Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

SO SÁNH nền văn hóa đại VIỆT THỜI lý – TRẦN và lê sơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 81 trang )

SO SÁNH NỀN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN VÀ LÊ SƠ
(Thế kỷ XI – XVI)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

1


MỤC LỤC
TRANG
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................8
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.........................................................................................9
3. Mục đích nghiên cứu................................................................................................10
4. Nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................................10
5. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................................10
6. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................10
7. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................................11
8. Ý nghĩa khoa học của đề tài.....................................................................................11
9. Cấu trúc của đề tài....................................................................................................11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN, LÊ SƠ
1.1. Khái quát chung về văn hóa...............................................................................12
1.1.1. Khái niệm văn hóa........................................................................................
1.1.2. Các loại hình văn hóa..................................................................................


1.1.3. Vai trò của văn hóa.......................................................................................
1.2. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý – Trần, Lê sơ......................................14
1.2.1. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý – Trần............................................14
1.2.1.1. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý...................................................
2


1.2.1.2. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Trần...............................................
1.2.2. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lê sơ...................................................19
CHƯƠNG 2 - NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA VĂN
HÓA ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN VÀ LÊ SƠ
2.1. Khái quát nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ...................................?
2.1.1. Nền văn hóa thời Lý – Trần...........................................................................
2.1.1.1. Tôn giáo, tín ngưỡng................................................................................
2.1.1.2. Giáo dục...................................................................................................
2.1.1.3. Văn học, nghệ thuật..................................................................................
2.1.1.4. Khoa học kỹ thuật.....................................................................................
2.1.2. Nền văn hóa thời Lê sơ...................................................................................
2.1.2.1. Tôn giáo, tín ngưỡng................................................................................
2.1.2.2. Giáo dục...................................................................................................
2.1.2.3. Văn học, nghệ thuật..................................................................................
2.1.2.4. Khoa học kỹ thuật.....................................................................................
2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và
Lê sơ.............................................................................................................................. ?
2.2.1. Những điểm tương đồng................................................................................?
2.2.1.1. Tôn giáo, tín ngưỡng................................................................................
2.2.1.2. Giáo dục...................................................................................................
2.2.1.3. Văn học, nghệ thuật..................................................................................
2.2.1.4. Khoa học kỹ thuật.....................................................................................
2.2.2. Những điểm khác biệt.....................................................................................?

2.2.2.1. Tôn giáo, tín ngưỡng................................................................................
2.2.2.2. Giáo dục...................................................................................................
2.2.2.3. Văn học, nghệ thuật..................................................................................
2.2.2.4. Khoa học kỹ thuật.....................................................................................
3


CHƯƠNG 3 - ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA NỀN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT THỜI LÝ
– TRẦN VÀ LÊ SƠ
3.1. Đặc điểm..............................................................................................................?
3.1.1. Nền văn hóa phát triển rực rỡ, phong phú, độc đáo...................................
3.1.2. Nền văn hóa gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước....
3.1.3. Nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc.....................................................
3.2. Ý nghĩa................................................................................................................. ?
3.3. Vận dụng vào dạy học lịch sử lớp 4...................................................................?
KẾT LUẬN................................................................................................................
1. Kết luận...................................................................................................................
2. Kiến nghị.................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................
PHỤ LỤC...................................................................................................................

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ cần viết tắt
Sách giáo khoa
Giáo viên
Học sinh
Nhà xuất bản

Phương pháp dạy học

5

Viết tắt
SGK
GV
HS
Nxb
PPDH


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mọi thứ quý báu trên khắp cõi đời này, nếu chẳng may bị mất đi thì rốt cuộc,
chúng ta vẫn có thể tìm lại được, duy chỉ có những giá trị văn hóa thì không. Giờ đây,
sở dĩ tất cả chúng ta đều hoàn toàn có quyền hiên ngang ngẩng cao đầu để kiêu hãnh
mà cất tiếng hát rằng: “Ôi thiêng liêng, hai tiếng Việt Nam!”, ấy là nhờ các thế hệ nối
nhau từ thuở khai thiên lập địa đến nay đã canh cánh nỗi lo xây dựng và bảo vệ những
thành tựu văn hóa độc đáo của mình. Giữa mênh mông năm châu bốn biển, bản đồ Việt
Nam thực sự có một màu sắc riêng và đó chính là niềm tự hào bất diệt của chúng ta,
của mãi mãi muôn đời con cháu sau này.
Từ xưa đến nay đã có nhiều người nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Từ thế kỷ XIX
về trước, số học giả viết những công trình liên quan trực tiếp đến văn hóa Việt Nam
không quá 20 người. Nhưng từ đầu thế kỷ XX đến nay, số học giả cả người Việt lẫn
người nước ngoài viết về văn hóa Việt Nam khá nhiều. Mỗi người lại tìm hiểu nền văn
hóa theo một cách riêng của mình. Đối với cá nhân tôi, tôi muốn có một cái nhìn khái
quát hơn về nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ – thời kỳ mà lịch sử thường
gọi là thời kỳ đỉnh cao của nền văn hóa Đại Việt. Thông qua việc tìm hiểu các khía
cạnh của nền văn hóa, biết được sự phát triển văn hóa qua từng thời kỳ lịch sử giúp tôi

hiểu hơn về nền văn hóa Lý – Trần – Lê sơ nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung,
đồng thời hiểu rõ hơn về bản sắc dân tộc mình.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu để so sánh nền văn hóa thời Lý – Trần và Lê sơ có
những nét tương đồng và khác biệt như thế nào giúp cho người GV sẽ có một cái nhìn
khái quát hơn về tình hình văn hóa ở ba thời kỳ này. Từ đó sẽ giúp ích nhiều cho việc
giảng dạy những bài học thuộc lĩnh vực văn hóa trong chương trình Lịch sử ở trường
Tiểu học.
Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “So sánh nền văn hóa Đại Việt
thời Lý – Trần và Lê sơ (thế kỷ XI – XVI)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
6


