Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về xử lý vi phạm đối với các tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.24 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
------------&-----------

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM ĐỐI VỚI CÁC
TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

VŨ ĐÌNH CƯỜNG

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
------------&-----------

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM ĐỐI VỚI CÁC
TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

VŨ ĐÌNH CƯỜNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS PHẠM THỊ GIANG THU


Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của chính tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Tôi đã làm hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Viện đại học mở Hà Nội.
Vậy Tôi viết lời Cam đoan này đề nghị Viện đại học mở xem xétt để tôi
có thể bảo vệ luận văn./.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Đình Cường


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và tiến hành nghiên cứu luận văn này tôi
đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các cá nhân và tập thể. Tôi xin có lời
cảm ơn chân thành nhất đến tất cả các tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện giúp
đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Trước hết tôi xin chân thành gửi lời
cảm ơn tới PGS.TS Phạm Thị Giang Thu người đã tận tình hướng dẫn và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình tiến hành thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu Viện đại học mở, trường Đại
học luật Hà Nội, Ban chủ nhiệm Khoa sau Đại học-Viện đại học mở, các thầy
cô giáo đã trực tiếp tham gia giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan, các cá nhân đã tạo điều kiện

cho tôi trong công việc thu thập tài liệu và thông tin phục vụ cho đề tài./.
VŨ ĐÌNH CƯỜNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ ..1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ XỬ
LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG HOẠT
ĐỘNG NGÂN HÀNG.............................................................................................7
1.1 Khái quát về tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng .................................... ..7
1.1.1 Khái quát về tổ chức tín dụng ....................................................................... ..7
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm hoạt động ngân hàng .................................................... ..9
1.2 Tổng quan về pháp luật xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân
hàng ......................................................................................................................... 16
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động
ngân hàng ............................................................................................................... 16
1.2.2 Nội dung pháp luật về xử lý vi phạm trong hoạt động ngân hàng ................. 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 28
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM ............................ 29
2.1 Cơ sở và nguyên tắc đánh giá thực trạng pháp luật xử lý vi phạm trong
hoạt động ngân hàng ............................................................................................... 29
2.1.1 Cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật xử lý vi phạm trong hoạt động
ngân hàng ............................................................................................................... 29
2.1.2 Nguyên tắc xử lý vi phạm trong hoạt động ngân hàng .................................. 33
2.2 Thực trạng pháp luật xử lý vi phạm của tổ chức tín dụng trong hoạt động
ngân hàng ................................................................................................................ 34
2.2.1 Pháp luật xử lý vi phạm hình sự trong hoạt động ngân hàng. ....................... 34
2.2.2 Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động ngân hàng ............... 52



2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm trong hoạt
động ngân hàng trong thời gian tới ......................................................................... 60
2.3.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật ...................................................................... 60
2.3.2 Một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả pháp luật ..................... 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ..................................................................................... 70
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 73


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM

Ngân hàng Thương mại

TMDV:

Thương mại dịch vụ

OceanBannk:

Ngân hàng Đại Dương

VNCB:

Ngân hàng thương mại cổ phần xây dựng Việt Nam

TCTD:


Tổ chức tín dụng

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

NHNN:

Ngân hàng nhà nước

TMCP

Thương mại cổ phần

ACB:

Ngân hàng Á châu

TP HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh

NN&PTNT:

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

REE:

Công ty cổ phần cơ điện lạnh


TNHH MTV:

Trách nhiệm hữu hạn một thành viên

HĐQT:

Hội đồng quản trị

VDB:

Ngân hàng phát triển Việt Nam

WTO:

Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Muốn mở rộng phát triển bất kỳ ngành kinh tế nào cũng cần có vốn. Để
đáp ứng được nhu cầu về vốn cho tất cả các ngành, các khu vực kinh tế, đặc
biệt ở những địa phương có nhiều khó khăn, nhà nước cần có những chính
sách tín dụng hiệu quả thông qua ngân hàng.
Hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển Kinh tế - Xã hội, là nơi cung ứng vốn chủ yếu cho nền
kinh tế. Trong thời gian vừa qua, sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam có
sự đóng góp quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại, nhưng sự bất ổn
của nền kinh tế nước ta nếu có xảy ra thì cũng sẽ bắt nguồn từ chính hoạt
động yếu kém của các ngân hàng, bởi phần lớn nguồn tài chính để đảm bảo
hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nhà

nước và các thành phần kinh tế khác là vay vốn từ ngân hàng.
Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cộng với
những yếu tố nội tại của nền kinh tế nước ta đang gặp nhiều khó khăn, sản
xuất kinh doanh bị đình trệ, hàng chục nghìn doanh nghiệp bị phá sản, thị
trường bất động sản đóng băng dẫn đến nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cao,
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong bối cảnh đó, tình hình vi phạm pháp luật trong
hoạt động ngân hàng càng gia tăng, tính chất phức tạp với những phương
thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Nhiều vụ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
gây thiệt hại không chỉ về kinh tế mà còn làm mất ổn định kinh tế vĩ mô, gây
khó khăn, rối loạn trong công tác điều hành của Nhà nước, trong đó có các
hành vi vi phạm trong hoạt động ngân hàng.
Hiện nay, các ngành kinh doanh nói chung và ngành ngân hàng nói
riêng đang bước vào một giai đoạn cạnh tranh gay gắt. Dự báo trong thời gian
tới, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước thì tình hình vi pham pháp luật

1


trong lĩnh vực kinh tế nói chung và vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân
hàng nói riêng sẽ tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp và khó lường, nhiều thủ
đoạn, hành vi vi phạm tinh vi hơn sẽ diễn ra. Trong bối cảnh đó đã và đang
đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm trong hoạt động ngân hàng,
góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và xử lý vi phạm
pháp luật trong hoạt động ngân hàng hiện nay.
Yêu cầu hiện nay là cần có những đánh giá tổng quan về thực trạng xử
lý vi phạm đối với các tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng ở các địa
phương, những kết quả đạt được, tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân từ đó có
những kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm trong
hoạt động ngân hàng.
Vì những lý do đó mà tôi chọn đề tài “Pháp luật về xử lý vi phạm đối

với các tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng”.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề Pháp luật về xử lý vi phạm đối với các tổ chức tín dụng trong
hoạt động ngân hàng là một chủ đề cũng đã được một số tác giả nghiên cứu ở
những khía cạnh nhất định, cụ thể:
- Tác giả Phạm Ngọc Anh (2011) làm luận văn thạc sĩ luật học với đề
tài “Pháp luật điều chỉnh hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của ngân hàng
thương mại và hoạt động của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ” do TS.
Phạm Thị Giang Thu hướng dẫn. Đề tài tiếp cận dưới giác độ từ bên trong
ngân hàng thương mại và trách nhiệm phòng ngừa vi phạm pháp luật và rủi ro
đối với hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
- Tác giả Nguyễn Ngọc Lương (2017) làm luận án tiến sĩ luật học với
đề tài “Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại
ở Việt Nam” do PGS. TS. Phạm Thị Giang Thu và TS. Nguyễn Văn Tuyến là
người hướng dẫn. Trong luận án, tác giả cũng đề cập đến các vi phạm trong
hoạt động cấp tín dụng và thực trạng xử lý vi phạm theo pháp luật hiện hành.

2


- Tác giả Vũ Thị Huyền Trang (2015) làm luận văn thạc sĩ luật học với
đề tài “Pháp luật về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại từ các
tổ chức tín dụng và Ngân hàng Nhà nước - Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện” do PGS. TS. Phạm Thị Giang Thu hướng dẫn. Tác giả nghiên cứu sâu
về thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn (một trong những
hoạt động ngân hàng) và có phân tích về những vi phạm và hướng xử lý trong
quá trình huy động vốn của tổ chức tín dụng.
- Tác giả Nguyễn Mai Anh (2016) làm luận văn thạc sĩ luật học với đề
tài “Pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín dụng của ngân
hàng thương mại Việt Nam” do PGS. TS. Phạm Thị Giang Thu hướng dẫn.

