các công trình nghiên cứu trên, có rất ít các công trình có quy mô lớn
nghiên cứu về thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại một cách toàn diện.
Phần lớn là những bài viết trên tạp chí có dung lượng nhỏ, đi vào phân tích một số ít

vấn đề nhỏ trong thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại. Tuy xuất hiện một
số công trình nghiên cứu cấp thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khoa học; song nội dung
nghiên cứu của các công trình chưa gắn với một địa phương là địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc. Do vậy, đề tài nghiên cứu của tác giả vẫn có tính mới và cần thiết được thực
hiện, vì gắn với việc nghiên cứu về thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại
trên một địa phương cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về giải quyết vụ án theo thủ tục xét xử sơ thẩm; phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại ở Việt Nam và thực
tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc; và để từ đó đề xuất các phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh,
thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giải quyết vụ án theo thủ
tục xét xử sơ thẩm;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án kinh
doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay;

3


- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ
án kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục xét xử
sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh,
thương mại theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục xét

xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong hệ thống Tòa án trên cả nước hiệ nay, phần lớn các vụ án kinh doanh,
thương mại được Tòa án thụ lý và đưa ra xét xử là theo thủ tục thông thường. Đối
với Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, 100% số vụ án kinh doanh, thương mại được
xét xử sơ thẩm theo thủ tục thông thường. Với thực tế như vậy, nhằm phân tích các
vấn đề được thiết thực và tập trung, đề tài sẽ không đề cập đến thủ tục xét xử sơ
thẩm vụ án kinh doanh, thương mại theo thủ tục rút gọn, thủ tục giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài, mà phạm vi nghiên cứu đề tài sẽ đi
sâu vào khái niệm, đặc điểm và nội dung của thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án kinh
doanh, thương mại theo thủ tục thông thường; Thực trạng pháp luật về thủ tục xét
xử sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay và Thực tiễn áp
dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc; phương hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ kinh doanh, thương mại.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp lịch sử, phân tích, thống kê,
tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic và thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn
đề nghiên cứu.

4


6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, có hệ thống về
thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại. Kết quả nghiên cứu của luận văn
góp phần bổ sung lý luận về thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án kinh doanh, thương
mại, qua đó có cơ sở lý luận để phân tích, đánh giá những bất cập của các quy định

pháp luật tố tụng dân sự hiên hành, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại
để làm cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực
tương ứng.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Giải quyết vụ án kinh doanh, thương
mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm qua thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc” được kết cấu bởi 3 chương, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo.
Chương 1: Thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại
Chương 2: Thực tiễn áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương
mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục xét xử sơ
thẩm vụ án kinh doanh, thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới

5


Chƣơng 1
THỦ TỤC SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI
1.1. Khái niệm thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thƣơng mại
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam chưa có điều luật nào quy
định cụ thể về khái niệm tranh chấp KDTM cũng như khái niệm về thủ tục sơ thẩm
vụ án KDTM. Thuật ngữ KDTM còn được hiểu nhầm lẫn với các thuật ngữ khác
như thương mại, kinh tế... dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về vụ án KDTM. Vì
vậy, việc xây dựng hoàn chỉnh khái niệm tranh chấp KDTM cũng như khái niệm
thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM là điều cần thiết để làm cơ sở pháp lý cho việc xác
định ranh giới thẩm quyền cũng như trình tự thủ tục trong quá trình giải quyết các
vụ án KDTM.
Ở góc độ ngôn ngữ phổ thông, "kinh doanh" là tổ chức, sản xuất, buôn bán sao

cho sinh lời, "kinh tế" là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình
thái kinh tế - xã hội nhất định, "thương mại" là thực hiện lưu thông hàng hóa bằng
mua bán [51].
Theo cách hiểu này, nội hàm tranh chấp kinh tế rộng hơn, bao gồm cả tranh
chấp kinh doanh, thương mại. Có thể bao quát tranh chấp kinh tế gồm các tranh
chấp kinh doanh, thương mại: Tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi, tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư, tranh
chấp giữa quốc gia trong việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại song
phương và đa phương, tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế
trong việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại đa phương. Kinh tế có sự bao
hàm yếu tố quản lý và yếu tố chính trị khác.
Ở góc độ pháp lý, hiện nay hầu hết quan điểm lại đồng nhất "tranh chấp kinh
tế" với "tranh chấp KDTM".
Ở Việt Nam, quan niệm về tranh chấp kinh tế có những điểm khác nhau qua