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tác phẩm “Đại cương Lịch sử Việt Nam” tập I, do tác giả Trương Hữu
Quýnh (chủ biên), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, năm 1997. Cuốn sách này là cuốn
đầu tiên trong bộ sách “Đại cương lịch sử Việt Nam”, nói về lịch sử đất nước từ thời sơ
khai đến năm 1858, tập trung chủ yếu vào sự hình thành đất nước, các cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược và sự phát triển đất nước qua các triều đại. Trong đó, ở
chương VIII và chương X, tác giả đã đề cập đến tình hình văn hóa – giáo dục dưới thời
Lý – Trần và Lê sơ trên các lĩnh vực như tôn giáo, tín ngưỡng, giáo dục, văn học, nghệ
thuật và khoa học kỹ thuật nhưng còn ở mức độ sơ lược, khái quát.
2.2. Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” tập 2, của Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, do Trần Thị Vinh (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2013. Cuốn
sách tập trung nghiên cứu về lịch sử đất nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV. Đặc biệt,
cuốn sách dành hẳn chương VII và chương XI để đề cập đến vấn đề văn hóa – xã hội
Đại Việt thời Lý – Trần.
2.3. Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” tập 3, của Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, do Tạ Ngọc Liễn (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2013. Tiếp nối
quá trình lịch sử của dân tộc, cuốn sách nói về giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI.
Đặc biệt cuốn sách viết khá chi tiết và hệ thống về sự phát triển nền văn hóa Đại Việt

thời Lê sơ qua chương VII.
2.4. Tác phẩm “Lịch sử văn hóa Việt Nam” do Huỳnh Công Bá biên soạn, NXB
Thuận Hóa, Huế, năm 2008. Cuốn sách đi sâu vào tìm hiểu văn hóa ở các thời kỳ,
trong đó mỗi lĩnh vực của văn hóa được viết rất chi tiết và cụ thể. Đặc biệt là về nghệ
thuật, tác giả đã cho chúng ta thấy một nền nghệ thuật đa dạng, phong phú và phát triển
rực rỡ.
2.5. Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” tập I, do Phan Huy Lê (chủ biên), Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội, năm 1983. Tác phẩm trình bày tương đối đầy đủ về quá trình
lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIV. Về tình hình văn hóa, tác giả cũng
7


đã khái quát một cách chung nhất những nét nổi bật, đặc sắc của văn hóa qua từng thời
kỳ, trong đó tập trung nhiều nội dung về thời Lý – Trần.
2.6. Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” tập II, do Phan Huy Lê (chủ biên), Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội, năm 1983. Tiếp nối sự tìm hiểu và nghiên cứu ở tập I, tập II của
bộ sách tiếp tục nói về lịch sử đất nước từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX. Trong
giai đoạn lịch sử này, tác giả cũng đã chỉ rõ được những điểm đặc sắc, những thành tựu
nổi bật của nền văn hóa dưới thời Lê sơ để cho thấy thời kỳ này được coi là một trong
những thời kỳ phát triển đỉnh cao của văn hóa Việt Nam.
Như vậy, viết về nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ đã có rất nhiều
tác giả đề cập đến. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ khái quát chung chứ chưa đi sâu tìm
hiểu và so sánh nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ. Do vậy, việc nghiên cứu,
tìm hiểu và so sánh nền văn hóa Đại Việt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI là việc làm có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu nền văn hóa thời Lý – Trần, Lê sơ dưới các khía cạnh:
tôn giáo, tín ngưỡng, giáo dục, văn học nghệ thuật và khoa học kỹ thuật. Đề tài chỉ ra
được những nét tương đồng và khác biệt giữa nền văn hóa thời Lý – Trần với Lê sơ. Từ
đó, có định hướng đúng đắn cho việc dạy môn Lịch sử một cách có hệ thống, theo

hướng tích hợp để việc dạy có hiệu quả.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về văn hóa và bối cảnh lịch sử thời Lý, Trần, Lê sơ
- Khái quát nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ, từ đó so sánh để tìm ra
những nét tương đồng và khác biệt giữa thời Lý – Trần và Lê sơ.
- Rút ra được đặc điểm, ý nghĩa của nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ và
vận dụng trong dạy học chương trình Lịch sử lớp 4.

8


5. Đối tượng nghiên cứu: Nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ
6. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, tôi đã sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu đặc trưng
của lịch sử là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên cạnh đó, tôi còn sử
dụng kết hợp các phương pháp khác như: phân tích, điều tra, nghiên cứu, xử lý tài
liệu, so sánh, tổng hợp, thống kê.
7. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt của nền văn hóa Đại
Việt thời Lý – Trần và Lê Sơ
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu nền văn hóa Đại Việt trong khoảng thời
gian từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI.
8. Ý nghĩa khoa học
Chúng tôi thực hiện đề tài với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy
học môn Lịch sử ở Tiểu học, khơi gợi hứng thú dạy, học cho GV và HS, giúp các em
học tốt hơn trong việc tìm hiểu văn hóa Đại Việt nói riêng và môn Lịch sử nói chung.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
được bố cục gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về văn hóa và bối cảnh lịch sử nước Đại Việt

thời Lý – Trần, Lê sơ.
Chương 2: Những điểm tương đồng và khác biệt giữa văn hóa Đại Việt thời
Lý – Trần và Lê sơ.
Chương 3: Đặc điểm, ý nghĩa của nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê
sơ.

9


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC ĐẠI VIỆT
THỜI LÝ – TRẦN, LÊ SƠ
1.1. Khái quát chung về văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là gì? Câu hỏi đó đã được đặt ra từ lâu với tư duy của nhân loại; từ các
cách tiếp cận khác nhau đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Nhưng
chúng ta có thể có cái nhìn chung nhất về văn hóa là: Văn hóa là sản phẩm của con
người, văn hóa được tạo ra trong quá trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động
chân tay) và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Nhờ có văn hóa
mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác. Song, chính văn hóa lại
tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa
được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.
Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các
kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị
vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
1.1.2. Các loại hình văn hóa
Văn hóa được chia thành hai loại là văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất. Văn
hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín ngưỡng, phong

tục, tập quán, giá trị, chuẩn mực,... tạo nên một hệ thống. Hệ thống đó bị chi phối bởi
trình độ của các giá trị, đôi khi có thể phân biệt một giá trị bản chất. Chính giá trị này
mang lại cho văn hóa sự thống nhất và khả năng tiến hóa nội tại của nó. Còn về văn
hóa vật chất thì ngoài các yếu tố phi vật chất như giá trị, tiêu chuẩn,...thì nền văn hóa
còn bao gồm tất cả những sáng tạo hữu hình của con người mà trong xã hội học gọi