Nội dung đề tài phân tích về thực trạng pháp luật về kiểm soát an toàn trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, trong đó có đánh giá về những
vi phạm pháp luật trong quá trình cấp tín dụng có thể làm mất an toàn đối với
ngân hàng.
- Tác giả Phạm Quang Huy (2015) làm đề tài “Pháp luật về nợ xấu
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông” do TS. Nguyễn Văn Tuyến
hướng dẫn. Đề tài tập trung phân tích thực trạng pháp luật, nguyên nhân và
xác định trách nhiệm của các chủ thể có liên quan đến việc tạo ra nợ xấu tại tổ
chức tín dụng.
- Tác giả Kim Thị Huyền (2008) làm luận văn thạc sĩ luật học với đề tài
“Vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng và quyền tự do kinh
doanh của các tổ chức tín dụng” do TS. Phạm Thị Giang Thu hướng dẫn. Đề
tài phân tích các quy định đảm bảo an toàn theo Luật Các tổ chức tín dụng
năm 1997.
- Tác giả Phạm Thị Thương (2013) làm luận văn thạc sĩ luật học với đề
tài “Xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại theo
pháp luật Việt Nam” do TS. Nguyễn Văn Tuyến hướng dẫn. Luận văn tập

3


trung đánh giá việc thực hiện xử lý nợ xấu trong khuôn khổ pháp luật hiện
hành và cũng đề cập một phần đến trách nhiệm của các chủ thể vi phạm pháp
luật ngân hàng.
Ngoài các luận văn, luận án nêu trên thì cũng có một số sách chuyên
khảo nghiên cứu liên quan đến đề tài, cụ thể:
- Sách chuyên khảo “Hiệu quả và rủi ro trong hoạt động ngân hàng Nghiên cứu tình huống các ngân hàng thương mại Việt Nam” do GS,TS.
Nguyễn Thị Cành chủ biên, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh năm 2015. Cuốn sách phân tích hoạt động ngân hàng dưới khía

cạnh kinh tế, nhưng cũng gắn với các quy định pháp luật hiện hành về quản lý
rủi ro ngân hàng.
- Sách chuyên khảo “Pháp luật về hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt
động thẩm định cho vay của ngân hàng thương mại” của tác giả Lê Thị Ngân
Hà, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014. Tác
giả đề cập đến các quy định và thực trạng phòng ngừa và xử lý rủi ro cũng
nhưng các vi phạm của tổ chức tín dụng trong quá trình quản trị rủi ro.
Điểm qua tình hình nghiên cứu trên đây, có thể khẳng định, đề tài Pháp
luật về xử lý vi phạm đối với các tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng
mặc dù cũng đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến ở những mức độ
khác nhau, nhưng bối cảnh thực tiễn hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu, toàn diện nên đề tài vẫn còn có tính mới, tính thời sự và khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Luận văn trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn để tìm ra những bất
cập, hạn chế của pháp luật xử lý vi phạm đối với các tổ chức tín dụng trong
hoạt động ngân hàng, từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật ngân hàng và pháp luật liên quan để điều chỉnh hoạt động ngân
hàng được hiệu quả và an toàn.
Từ mục đích trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:

4


Một là, phân tích những vấn đề lý luận lý luận về vi phạm pháp luật và
xử lý vi phạm pháp luật của tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân
Hai là, đánh giá thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm của tổ chức tín
dụng trong hoạt động ngân hàng
Ba là, đề xuất kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật xử lý vi
phạm trong hoạt động ngân hàng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Luận văn có đối tượng nghiên cứu là hệ thống các quy định pháp luật
về xử lý vi phạm đối với các tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng cũng
như thực tiễn áp dụng đối với các tổ chức tín dụng vi phạm hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các quy định pháp luật
hiện hành về xử lý vi phạm pháp luật của tổ chức tín dụng từ năm 2010 cho
đến nay. Luận văn không nghiên cứu các quy định pháp luật xử lý vi phạm
đối với tổ chức tín dụng nhưng không phải xuất phát từ hoạt động ngân hàng.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
về luật học, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn cũng áp dụng nhiều phương pháp truyền thống
trong nghiên cứu luật như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê và so sánh luật học.
6. Ý nghĩa khoa học của luận văn:
- Luận văn xây dựng nội dung lý luận cơ bản về vi phạm pháp luật trong
hoạt động ngân hàng và pháp luật về xử lý vi phạm đối với tổ chức tín dụng
trong hoạt động ngân hàng.
- Luận văn đã phân tích, bình luận quy định xử lý vi phạm pháp luật về
hoạt động ngân hàng như nhận diện hành vi vi phạm, chủ thể vi phạm, hình
thức xử lý, thẩm quyền xử lý đối với hành vi vi phạm hoạt động ngân hàng;
đưa ra nhận xét về ưu điểm, hạn chế, bất cập trong quá trình thực thi pháp luật

5


về xử lý vi phạm trong hoạt động ngân hàng hiện nay, tìm ra nguyên nhân dẫn
đến hạn chế, bất cập đó.
- Trên cơ sở những hạn chế, bất cập đã được luận giải, luận văn đã đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả, chất lượng
của việc xử lý vi phạm trong hoạt động ngân hàng ở nước ta hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu kết luận, danh mục tài liệu, tham khảo,
phần nội dung gồm 2 chương:
Chương 1: Những Vấn đề lý luận lý luận về vi phạm pháp luật và xử
lý vi phạm pháp luật của tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm của tổ chức tín dụng
trong hoạt động ngân hàng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
VÀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA TỔ CHỨC TÍN
DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
1.1. Khái quát về tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng
1.1.1. Khái quát về tổ chức tín dụng
Theo Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010, khái niệm “tổ chức tín
dụng” được quy định: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo
quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân
hàng” Điểm đặc trưng của TCTD theo Luật Các tổ chức tín dụng 2010 là
“hoạt động ngân hàng” - hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung
ứng các dịch vụ thanh toán
Từ khái niệm trên có thể nhận thấy các đặc điểm nổi bật của TCTD so
với các tổ chức khác đó là:
Thứ nhất: đối tượng kinh doanh của các TCTD là tiền tệ - vật mang giá.
Đối với các chủ thể mua bán thông thường, tiền tệ là phương tiện thanh toán
dùng trong các hoạt động mua bán, trao đổi. Còn đối với các TCTD, tiền tệ

còn có thêm chức năng là đối tượng kinh doanh. Một đối tượng kinh doanh
tiền ẩn nhiều rủi ro. Bởi lẽ, các hàng hoá thông thường, bản thân nó đã kết
tinh giá trị và sức lao động của người tạo ra nó, bởi vậy, giá cả của nó là do
nó quyết định. Còn đối với tiền tệ, một phương tiện thanh toán, bản thân nó
không tự quy định được giá trị của nó, bởi vậy, người kinh doanh nó cũng
không thể quyết định được và ấn định giá cả. Sự lên xuống của đồng tiền phụ
thuộc vào các yếu tố khách quan khác như: chính sách của nhà nước, tình
hình kinh tế - xã hội…