6


mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, nền kinh tế được quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, với hệ thống
chi tiêu, kế hoạch do nhà nước giao. Hợp đồng kinh tế thời kỳ này không chỉ là một
hình thức pháp lý để triển khai các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị
kinh tế, mà còn được sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước. Do
vậy, việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc chứ không
hoàn toàn từ lợi ích kinh tế của các bên tham gia hợp đồng. Vì vậy, trách nhiệm
thực hiện hợp đồng giữa các bên tham gia quan hệ với nhau bị coi nhẹ hơn so với
trách nhiệm của các bên đối với cơ quan chủ quản. Trách nhiệm phát sinh do vi
phạm hợp đồng kinh tế nhẹ về yếu tố vật chất mà nặng về tính chất hành chính.
Có thể nói trong giai đoạn này, các quan hệ kinh tế vốn khá đơn giản về nội

dung và thành phần chủ thể, lại được điều chỉnh bởi kinh tế Nhà nước. Vì vậy, các
tranh chấp kinh tế phát sinh không nhiều và chủ yếu là các tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa với nhau để
triển khai kế hoạch kinh doanh đã được Nhà nước phê duyệt từ trước. Các tranh
chấp kinh tế trong giai đoạn này không thể hiện rõ bản chất của tranh chấp kinh
doanh, thương mại, tranh chấp phát sinh do xung đột lợi ích của các bên và việc giải
quyết tranh chấp cũng không xuất phát từ quyền lợi thiết thực của các bên mà chủ
yếu vì sự ổn định, hài hòa chung cho cả nền kinh tế.
Trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng nền kinh tế thế
giới, với việc nước ta trở thành thành viên thứ 150 của WTO năm 2007, ngày càng
xuất hiện nhiều hơn các chủ thể kinh doanh, bên cạnh các Doanh nghiệp Nhà nước
và hợp tác xã, xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, các loại hình công ty và hộ kinh doanh cá thể. Các quan hệ kinh tế xuất
hiện ngày càng nhiều với hình thức phong phú và tính chất phức tạp. Trong điều
kiện đó, Nhà nước phải tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, để các quan
hệ kinh tế được xây dựng và thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự do, bình đẳng, cùng
có lợi và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Trong giai đoạn

7


này, kinh doanh đúng pháp luật để đạt lợi nhuận tối đa là mục tiêu của các doanh
nghiệp. Môi trường đó phát sinh ngày càng nhiều các tranh chấp liên quan đến việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế. Đồng
thời cũng đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu, mở rộng nội hàm của khái niệm tranh
chấp kinh tế.
Trong Luật Thương mại năm 2005 (LTM) không đưa ra khái niệm về tranh
chấp thương mại, mà đưa ra khái niệm hoạt động thương mại, theo đó hoạt động
thương mại là "hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,

cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác" (Khoản 1 Điều 3 LTM). Theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động
thương mại cũng đã được mở rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi.
Hướng tiếp cận này của LTM cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã được
mở rộng tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp. Tại khoản
2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 và tại khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp
năm 2014 đều đưa ra khái niệm: "Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi".
Theo Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì tranh chấp KDTM được hiểu là những
tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh
doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Theo quy định của BLTTDS có thể
hiểu rằng, tranh chấp KDTM thực chất là tranh chấp kinh tế đã được mở rộng nội
hàm cho phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế. Nội dung của tranh chấp KDTM được liệt kê tại Điều 30 BLTTDS, thực chất
cũng là những tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của LTM. Tuy có nhiều
quan điểm, nhiều cách hiểu khác nhau và có sự thay đổi trong thuật ngữ pháp lý,
nhưng thực tế đều nhìn nhận những xung đột về lợi ích kinh tế trong quan hệ
KDTM là tranh chấp KDTM. Nhìn chung quan niệm về hoạt động thương mại và
tranh chấp KDTM được thể hiện qua các quy định trong văn bản pháp luật thời gian
gần đây là khá nhất quán. Như vậy, tranh chấp KDTM là sự bất đồng, mâu thuẫn,