10


chung là đồ tạo tác. Những con đường, tòa cao ốc, đền đài, phương tiện giao thông,
máy móc thiết bị...đều là đồ tạo tác. Văn hóa vật chất và phi vật chất có liên quan chặt
chẽ với nhau. Khảo sát một nền văn hóa có thể thấy văn hóa vật chất phản ánh những
giá trị văn hóa mà nền văn hóa đó coi là quan trọng. Ở các nước Hồi giáo, công trình
kiến trúc đẹp nhất và hoành tráng nhất thường là thánh đường trong khi ở Mỹ, nó lại là
trung tâm thương mại. Văn hóa vật chất còn phản ánh công nghệ hiểu theo khái niệm
xã hội học là sự áp dụng kiến thức văn hóa vào sinh hoạt trong môi trường tự
nhiên. Tháp Eiffel của Pháp phản ánh công nghệ cao hơn tháp truyền hình Hà Nội.
Ngược lại, văn hóa vật chất cũng làm thay đổi những thành phần văn hóa phi vật chất.
1.1.3. Vai trò của văn hóa
Thứ nhất, văn hóa là cơ sở xã hội hóa các cá nhân. Văn hóa được thể hiện là
những nhận thức của mỗi người để đảm bảo sự hòa đồng của các cá nhân vào xã hội
chung và năng lực lao động của các cá nhân để đảm bảo đời sống của chính họ. Con
người không thể tồn tại nếu tách rời tự nhiên cũng như con người không thực sự là
người nếu tách rời môi trường văn hóa.
Thứ hai, văn hóa là cơ sở phát triển kinh tế. Toàn bộ các yếu tố văn hóa (tài sản
hữu hình và tài sản vô hình) được biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế là các cơ sở vật chất
dùng cho sản xuất kinh doanh và năng lực lao động của con người, là cơ sở cho quá
trình phát triển kinh tế, xã hội. Nền văn hóa phát triển cao đồng nghĩa với người lao
động có năng lực cao. Do vậy xây dựng, phát triển nền văn hóa là nhiệm vụ của mỗi
quốc gia.

Thứ ba, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Các giá trị văn hóa tạo nên nền tảng vững
chắc của xã hội, đó là nền tảng tinh thần. Cái nền tảng đó tạo nên giá trị làm người, tạo
nên sức mạnh ghê gớm của dân tộc, giúp dân tộc vượt qua thách thức bạo tàn của thiên
nhiên và giặc ngoại xâm.

11


Thứ tư, văn hóa với việc hoàn thiện con người và xã hội. Văn hóa là cơ sở hình
thành nhân cách cá nhân. Các cá nhân tiếp nhận nền văn hóa và trở thành con người xã
hội. Con người giờ đây ngày càng hiểu biết được đầy đủ quy luật vận động của tự
nhiên, xã hội và bản thân. Từ đó họ luôn làm chủ mình trong mọi tình huống.
Thứ năm, văn hóa với vấn đề hội nhập quốc tế thì thông qua giao lưu văn hóa xã
hội quốc tế, các nền văn hóa chắt lọc được những tinh tú văn hóa của nhau và ứng
dụng vào nền văn hóa của mình. Hội nhập quốc tế là cơ hội tốt nhất cho nền văn hóa
giao lưu và học hỏi lẫn nhau để đưa thế giới lên nền văn minh ngày càng cao hơn.
1.2. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý – Trần, Lê sơ
Nước Đại Việt ta đã trải qua rất nhiều thời đại khác nhau với một nền văn hóa
vô cùng phong phú và đa dạng. Tiêu biểu nhất có lẽ phải kể đến nền văn hóa của thời
Lý - Trần và Lê Sơ, mỗi thời đều có nét đặc sắc riêng và có những thành tựu nổi bật.
Trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu về bối cảnh lịch sử của ba thời đại trên.
1.2.1. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý – Trần
1.2.1.1. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lý
* Về chính trị - xã hội:
Năm 1005 Lê Hoàn mất, tình hình chính trị của nhà Lê ngày càng thối nát. Các
con của Lê Hoàn huy động lực lượng trong các thái ấp của mình đánh lẫn nhau trong 8
tháng để tranh nhau làm vua. Năm 1006, Long Việt lên ngôi Hoàng đế được 3 ngày thì
bị Long Đỉnh giết chết cướp ngôi. Long Đỉnh là một tên vua tàn bạo, sa đọa và đàn áp
nhân dân rất dã man. Cuối năm 1009, do bị bệnh, Long Đỉnh đã chết khi mới 24 tuổi.

Nhân dân chán ghét nhà Lê. Vì vậy, các sư tăng đứng đầu là sư Vạn Hạnh cùng triều
thần đã tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Từ đó, Lý Công Uẩn bắt
tay vào việc xây dựng chính quyền mới. Vương triều Lý được thành lập. Năm 1010, Lý
Công Uẩn lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Mùa thu năm 1010, Lý Công

12


Uẩn cho dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La (Hà Nội), đổi tên Đại La thành Thăng
Long. Việc nhà Lý dời đô về Thăng Long thể hiện sự trưởng thành ý thức dân tộc của
giai cấp thống trị thời bấy giờ. Đầu năm 1011, nhà Lý đổi 10 đạo làm 24 lộ, đặt thêm
một số đạo và trại. Dưới lộ có huyện, hương. Một số châu trại đổi làm phủ, các vùng xa
gọi là châu. Cuối năm 1054, Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt. Sửa đắp lại
thành Thăng Long, trong thành xây dựng nhiều cung điện của nhà vua. Quan chế của
nhà Lý có quy củ, chặt chẽ hơn các triều đại trước. Bộ máy quan lại nhà Lý mang tính
đẳng cấp khá sâu sắc. Đây là một nhà nước quân chủ quý tộc. Năm 1097, nhà Lý cho
biên soạn, sửa chữa các phép tắc chính trị quan lại thành một tập gọi là Hội điển. Quy
chế tổ chức bộ máy nhà nước được xác lập một bước, thể hiện sự tiến bộ rõ rệt của giai
cấp thống trị trong công cuộc quản lí đất nước. Các quan lại cao cấp có nhiều công lao
được phong thực phong, thực ấp.
* Về kinh tế:
Kinh tế nông nghiệp là cơ sở của nhà nước phong kiến và của cả xã hội phong
kiến. Nhà Lý ở giai đoạn đầu rất chú ý đẩy mạnh sự phát triển nông nghiệp bằng nhiều
chính sách, biện pháp tích cực. Lý Công Uẩn ra lệnh cho những người phiêu tán về quê
quán làm ăn. Thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” để đảm bảo lực lượng lao động.
Đê điều được nhà nước chú ý tu sửa. Năm 1077, vua cho đắp đê sông Như Nguyệt.
Năm 1103, trong và ngoài kinh thành đều được lệnh đắp đê ngăn nước lụt. Năm 1108,
vua cho đắp đê Cơ Xá (đê sông Hồng ở Phúc Xá, Hà Nội). Các địa phương gần sông
đều có đê phòng lụt. Những chính sách tích cực của nhà nước có tác dụng rõ rệt, nhiều
năm được mùa lớn. Cuộc sống của nhân dân ổn định, nhờ đó xã hội cũng được ổn định.

Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có những bước phát triển lớn. Nhà Lý mở
rộng các xưởng thủ công do nhà nước quản lí gọi là cục bách tác, tập trung được nhiều
thợ lành nghề. Trong nhân dân nhiều ngành nghề thủ công truyền thống được đẩy
mạnh như nghề nuôi tằm, dệt lụa, làm ra nhiều loại gấm, đoạn màu đẹp. Nghề gốm làm
ra nhiều mặt hàng đẹp nổi tiếng, đặc biệt gốm tráng men với nhiều loại màu sắc khác
13


nhau (da lươn, men màu xanh ngọc...). Ngành xây dựng, nghề đúc chuông tô tượng và
chạm khắc phát triển mạnh, chùa tháp mọc lên khắp nơi. Chuông Quy Điền, tượng
Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm, chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, lợp ngói sứ trắng) là
những công trình nổi tiếng của Đại Việt thời Lý. Các nghề làm vàng, bạc, làm giấy,
khắc bản in gỗ, nhuộm vải đều được mở rộng. Thương nghiệp phát triển, chợ búa mọc
lên ở khắp nơi. Thăng Long là trung tâm thương mại của Đại Việt bấy giờ. Việc buôn
bán trao đổi với thương nhân nước ngoài mở rộng hơn trước. Thuyền buôn các nước
Xiêm, Giava… thường xuyên cập vào Biển Đông. Vân Đồn (Quảng Ninh) là địa điểm
trao đổi chính giữa nhân dân ta với thương nhân nước ngoài.
* Về văn hóa:
Giáo dục bước đầu phát triển hơn các triều đại trước. Để khuyến khích học tập,
năm 1070, nhà Lý lập Văn Miếu, mở trường dạy chữ Nho ở Kinh đô. Năm 1075, nhà
Lý tổ chức kì thi đầu tiên, Lê Văn Thịnh đỗ đầu được chọn vào giúp vua học. Tuy
nhiên, việc học tập chủ yếu dành cho con em quan lại, quý tộc trong triều. Chế độ thi
cử chưa có nề nếp, quy củ, khi nào nhà nước cần tuyển chọn nhân tài thì mới mở các
khoa thi. Văn học chữ Hán bước đầu phát triển. Ngoài văn thơ của các nhà sư, còn có
văn thơ của vua, quan. Bài thơ bất hủ “Nam quốc Sơn hà” tương truyền của Lý Thường
Kiệt là một bằng chứng. Sử học được nhà nước quan tâm, có một viên quan giòi
chuyên trách biên soạn lịch sử. Đạo Phật được truyền bá rộng rãi, trong nước có nhiều
sư tăng, chùa chiền được xây dựng khắp các làng xã và kinh thành. Lý Công Uẩn vừa
mới lên ngôi đã phát hai vạn quan tiền xây 8 ngôi chùa ở quê, hàng vạn quan tiền xây
dựng chùa chiền ở kinh đô, cấp giấy phép cho hơn 1000 người ở Thăng Long làm sư.

Chèo, múa rối nước, ca hát, nhảy múa rất phát triển. Lễ hội kết hợp với các môn thể
thao có tác dụng giáo dục tinh thần thượng võ như đua thuyền, đấu vật, đánh phết rất
được nhân dân hưởng ứng. Kiến trúc, điêu khắc đạt được nhiều thành tựu thể hiện khả
năng lao động sáng tạo của nhân dân Đại Việt bấy giờ, tiêu biểu như tháp Báo Thiên ở
Thăng Long cao 12 tầng trên 60m; tháp Chương Sơn, chuông chùa Trùng Quang (Tiên
14


Sơn, Bắc Ninh) nặng gần 3 tấn, tượng phật A-di-đà ở chùa Phật Tích. Nền nghệ thuật
phong phú, độc đáo thời Lý đánh dấu sự phát triển của nền văn minh Đại Việt.
Đại Việt trong thế kỉ XI và nửa đầu thế kỉ XII trên nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội đã đạt được nhiều thành tựu, đánh dấu một bước phát triển của quốc gia, dân tộc
và của nền Văn minh Thăng Long. Từ nửa sau thế kỉ XII, nhà Lý ngày càng suy sụp,
tình hình đất nước ngày càng khó khăn, xã hội rối loạn. Nhà nước không còn chăm lo
phát triển nông nghiệp như trước. Lụt lội, hạn hán mất mùa xảy ra liên tiếp. Nạn đói
năm 1181 dân chết gần một nửa. Liên tiếp các nạn đói lớn xảy ra năm 1198 – 1199, đặc
biệt nạn đói năm 1208, xác người chết đói nằm gối lên nhau. Căm thù giai cấp thống trị
và nhà nước phong kiến đã đẩy người dân đến chỗ đói khổ, tha phương cầu thực, nông
dân, dân nghèo đã nổi dậy khởi nghĩa ở nhiều nơi. Nhà nước trung ương suy yếu, các
thế lực phong kiến nổi dậy tranh chấp nhau địa vị, quyền lợi dẫn đến cuộc hỗn chiến
giữa các phe phái. Nhà Lý suy sụp buộc phải dựa vào thế lực của Trần Tự Khánh để
chống lại các thế lực chống đối, nổi loạn.
1.2.1.2. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Trần
* Về chính trị - xã hội:
Trên bước đường chinh chiến, họ Trần ngày càng có thế lực, đánh bại dần các
lực lượng chống đối và nắm dần các chức vụ chủ chốt trong triều đình nhà Lý. Năm
1224, họ Trần buộc Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Thánh, mới 7
tuổi. Đầu năm 1226, Lý Chiêu Thánh nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (bấy giờ
mới 8 tuổi). Từ đó, Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế, nhà Trần được thành lập và tồn tại
đến năm 1400. Sự thay đổi triều Lý sang triều Trần là kết quả phù hợp với yêu cầu phát

triển của quốc gia Đại Việt bấy giờ. Nhà Lý không còn khả năng cai quản đất nước,
phải có một tập đoàn phong kiến khác lên thay thế để ổn định xã hội, đẩy đất nước tiến
lên. Lịch sử đã minh chứng, nhà Trần đã đáp ứng được yêu cầu của lịch sử dân tộc, đưa
nền văn minh Đại Việt phát triển cao hơn thời Lý, đất nước hùng mạnh hơn. Nhà Trần