7


Thứ hai, hoạt động thường xuyên của TCTD đó là nhận tiền gửi và sử
dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán; mà vẫn
được đề cập đến một cách ngắn gọn là “đi vay để cho vay”. Không phải tất cả
các chủ thể kinh doanh đều có đủ vốn để phục vụ cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Và cũng không phải lúc nào các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội
cũng được huy động để đầu tư kịp thời. Từ những hạn chế đó, họ đã trở thành
khách hàng của các TCTD. Do đó, với tư cách là những định chế tài chính
trung gian, các TCTD kinh doanh bằng cách luân chuyển nguồn vốn từ những
đối tượng có nguồn vốn nhàn rỗi chuyển đến những đối tượng có nhu cầu sử
dụng vốn tại một thời điểm nhất định.
Thứ ba, hoạt động của các TCTD có tính nhạy cảm cao và luôn chịu sự
giám sát chặt chẽ của pháp luật. Kinh doanh ngân hàng dựa trên niềm tin, vì
vậy tính nhạy cảm trong kinh doanh rất cao. Chỉ cần một biến động nhỏ cũng
có thể gây tác động đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng (một thay đổi
nhỏ về lãi suất cũng có thể dẫn đến sự dịch chuyển khách hàng từ ngân hàng
này sang ngân hàng khác).
Nếu các TCTD hoạt động tốt, sẽ góp phần tiết kiệm các nguồn lực, giảm
thiểu chi phí cho xã hội, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát

triển bền vững. Ngược lại, khi TCTD phá sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các
khách hàng gửi tiền và sự phá sản của TCTD luôn có hiệu ứng dây chuyền,
lây lan rất lớn và tác động xấu đến đời sống kinh tế, cho nên hoạt động kinh
doanh ngân hàng phải được giám sát chặt chẽ, thường xuyên bằng pháp luật.
Những quy chế giám sát phổ biến là: quy định về an toàn trong hoạt động
kinh doanh ngân hàng, quy chế về phân phối tín dụng, quy chế về bảo vệ nhà
đầu tư, quy chế về thành lập và cấp giấy phép kinh doanh cho các TCTD...
Thứ tư, kinh doanh ngân hàng gắn liền với yếu tố rủi ro. Rủi ro có thể
xảy ra đối với bất kỳ loại hình kinh doanh nào. Tuy nhiên, rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng có những đặc điểm khác biệt với các lĩnh vực kinh doanh

8


khác về mức độ và nguyên nhân. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có tính
lan truyền và để lại hậu quả to lớn, không chỉ bao gồm rủi ro nội tại của ngành
mà còn của tất cả các ngành khác trong nền kinh tế, không chỉ trong phạm vi
một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Những rủi ro
thường gặp là: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh toán, rủi ro hối đoái,
rủi ro trong quá trình hội nhập.
Với các phân tích trên có thể nhận thấy TCTD là một chủ thể kinh doanh
đặc thù. Chúng có thể được nhận dạng dựa theo nhiều tiêu chí:
Nếu theo các lĩnh vực hoạt động, thì có thể chia thành tổ chức tín dụng là
ngân hàng – được kinh doanh tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt
động có liên quan, và tổ chức tín dụng phi ngân hàng – được thực hiện một số
hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không
được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán.
Nếu theo hình thức sở hữu, có thể chia thành tổ chức tín dụng nhà nước,
tổ chức tín dụng tư nhân và tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài…
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động ngân hàng

Lịch sử phát triển nền sản xuất hàng hóa, từ sản xuất hàng hóa giản đơn
tới kinh tế thị trường với công nghệ hiện đại như ngày nay đều gắn với việc
mở rộng quan hệ thương mại giữa các khu vực, giữa các quốc gia.Việc mua,
bán, trao đổi hàng hóa giữa các khu vực, giữa các quốc gia sử dụng đồng tiền
khác nhau làm nảy sinh nhu cầu đổi tiền. Để đáp ứng nhu cầu đổi tiền của các
thương nhân, xã hội xuất hiện những người làm nghề đổi tiền. Cùng với sự
phát triển của văn minh nhân loại, nghề đổi tiền và các dịch vụ kinh doanh
tiền tệ cũng phát triển trở thành một nghề kinh doanh và được gọi là nghề
ngân hàng.
Ngày nay, để đáp ứng sự phát triển đa dạng của nền kinh tế ở mỗi quốc
gia và tính toàn cầu hóa của kinh tế thế giới, với sự phát triển của khoa học và
công nghệ, hoạt động ngân hàng ngày càng mang tính đa dạng và tinh xảo về các