8


xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh liên quan đến lợi ích
kinh tế trong quá trình hoạt động KDTM.
Trong lĩnh vực dân sự, khi các tranh chấp dân sự xảy ra, đương sự khởi kiện
và được Tòa án thụ lý giải quyết thì được gọi là vụ án dân sự. Theo đó, những tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự,

hôn nhân và gia đình, KDTM và lao động, được quy định tại các Điều 26, Điều
28, Điều 30 và Điều 32 BLTTDS do cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện mà
được Tòa án thụ lý giải quyết được gọi là vụ án dân sự. Trong đó, các tranh chấp
về KDTM được quy định tại Điều 30 BLTTDS được Tòa án thụ lý giải quyết
được gọi là vụ án KDTM.
BLTTDS bao gồm 517 điều và được cơ cấu thành 10 phần, trong đó bao gồm
cả những quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục giải quyết vụ án dân
sự. Thủ tục giải quyết vụ án dân sự nói chung và vụ án KDTM nói riêng được thực
hiện theo các quy định từ Điều 186 đến Điều 360 BLTTDS 2015. Còn những vấn
đề chung về thủ tục giải quyết vụ án dân sự nói chung và vụ án KDTM nói riêng
được quy định tại Phần thứ nhất của BLTTDS (từ Điều 1 đến Điều 185) bao gồm
những quy định về nguyên tắc, thẩm quyền của Tòa án nhân dân, cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, chứng minh và chứng
cứ, biện pháp khẩn cấp tạm thời, cấp, thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng, thời
hạn tố tụng, thời hiệu khởi kiện, án phí. Các quy định này quy định về nguyên tắc,
trình tự thủ tục giải quyết vụ án KDTM, quyền và nghĩa vụ của những người tiến
hành tố tụng và tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án KDTM.
Theo Từ điển Tiếng Việt 1997 của Viện Ngôn ngữ học thì “thủ tục là những
việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để tiến hành một công việc có tính
chất chính thức”[51, tr 927]. Thủ tục bảo đảm việc giải quyết công việc có hiệu
quả. Khi giải quyết các công việc đều phải theo thủ tục nhất định. Theo quy định
của BLTTDS, các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, KDTM và lao động đều được
thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Do đó, thủ tục giải quyết vụ án KDTM là một

9


trong những thủ tục của thủ tục tố tụng dân sự (TTDS).
Theo quy định tại Điều 17 BLTTDS, Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử:
sơ thẩm và phúc thẩm. Do vậy, các vụ án KDTM cũng có thể được xét xử ở Tòa án

cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm. Tuy nhiên, không phải bất kỳ vụ án KDTM
nào cũng phải trải qua xét xử ở Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm.
Tùy vào kết quả việc giải quyết vụ án KDTM ở Tòa án cấp sơ thẩm và tùy thuộc
vào việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự mà việc giải quyết vụ án
KDTM ở cấp sơ thẩm có thể kết thúc ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm hoặc
phiên tòa sơ thẩm.
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội
thì "sơ thẩm là xét xử lần đầu vụ án" [52, tr 225]. Thủ tục tố tụng lần đầu giải quyết
vụ án được gọi là thủ tục sơ thẩm.
Từ những điều phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận: “Thủ tục sơ thẩm vụ án
KDTM là thủ tục TTDS xét xử lần đầu vụ án KDTM, được Tòa án có thẩm quyền áp
dụng để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của
các chủ thể kinh doanh liên quan đến lợi ích kinh tế phát sinh trong hoạt động
KDTM, bao gồm thủ tục khởi kiện và thụ lý, chuẩn bị xét xử sơ thẩm và xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM”.
1.2. Đặc điểm của thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thƣơng mại
Trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện tại không có quy định riêng về
trình tự thủ tục giải quyết sơ thẩm vụ án KDTM mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ áp dụng
các quy định về trình tự thủ tục giải quyết sơ thẩm vụ án dân sự nói chung để giải
quyết các tranh chấp KDTM phát sinh. Do đó, thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM cũng
mang những đặc điểm chung của thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự như sau:
- Là thủ tục cơ bản của tố tụng dân sự được tiến hành theo một trình tự, thủ tục
nhất định quy định trong BLTTDS bao gồm các việc như khởi kiện và thụ lý vụ án,
chuẩn bị xét xử sơ thẩm và phiên tòa sơ thẩm vụ án.