15


chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như ở thời Lý. Chế độ quân chủ chuyên chế
trung ương tập quyền dần hoàn chỉnh, các bộ máy chính quyền được tổ chức chặt chẽ.
Đứng đầu là vua, theo thể chế cha truyền con nối. Giúp vua trị nước có hệ thống quan
văn võ gồm nhiều cấp bậc khác nhau. Chính quyền địa phương được chia thành ba cấp:
phủ - lộ - châu. Để giữ gìn an ninh, trật tự cho đất nước, nhà Trần rất quan tâm và chú ý
xây dựng tổ chức quân đội khá quy củ bao gồm quân đội triều đình và quân địa
phương.
* Về kinh tế:
Để đẩy mạnh nông nghiệp phát triển, nhà nước chú trọng xây dựng khai hoang
để mở rộng diện tích cày cấy, giải quyết công ăn việc làm cho dân nghèo, dân lưu
vong. Năm 1266, nhà Trần cho phép vương hầu, quý tộc chiêu tập dân phiêu tán đi
khai hoang lập trang trại. Những năm mất mùa đói kém nhà nước đều có giảm thuế,
phát tiền, giao cho dân nghèo để giữa họ lại ở làng xã. Chính sách “ngụ binh ư nông”
được tiếp tục thực hiện rộng rãi. Nhà Trần còn quan tâm đến công tác trị thủy và công
việc thủy lợi như xây dựng các công trình thủy nông, thành lập các cơ quan chuyên
trách như Hà đê sứ ở các lộ để chuyên trông coi việc đắp, sửa đê phòng lụt. Nhờ đó,
nạn đói, nạn lũ lụt, vỡ đê giảm nhiều. Các vua Trần hằng năm cũng thân hành đi xem
xét việc đắp đê điều. Đại Việt thời Trần, nền kinh tế nông nghiệp khá phát triển, nhiều
năm được mùa lớn, cuộc sống của nhân dân ổn định. Uông Đại Uyên người Trung
Quốc thời Nguyên, sang sứ nước ta về đã ca ngợi “Nước Đại Việt đất rộng người đông,
khí hậu thường nóng, ruộng đất phần nhiều phì nhiêu”. Năm 1293, sứ nhà Nguyên là
Trần Phu sang Đại Việt đã có bài thơ “An Nam tức sự”: “Lúa mỗi năm chín 4 lần, tuy

vào giữa mùa đông mà mạ vẫn mườn mượt”. Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng
có nhiều khởi sắc. Các nghề thủ công truyền thống rất phát đạt, nhất là nghề nuôi tằm,
dệt lụa, trồng bông dệt vải, nghề làm gốm, nghề đúc, nghề xây dựng. Nhiều làng nghề
thủ công ra đời. Việc buôn bán trong nước và với người nước ngoài được đẩy mạnh.
Bến Vị Hoàng (Nam Hà) vào thế kỉ XIV là một trung tâm thương mại thịnh vượng.
16


Vân Đồn cũng là một trung tâm buôn bán giữa nhân dân ta và thương nhân nước ngoài
bấy giờ.
* Về văn hóa:
Tôn giáo tín ngưỡng chủ trương một chính sách khoan dung hòa hợp và chung
sống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn giáo. Đó là hiện tượng Tam giáo đồng nguyên.
Các tín ngưỡng tôn giáo cổ truyền đã được tự do phát triển. Văn học nghệ thuật đời nhà
Trần khá phát triển, đào tạo được nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu, Mạc Đĩnh
Chi, Chu Văn An, các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông,…
Nghệ thuật điêu khắc thời kỳ này được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với
thời Lý. Về kiến trúc kế thừa truyền thống nhà Lý: chùa tháp được xây dựng và thiết kế
cầu kì, các họa tiết trang trí đậm màu sắc Phật giáo. Âm nhạc thì chịu ảnh hưởng của
Ấn Độ, Trung Quốc.
1.2.2. Bối cảnh lịch sử nước Đại Việt thời Lê sơ
* Về chính trị - xã hội:
Từ giữa thế kỷ XIV, nước Đại Việt gặp một số khó khăn do sự suy sụp của triều
Trần cùng những biến đổi trong cơ cấu kinh tế xã hội và thể chế chính trị, tư tưởng của
chế độ phong kiến gây ra. Cũng như các vương triều phong kiến khác, sau một thời
gian hưng thịnh, triều Trần dần dần suy đồi. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến, trong
hoàn cảnh hòa bình, tầng lớp quý tộc Trần có xu hướng ăn chơi, hưởng lạc trên sự bóc
lột nhân dân. Và sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến giành độc lập, tháng 4
năm 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi vua, đóng đô ở Thăng Long, khôi phục tên nước
là Đại Việt mở đầu triều đại nhà Lê, sử cũ thường gọi là Hậu Lê (Lê Sơ) để phân biệt

với Lê Hoàn ở thế kỷ X. Trong khoảng hơn 70 năm (1428 – 1503) nhà Lê trải qua 5 đời
vua. Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời nhà Lê ngày càng được củng cố và
đạt tới mức độ phát triển cao. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497), nó đạt tới đỉnh
cao thành một Nhà nước chính trị cực quyền. Thời Lê sơ quân đội được chú trọng huấn
17


luyện kĩ và phát triển rất mạnh. Quân đội được chia thành: cấm binh và ngoại binh.
Vua trực tiếp nắm quyền chỉ huy quân đội. Ngoài ra, vua Lê Thánh Tông còn cho biên
soạn bộ “Luật Hồng Đức” thể hiện rõ nét ý thức giai cấp của nhà Lê trong các mối
quan hệ nhưng cũng phản ánh khá rõ nét tính dân tộc.
* Về kinh tế:
Sau hơn 20 năm bị nhà Minh đô hộ, nền kinh tế nước ta bị tàn phá nặng nề. Vua
Lê sau khi lên ngôi đã ban hành những chính sách kinh tế tích cực nhằm phục hồi phát
triển kinh tế. Nền kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Vua Lê đề ra chính sách
ruộng đất cụ thể nhằm củng cố mối quan hệ kinh tế – xã hội trong nhà nước quân chủ
tập quyền đối với nhân dân. Phân phối ruộng đất thành ruộng đất sở hữu Nhà nước và
ruộng đất sở hữu tư nhân. Trong đó thành phần ruộng đất sở hữu tư nhân có phần lấn
át. Coi trọng chính sách trọng nông đề ra nhiều biện pháp để khuyến khích và phát
triển nhà nước. Việc chăm sóc, đào đắp kênh đê rất được chú trọng, đặt ra các chức
quan khuyến nông và hà đê. Khi khẩn cấp, đã huy động cả học sinh Quốc Tử Giám
trong việc hộ đê. Các công trình thuỷ lợi, đào mương, đào kênh được xây dựng khiến
giao thông cũng phát triển theo làm kích thích sự phát triển của thủ công nghiệp và
thương nghiệp. Ở Thăng Long – Đông Kinh, các thương nhân tập trung buôn bán đông
nhất. Riêng buôn bán với nước ngoài, nhà nước kiểm soát nghiêm ngặt ở các cửa khẩu
như: Vân Đồn, Hội Thống (Hội An)… cấm dân chúng tùy tiện trao đổi mua bán với
người ngoại quốc, thi hành chính sách : “bế quan toả cảng”. Nhờ những chính sách đó
mà kinh tế của đất nước ta dần được cải thiện và đi đến ổn định.
* Về văn hóa:
Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, nhà Lê đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào

tạo nhân tài. Thái Tổ hoàng đế cho dựng lại Quốc Tử Giám ở Đông Kinh, mở trường
học ở các lộ, mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân
đều có thể đi học đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát. Thời Lê sơ tổ chức
được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ 20 trạng nguyên. Học chế thời Lê mở rộng
18


hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học như thời nhà Lý, nhà
Trần. Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc
Tử Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh
danh mới. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những
cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc
biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê
Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái. Việc thi cử và học tập diễn ra thường xuyên và rất
nhiều tiến sĩ và trạng nguyên đỗ đạt và thành danh. Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí
độc tôn, Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các
làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều
đình và giới nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó chịu
sự tận diệt của nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các phật tử phát triển rực
rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ. Văn học chữ Hán tiếp tục phát triển và
chiếm ưu thế, ra đời hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng. Văn thơ chữ Hán có những tác
phẩm nổi tiếng như: “Quân trung từ mệnh tập”,“Bình Ngô đại cáo”,“Quỳnh uyển cửu
ca”... Văn học chữ Nôm bước đầu có sự khởi sắc nhưng cũng giữ một vị trí quan trọng.
Văn thơ chữ Nôm có: “Quốc âm thi tập”,“Hồng Đức quốc âm thi tập”,“Thập giới cô
hồn quốc ngữ văn”…Về sử học có tác phẩm: “Đại Việt sử kí” (10 quyển) của Phan
Phu Tiên, “Đại Việt sử kí toàn thư” (15 quyển) của Ngô Sĩ Liên, “Lam Sơn thực lục ”
của Nguyễn Trãi, …Về địa lí học có: “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “An Nam hình
thắng đồ” của Đàm Văn Lễ viết về địa lí Đại Việt…Về y học có công trình “Bản thảo
thực vật toản yếu” của Phan Phu Tiên và “Bảo anh lương phương” của Nguyễn Trực
dạy cách giữ gìn sức khoẻ cho trẻ em. Về toán học có các tác phẩm “Đại thành toán

pháp” của Lương Thế Vinh, “Lập thành toán pháp” của Vũ Hữu. Nghệ thuật sân khấu
như ca múa nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng và phát triển nhất là chèo
tuồng. Âm nhạc cung đình được hình thành từ thời Lê Thái Tông. Nghệ thuật kiến trúc
và điêu khắc thời Lê Sơ biểu hiện rõ rệt và đặc sắc ở các công trình lăng tẩm cung điện
19


tại Lam Kinh, những đồ vật còn xót lại cho thấy tay nghề tinh xảo, tư duy quy mô lớn
của nghệ nhân đương thời. Hiện nay còn lại một số dấu vết của Lam Kinh ở Thanh Hóa
như nền cột bậc thềm một số con vật bằng đá.
Triều Lê sơ đã có một vị thế quan trọng và được đánh giá cao trong lịch sử dân
tộc, trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Có thể nói, trên diễn trình lịch sử văn hóa
Việt Nam, thế kỷ XV là thời kì phát triển rực rỡ, nói cách khác, đây là một thời kì phục
hưng của văn hóa Đại Việt.

20


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Với tư cách là các triều đại phát rực rỡ nhất trong quá trình lịch sử đất nước, đặt
nền móng cho những bước đi vững chãi của Đại Việt ở các thế kỷ tiếp theo, thời Lý –
Trần – Lê sơ đã đánh dấu những chuyển biến về các mặt chính trị - kinh tế - xã hội và
văn hóa.
Nếu như trước đây ở thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, bộ máy quan lại chủ yếu được
tuyển chọn qua hình thức tiến cử thì sang thời Lý – Trần – Lê sơ để giúp vua điều hành
đất nước tốt hơn thì bộ máy quan lại hầu như đều được tuyển lựa qua các khoa thi
tuyển chọn nhân tài. Bộ máy quan lại ấy chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự phát
triển hưng thịnh của Đại Việt thời Lý – Trần – Lê sơ.
Giáo dục khoa cử phát triển, làm chất lượng trí tuệ của bộ máy quan lại nâng
cao hơn, đất nước có nhiều nhân tài có thể cùng vua bàn bạc, hội ý để đưa ra những