10


- Là thủ tục tố tụng đầu tiên giải quyết tranh chấp của các bên đương sự nên
phán quyết của Tòa án trong bản án, quyết định không phải là phán quyết cuối

cùng, đương sự vẫn có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát vẫn có quyền kháng nghị
bản án, quyết định.
Tuy vậy, bên cạnh những đặc điểm chung của thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự,
thủ tục sơ thẩm vụ án KDTM cũng có một số đặc điểm riêng sau:
- Về chủ thể khởi kiện vụ án KDTM, đối với vụ án KDTM chủ thể khởi kiện
chỉ có thể là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh (trừ một số trường hợp pháp
luật có quy định khác) - đó là các cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có thẩm
quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật. Ngoài ra, còn một yêu cầu nữa đối với chủ thể khởi kiện vụ án
KDTM đó là khi tham gia quan hệ KDTM đòi hỏi các bên chủ thể của quan hệ đó
đều có mục đích lợi nhuận.
- Về các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện, đối với vụ án KDTM
do chủ thể khởi kiện chỉ có thể là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh nên khi
nộp đơn khởi kiện, để được Tòa án chấp nhận thụ lý và giải quyết theo trình tự, thủ
tục giải quyết vụ án KDTM thì người nộp đơn khởi kiện phải nộp kèm theo Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh; Điều lệ hoạt động của pháp nhân… để chứng minh
tư cách chủ thể của mình.
- Về hình thức đơn khởi kiện, đối với các vụ án KDTM cần lưu ý đến người
đứng tên trong đơn khởi kiện. Đương sự trong các tranh chấp KDTM thường là các
chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân như Công ty nhà nước, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã hay hộ kinh doanh cá
thể, do đó, người ký đơn khởi kiện trong trường hợp này là người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân cũng có thể
ủy quyền cho người khác ký đơn khởi kiện và tham gia tố tụng tại Tòa án. Khi đó,
Tòa án cần kiểm tra việc ủy quyền ký đơn khởi kiện và tham gia tố tụng đó có đúng
quy định pháp luật hay không. Ngoài ra, đương sự là công ty thì đơn khởi kiện phải
có dấu của công ty vào cuối đơn.

11



- Về sự tham gia của Kiểm sát viên, trên thực tế đối với các vụ án KDTM
thường rất phức tạp, để giải quyết đúng vụ án thì Tòa án đều phải tiến hành thu thập
chứng cứ nên hầu hết đều có Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và sự có mặt của
Kiểm sát viên tại phiên tòa là bắt buộc. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên thì HĐXX phải
hoãn phiên tòa.
- Về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án KDTM, do yêu cầu của phát triển sản
xuất, kinh doanh, thời hạn việc giải quyết vụ án KDTM được pháp luật quy định
ngắn hơn thời hạn giải quyết các vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và gia đình và vụ
án lao động.
- Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT), đối với vụ án KDTM
Tòa án không thể tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT. Trong quá trình giải
quyết vụ án KDTM nếu đương sự có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT thì Tòa
án mới xem xét có ra quyết định áp dụng BPKCTT hay không.
- Về án phí, việc giải quyết vụ án KDTM không có trường hợp nào được miễn
án phí và mức án phí phải nộp trong các vụ án KDTM thường là rất lớn.
1.3. Thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh, thƣơng mại theo pháp luật Việt Nam
hiện hành
1.3.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh thƣơng mại
1.3.1.1. Khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại
Thủ tục giải quyết vụ án KDTM là thủ tục tố tụng dân sự được áp dụng cho
trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các bên chủ thể tham gia quan hệ KDTM. Mặc
dù quyền khởi kiện vụ án KDTM là quyền của công dân được pháp luật Việt Nam
ghi nhận, song theo quy định tại các Điều 186, 187, 192 v.v...của BLTTDS, muốn
khởi kiện vụ án KDTM phải đáp ứng các điều kiện sau:
Một là, đáp ứng điều kiện về chủ thể khởi kiện vụ án KDTM.
Chủ thể khởi kiện trong vụ án KDTM nói riêng và vụ án dân sự nói chung
phải có năng lực chủ thể tố tụng dân sự, bao gồm năng lực pháp luật tố tụng dân sự
và năng lực hành vi tố tụng dân sự.


12


Đối với vụ án KDTM, chủ thể khởi kiện chỉ có thể là cá nhân, tổ chức có đăng
ký kinh doanh (trừ một số trường hợp pháp luật có quy định khác) - đó là các cá
nhân, tổ chức đã được các cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Đương sự trong các tranh chấp KDTM thường là các chủ thể kinh doanh có tư
cách pháp nhân. Vì vậy, cần lưu ý đến người đứng tên trong đơn kiện các vụ án
KDTM. Người ký đơn khởi kiện trong trường hợp này là người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân. Riêng đối với công ty hợp danh, các thành viên hợp danh đều
có quyền đại diện theo pháp luật của công ty nhưng Chủ tịch Hội đồng thành viên
kiêm Giám đốc là đại diện cho công ty với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn trước
Toà án. Do đó, Chủ tịch Hội đồng thành viên có quyền kí đơn khởi kiện. Đối với
doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp là người kí đơn khởi kiện. Người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân, cũng có thể uỷ quyền cho
người khác kí đơn kiện và tham gia tố tụng tại Toà án. Ngoài ra, đương sự là công
ty thì đơn kiện phải có dấu của công ty vào cuối đơn. Ngoài ra, còn một yêu cầu nữa
đối với chủ thể khởi kiện vụ án KDTM đó là khi tham gia quan hệ KDTM đòi hỏi
các bên chủ thể của quan hệ đó đều có mục đích lợi nhuận.
Hai là, vụ án KDTM được khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.
Tòa án chỉ thụ lý vụ án KDTM để giải quyết khi vụ án đúng thẩm quyền xét
xử của mình. Do đó, để đơn khởi kiện vụ án KDTM được thụ lý thì yêu cầu đầu tiên
pháp luật đặt ra là trong hợp đồng KDTM giữa các bên chủ thể không có thỏa thuận
trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài giữa các bên bị vô hiệu. Yêu cầu tiếp theo là việc
khởi kiện phải đúng thẩm quyền xét xử về dân sự của Tòa án, được thể hiện ở ba
phương diện: Thứ nhất, vụ án KDTM mà chủ thể nộp đơn khởi kiện phải thuộc
phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại Điều 30 BLTTDS. Thứ hai,
vụ án KDTM được khởi kiện phải đúng với cấp Tòa án có thẩm quyền giải quyết

quy định tại Điều 36, Điều 37, Điều 38 BLTTDS. Thứ ba, vụ án KDTM được khởi
kiện phải đúng thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định tại Điều 39 BLTTDS.

13


Nếu Tòa án nhận được đơn khởi kiện là Tòa án do các bên thỏa thuận lựa chọn Tòa
án giải quyết thì ngoài việc gửi đơn khởi kiện còn phải kèm theo văn bản thỏa thuận
lựa chọn Tòa án giải quyết vụ án KDTM giữa các bên.
Ba là, việc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án KDTM phải chưa được giải quyết
bằng một bản án, quyết định của Tòa án; phán quyết của Trọng tài thương mại hay
quyết định của cơ quan nhà nước đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp có quy
định khác của pháp luật. Vì để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án;
phán quyết của Trọng tài thương mại hay quyết định của cơ quan nhà nước thì phải
thi hành khi chúng có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp pháp luật quy định được
khởi kiện lại.
Ngoài ra, việc khởi kiện phải được thực hiện bằng đơn khởi kiện gửi cho Tòa
án có thẩm quyền. Nội dung đơn khởi kiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 189
BLTTDS và mẫu đơn ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày
13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTPTANDTC) về
ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự.
1.3.1.2. Thụ lý vụ án kinh doanh thương mại
Thụ lý vụ án KDTM là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện vụ án KDTM của
người khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án để giải quyết. Cũng như các vụ án dân sự nói
chung, theo Điều 191 và Điều 192 BLTTDS, thụ lý vụ án KDTM thuộc trách nhiệm
của Tòa án nơi nhận được đơn khởi kiện vụ án KDTM. Sau khi nhận được đơn khởi
kiện vụ án KDTM của đương sự, Tòa án phải tiến hành các quy trình tố tụng trong
thời hạn nhất định bao gồm:
Thứ nhất, Tòa án tiến hành nhận đơn khởi kiện và nghiên cứu trong thời hạn 5
ngày làm việc kể từ khi nhận được đơn để ra một trong các quyết định sau: Tiến

hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc chuyển đơn
khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác hoặc trả lại đơn khởi kiện. Nếu thấy nội
dung đơn khởi kiện không đáp ứng các nội dung cơ bản phải có được quy định tại
Khoản 2 Điều 189 BLTTDS thì Tòa án phải thông báo cho người khởi kiện biết để

14


họ sửa đổi, bổ sung trong một thời hạn do Tòa án ấn định nhưng không quá một
tháng, trong trường hợp đặc biệt Tòa án có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày.
Sau khi người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định thì
Tòa án tiếp tục làm thủ tục thụ lý vụ án. Nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu
cầu của Tòa án, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo cho
người khởi kiện.
Thứ hai, Tòa án sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu
xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết thì Tòa án cần dự tính tiền tạm ứng án phí
và thông báo ngay cho người khởi kiện để họ làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí. Về
mức đóng án phí sơ thẩm của vụ án KDTM có hai loại: một là, đối với các vụ án
KDTM không có giá ngạch mức án phí là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng chẵn); hai
là, đối với các vụ án KDTM có giá ngạch thì có sáu mức án phí theo bảng sau:
a Từ 60.000.000 đồng trở xuống
b

c

d

đ


Từ trên 60.000.000 đồng đến
400.000.000 đồng

3.000.000 đồng
5% của giá trị tranh chấp

Từ trên 400.000.000 đồng đến

20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tranh

800.000.000 đồng

chấp vượt quá 400.000.000 đồng

Từ trên 800.000.000 đồng đến

36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tranh

2.000.000.000 đồng

chấp vượt quá 800.000.000 đồng

Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tranh
4.000.000.000 đồng

e Từ trên 4.000.000.000 đồng

chấp vượt 2.000.000.000 đồng
112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị
tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng


Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp
tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa
án biên lai thu tiền tạm ứng án phí..
Thứ ba, khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí,

15


Tòa án ra quyết định thụ lý vụ án và vào sổ thụ lý vụ án.
Quy định về việc thụ lý vụ án có ý nghĩa quan trọng vì nó đặt ra trách nhiệm
cho Tòa án phải giải quyết vụ án trong thời hạn luật định. Việc thụ lý vụ án còn
nhằm bảo vệ kịp thời những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, giải quyết
kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân.
1.3.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thƣơng mại
Chuẩn bị xét xử vụ án KDTM là một giai đoạn độc lập trong thủ tục giải quyết
vụ án KDTM tại Tòa án bao gồm các hoạt động từ sau khi thụ lý như phân công
thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý vụ án; lập hồ sơ vụ án; tiến hành
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời; ra các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết
vụ án hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Có thể thấy, đây là giai đoạn tố tụng rất
quan trọng, trong giai đoạn này Tòa án sẽ nghiên cứu, xem xét hồ sơ vụ án để xác
định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đầy đủ nguyên đơn, bị đơn, những
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, thu thập chứng cứ phục vụ cho việc ra
một phán quyết, quyết định đúng đắn về vụ án trong phiên tòa sơ thẩm. Nhìn chung,
giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM là giai đoạn rất quan trọng, làm tiền
đề, cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho việc xét xử và ra các phán quyết của Tòa
án được khách quan, toàn diện và đúng pháp luât.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 203 BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án KDTM là 2 (hai) tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với vụ án có

tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết
định gia hạn thêm 1 (một) tháng [24]. Quy định này của pháp luật tố tụng dân sự là
không hợp lý bởi lẽ rất nhiều các vụ án KDTM có tính chất phức tạp, số lượng
đương sự nhiều, nhiều vụ án không chỉ đơn giản là giải quyết mâu thuẫn giữa các
bên đương sự trong quan hệ kinh doanh mà còn phải giải quyết mâu thuẫn về việc
xử lý tài sản thế chấp là các bất động sản, hàng hóa lưu kho... Khi đó, các Thẩm
phán giải quyết vụ án KDTM cũng phải tiến hành đầy đủ các hoạt động tố tụng như