thuyết sách có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh tế của đất nước, làm cho Đại Việt trở
thành một quốc gia hùng mạnh về kinh tế, có đủ tiềm lực để phát triển trong nước cũng
như đủ sức mạnh để chiến thắng các thế lực ngoại xâm từ bên ngoài.
Sự phát triển của giáo dục thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động văn hóa
nghệ thuật: hàng loạt các tác phẩm văn thơ ra đời phục vụ cho nhu cầu giải trí của vua
và quý tộc cũng như mọi tầng lớp nhân dân, các công trình kiến trúc, các tác phẩm
nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ và sáng tạo cũng xuất hiện trong thời kỳ này. Các hoạt
động nghiên cứu tìm tòi được đẩy mạnh và cho ra đời những công trình, những phát
minh khoa học phục vụ cho cuộc sống hằng ngày, đồng thời làm phong phú hơn nữa
các loại hình văn hóa dân gian: các lễ hội, chèo, tuồng, múa rối,…
Như vậy, có thể thấy rằng những chính sách xây dựng và phát triển đất nước
đúng đắn của vua quan thời Lý – Trần – Lê sơ đã có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy
tất cả các hoạt động kinh tế, xã hội của Đại Việt đi lên, góp phần đưa Đại Việt trở thành
một quốc gia hùng cường về chính trị, lớn mạnh về kinh tế với một xã hội ổn định và
một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
21


CHƯƠNG 2
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA VĂN HÓA ĐẠI VIỆT
THỜI LÝ – TRẦN VÀ LÊ SƠ
2.1. Khái quát nền văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần và Lê sơ
2.1.1. Nền văn hóa thời Lý - Trần
2.1.1.1. Tôn giáo, tín ngưỡng
Một trong những nét đặc sắc của nền văn hóa Đại Việt có lẽ là các tín ngưỡng và
các tôn giáo lớn như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Theo từng giai đoạn phát triển của
lịch sử đất nước thì tôn giáo tín ngưỡng đều có những sự phát triển và ảnh hưởng riêng.
Cùng với sự vươn mình mạnh mẽ của dân tộc về các mặt, nền văn hóa dưới thời
Lý – Trần đã đạt đến trình độ phát triển rực rỡ, thể hiện một cách sâu sắc ở cuộc sống
và tâm hồn của dân tộc. Dưới thời Lý – Trần, Phật giáo có điều kiện phát triển mạnh

mẽ, là một trong những yếu tố quan trọng trong xã hội Đại Việt lúc bấy giờ, đóng vai
trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Phật giáo đã được truyền bá
rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân, được vua, quan lẫn dân chúng tôn sùng và đã có
ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống xã hội, in rõ dấu ấn trong mọi lĩnh vực của văn hóa.
Nhiều nhà vua đã từng đi tu như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần
Thái Tông,…Đặc biệt, vua Lý Thánh Tông còn là người sáng lập ra phái Thảo Đường
là dòng Thiền tông thuộc thiền phái thứ ba ở Việt Nam. Sau đó, vua Trần Thái Tông là
người có vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự phát triển cực thịnh của
Phật giáo và trở thành “bó đuốc” của dòng Thiền Việt Nam. Chỉ có dưới thời nhà Trần
mới có nhiều nhà vua ham thích nghiên cứu Phật học và để lại nhiều thơ phú và tác
phẩm về đạo Thiền nổi tiếng. Các vua thời Lý – Trần do sớm mang nặng tư tưởng sùng
Phật nên đã cho xây dựng rất nhiều chùa chiền, cấp độ điệu cho hàng nghìn người làm
sư, phát hàng nghìn lạng vàng, bạc thuê thợ đúc chuông lớn đặt ở các chùa, làm lễ tạ
ơn khi chiến thắng quân xâm lược. Trong xã hội, các tầng lớp nhân dân nếu có điều
kiện đều mong muốn được cúng tiền ruộng đất, tiền của để xây dựng, trùng tu chùa,
22


xây tháp, đúc chuông, dựng bia. Một số văn bia không chỉ ca ngợi cảnh trí của chùa
nữa mà còn ca ngợi đạo Phật trong xã hội. Tuy nhiên cho đến nay, những chùa tháp hầu
hết đã bị đổ nát hoặc được trùng tu lại qua nhiều lần, chỉ còn lại một số di tích tiêu biểu
như chùa Một Cột (Hà Nội), chùa Dạm ở Quế Võ, chùa Phật Tích (Vạn Phúc), chùa Bà
Tấm (Gia Lâm),…
Nhà Lý – Trần rất tôn sùng đạo Phật nhưng cũng coi trọng Nho giáo. Ở thời nhà
Lý, dần dần thì ý thức hệ Nho giáo lúc này đã bắt đầu thâm nhập vào thiết chế chính trị
của Nhà nước, tầng lớp cao tăng không còn đóng vai trò quan trọng trong bộ máy
chính quyền nhà nước nữa, nhà nước quân chủ tập quyền thời Lý được phát triển vững
mạnh trên cơ sở mở mang Nho học. Năm 1070, nhà Lý đã cho dựng Văn Miếu làm nơi
thờ Khổng Tử - vị Tiên hiền của đạo Nho và những học trò của ông; mở các kỳ thi theo
tư tưởng Nho giáo. Sáu năm sau, nhà Lý còn lập Quốc Tử Giám làm nơi học tập và đào

tạo Nho sĩ. Cùng với xây các chùa tháp, dựng Văn Miếu, mở khoa thi, nhà Lý cũng xây
một số các đạo quán như quán Khai Nguyên (1101), Ngũ Nhạc (1133),…Năm 1195,
nhà Lý mở khoa thi Tam giáo biểu thị chủ trương “Tam giáo đồng nguyên”, trân trọng
và dung hòa Nho – Phật – Đạo. Đó chính là những viên gạch đầu tiên đặt cơ sở vững
chắc cho sự tiến triển của Nho học vào những thế kỷ sau. Nho sĩ là tầng lớp trí thức
mới của giai cấp phong kiến ra đời do nhu cầu của sự truyền bá Nho giáo ở Việt Nam.
Tuy nhiên ở thời Lý thì số trí thức Nho học còn ít, nhưng một số người như Lê Văn
Thịnh, Mạc Hiển Tích, Bùi Quốc Phái,…đã được giao những chức vụ cao cấp trong
triều hay vào hầu vua học. Có thể thấy từ thời Lý, Nho giáo đã bắt đầu có địa vị trong
xã hội. Tuy nhiên, phải sang đến thời Trần thì Nho giáo mới chiếm vị trí quan trọng
hơn.
Bên cạnh sự phát triển của Phật giáo, Nho giáo, còn có Đạo giáo. Các nhà nước
Lý - Trần đều tổ chức thi Tam giáo để chọn người có kiến văn rộng về cả ba hệ tư
tưởng Phật, Nho, Đạo nhằm đứng ra giúp vua trị nước. Trong triều đình, bên cạnh hệ
thống Tăng quan có cả hệ thống Đạo quan. Đạo giáo đã từng bước thâm nhập sâu vào
23