16


các vụ án dân sự thông thường khác. Vì lẽ đó, việc BLTTDS quy định thời hạn
chuẩn bị xét xử vụ án KDTM ngắn hơn thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án dân sự
khác hay các vụ án về hôn nhân và gia đình là hoàn toàn bất hợp lý, khiến cho việc
giải quyết các vụ án KDTM trong nhiều trường hợp phải tiến hành gấp gáp, gây áp
lực cho các Thẩm phán giải quyết nên dễ dẫn đến nhiều sai sót.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án KDTM, các công việc chuẩn bị
xét xử chủ yếu được tiến hành bao gồm:
Thứ nhất, phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.
Vì Thẩm phán có vai trò đặc biệt quan trọng nên trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử, sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công giải quyết vụ
án. Việc phân công này là cơ sở để Thẩm phán toàn tâm toàn ý với vụ án đã được
giao, đồng thời để Thẩm phán thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được quy định
tại Điều 48 BLTTDS, đảm bảo giải quyết vụ án nhanh chóng, khách quan, đúng
pháp luật.
Theo quy định tại Điều 197 BLTTDS thì: “Trên cơ sở báo cáo thụ lý vụ án của
Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết định phân công
Thẩm phán giải quyết vụ án bảo đảm nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết
định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án. Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết

có thể phải kéo dài thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán dự khuyết để bảo
đảm xét xử đúng thời hạn theo quy định của Bộ luật này. Trong quá trình giải quyết
vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ
thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ; trường hợp
đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử lại từ
đầu và Tòa án phải thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp”[24].
Thứ hai, thông báo việc thụ lý vụ án.
Sau khi đã tiến hành các công việc thụ lý, Tòa án phải thông báo bằng văn bản
cho các đương sự để họ biết vụ án đã được thụ lý. Tòa án cũng phải thông báo cho
Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án để VKS thực hiện

17


chức năng kiểm sát của mình đối với việc giải quyết vụ án của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 196 BLTTDS: "Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị đơn,
cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ
án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án.
Đối với vụ án do người tiêu dùng khởi kiện thì Tòa án phải niêm yết công khai
tại trụ sở Tòa án thông tin về việc thụ lý vụ án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể
từ ngày thụ lý vụ án. Nội dung văn bản thông báo theo quy định tại khoản 2 Điều
196 BLTTDS.
Trường hợp nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong việc gửi tài liệu,
chứng cứ thì kèm theo thông báo về việc thụ lý vụ án, Tòa án gửi cho bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bản sao tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung
cấp" [24].
Pháp luật quy định về việc thông báo việc thụ lý cho bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là nhằm bảo đảm quyền lợi cho đương sự. Thông báo thụ lý
để bị đơn biết được nguyên đơn khởi kiện những vấn đề gì, biết được những tài liệu,

chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp từ đó bị đơn sẽ chuẩn bị những tài liệu, chứng
cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, lập hồ sơ vụ án.
Để lập hồ sơ vụ án, căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, Tòa án
xác định các tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu của đương sự khởi kiện vụ án
KDTM. Khi nhận được các chứng cứ, tài liệu kèm theo Tòa án phải đưa chúng vào
hồ sơ vụ án. Thủ tục giao nhận chứng cứ tài liệu được thực hiện theo đúng quy định
tại Điều 96 BLTTDS. Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án phải sắp xếp theo thứ tự nhất
định để thuận tiện cho việc nghiên cứu, sử dụng và phải có danh mục ghi lại các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án.
Trong tố tụng dân sự, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu của mình. Tòa án có trách nhiệm xem xét mọi tình tiết của vụ án,
căn cứ vào quy định pháp luật để giải quyết yêu cầu của đương sự.

18


×