trong nhân dân và giới trí thức, đã có sự đan xen tư tưởng với Phật giáo và Nho giáo.
Còn trong nhân dân, Đạo giáo đã lan tràn mạnh mẽ với những tiên thánh cho xăm, phát
thuốc, cầu đảo, bùa phép, trừ yểm, đồng bóng... Đó là những hiện tượng bình thường
trong đời sống nhân dân lao động dưới chế độ phong kiến khi khoa học kỹ thuật chưa
có điều kiện để phát triển. Thần - Phật dường như đi vào đời sống tâm linh của nhân
dân khá sâu đậm. Đôi khi đạo Phật và Đạo giáo xen lẫn vào nhau. Thần - Phật là không
phân biệt. Nhân dân không chỉ phần lớn theo đạo Phật mà còn tin vào những linh ứng,
cầu gì được nấy của Thần - Phật. Nhìn chung, dưới thời Lý - Trần, Phật giáo, Đạo giáo
và Nho giáo đều đồng thời phát triển và có mặt thâm nhập lẫn nhau trong tinh thần
"Tam giáo đồng nguyên".
Cùng với sự phát triển của đất nước, qua các triều đại lịch sử, Phật giáo, Nho
giáo, Đạo giáo luôn song hành tồn tại, có phần nào đó pha trộn với nhau, kết hợp với

những tín ngưỡng dân gian của người Việt tạo nên một nền văn hóa dân tộc độc đáo.
Nhà Lý đưa thần Trống Đồng (Đồng Cổ), biểu tượng của văn hóa Đông Sơn, của nền
văn minh thời dựng nước, về kinh thành và lập miếu Đồng Cổ năm 1028, hằng năm cử
hành Hội thề trang nghiêm. Năm 1160, nhà Lý dựng đền Hai Bà Trưng ở phường Bố
Cái (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) để suy tôn các anh hùng dân tộc. Tinh thần yêu nước,
ý thức quốc gia – dân tộc luôn luôn chi phối đời sống xã hội và các hoạt động của
vương triều. Đời sống tinh thần thời Lý vừa kế thừa và thấm đượm tinh thần yêu nước,
vừa dung hợp các tôn giáo ngoại nhập với các tín ngưỡng dân gian trong một không
gian tư tưởng, văn hóa dân tộc mang tính hòa đồng. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa mang
tính cộng đồng và tâm linh của các tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Ngoài tết
Nguyên đán và các lễ vào tiết Thanh minh, Hàn thực, Trung nguyên… còn nhiều lễ hội
của các đền chùa, các thôn làng. Ở các thế kỉ X – XIV, những tín ngưỡng cổ truyền vẫn
được phổ biến. Bên cạnh các tục thờ tích cực ngày càng được mở rộng như tục thờ tổ
tiên, thờ những anh hùng dân tộc, những người có công với làng, với nước,… các tục
thờ nguyên thủy “vạn vật hữu linh” vẫn còn nhiều.
24


2.1.1.2. Giáo dục
Ở thế kỷ XI, các chùa vẫn là những trung tâm văn hóa giáo dục, đồng thời là
trường học. Do nhu cầu tổ chức bộ máy nhà nước đòi hỏi phải phát triển giáo dục. nhà
Lý bắt đầu chú ý tới việc đẩy mạnh học tập, thi cử, tuyển chọn những người có năng
lực qua con đường Nho học, bổ sung vào bộ máy hành chính quốc gia. Vì thế, cùng với
việc đề cao đạo Phật thì đạo Nho bắt đầu từ đây cũng được coi trọng. Nhà Lý cho xây
dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở kinh thành làm nơi học tập cho con em quý tộc, mở
đầu nền đại học của nước ta. Năm 1075, nhà Lý đã cho mở khoa thi gọi là Minh kinh
bác học và Nho học tam đường để kén chọn người tài. Năm 1086, cho thi tuyển những
người có văn học trong nước, Mạc Hiển Tích là người đỗ đầu, được tuyển vào làm Hàn
lâm học sĩ. Thi cử là hình thức tuyển chọn quan lại tốt nhất cho bộ máy chính quyền
nhà nước. Tuy nhiên ở thời Lý thi cử mới chỉ là bước đầu, chỉ khi đến thời Trần mới

trở thành chế độ quy củ và các khoa thi được mở theo một định kỳ nhất định. Trước
tiên về tổ chức trường học, có các loại trường: trường học do nhà nước tổ chức, trường
học do tư nhân tổ chức và trường học ở các địa phương. Trường học do Nhà nước tổ
chức có Quốc tử viện, Quốc học viện, nơi đây không phải dành cho tất cả các đối
tượng mà chỉ dành cho con em các văn quan và tụng quan vào học. Năm 1281, triều
đình cho lập thêm nhà học ở phủ Thiên Trường – kinh đô thứ hai của nhà Trần (nay
thuộc thành phố Nam Định). Hệ thống trường học do Nhà nước tổ chức về cơ bản được
tập trung chủ yếu ở kinh thành. Bên cạnh trường quốc lập chúng ta còn thấy xuất hiện
những trường tư như trường Chu Văn An, trường của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc
thu hút rất nhiều nho sĩ đến học. Trường học ở các địa phương có thể đã được tồn tại
nhưng trên thực tế chúng ta lại không có tư liệu nào cho biết thực trạng ra sao, cách
thức tổ chức như thế nào, mãi đến năm 1397 mới thấy sử cũ chép đến việc nhà Trần
mở một hệ thống trường học ở các phủ châu từ nhỏ đến lớn. Buổi đầu thời Trần, giáo
dục Nho học chưa phải là nội dung duy nhất, qua các kỳ thi tam giáo đã chứng tỏ rằng,
giáo dục chú trọng cả Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Năm 1232, nhà Trần tổ chức
25


×