9


nghiệp vụ kinh doanh. Đồng thời, cơ cấu chủ thể hoạt động trong hoạt động
ngân hàng cũng đa dạng như: ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại,
ngân hàng chính sách, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng…Tuy vậy, trong các
tài liệu nghiên cứu và trong văn bản pháp luật của nhiều nước, khái niệm “hoạt
động ngân hàng” thường được dùng chỉ hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Trong hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật, việc chuẩn hóa khái
niệm “hoạt động ngân hàng” có tác dụng lớn trong việc xác định phạm vi áp
dụng đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng. Chính vì vậy,
trong đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng của nhiều nước có
điều luật ghi nhận hoạt động nào là hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Ở nhiều nước, pháp luật không đưa ra định nghĩa tổng quát về hoạt động
ngân hàng mà liệt kê các hoạt động được coi là hoạt động ngân hàng. Chẳng
hạn, Luật các tổ chức tài chính và ngân hàng Malaysia năm 1989 [53, tr.8] liệt
kê các dạng hoạt động được coi là hoạt động ngân hàng như: huy động tiền gửi

của khách hàng; cấp tín dụng; thực hiện các dịch vụ thanh toán…
Ở Việt Nam, tại Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và tại điều
4 Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 16 tháng 6 năm 2010 giải thích khái niệm hoạt động ngân hàng như sau:
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số nghiệp vụ sau đây:
- Nhận tiền gửi;
- Cấp tín dụng;
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên
tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.

10


Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn
trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương
tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác
cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
Trong đó hoạt động cấp tín dụng là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ
trọng lớn nhất. Bao gồm các nghiệp vụ:
+ Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc
cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục xác định
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả

gốc và lãi.
+ Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên
mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải
thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
+ Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín
dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn
trả cho tổ chức tín dụng theo thảo thuận.
+ Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy
đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng
trước khi đến hạn thanh toán.
+ Cho thuê tài chính: Ngân hàng thương mại (NHTM) được hoạt động
cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính thực hiện

11


theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê
tài chính.
Như vậy, hoạt động ngân hàng là loại hình hoạt động kinh doanh trong
nền kinh tế có đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Đây là dấu hiệu quan trọng để
phân biệt hoạt động kinh doanh ngân hàng với các hoạt động kinh doanh khác
trong nền kinh tế.
Hoạt động ngân hàng có những đặc điểm sau [46, tr.14-19]
Thứ nhất, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, gắn
liền với hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia. Quá trình hình thành, phát triển
cùng với những quy định của pháp luật đã tạo nên đặc điểm riêng của tổ chức
tín dụng, họ là chủ thể thực hiện thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi

thông qua những sản phẩm kinh doanh cơ bản là nhận tiền gửi từ cá nhân và
tổ chức, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán… đáp ứng nhu cầu của
nhiều đối tượng khách hàng. Điều này còn được thể hiện qua cơ cấu vốn đặc
thù cũng như cơ cấu thu nhập - chi phí của mỗi tổ chức tín dụng. Ngoài ra,
hoạt động của tổ chức tín dụng còn gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông
tiền tệ và hoạt động thanh toán ở mỗi quốc gia, giữ vai trò quan trọng trong
việc xây dựng, thực hiện chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn phát triển của
mỗi quốc gia.
Thứ hai, hoạt động của ngân hàng là một lĩnh vực kinh tế tổng hợp, liên
quan đến hầu hết các ngành kinh tế quốc dân, ảnh hưởng đến đời sống chính
trị, kinh tế - xã hội của một nước. Về cơ bản, tổ chức tín dụng nhận tiền gửi từ
các cá nhân và các tổ chức rồi dùng số vốn đó để cho vay nhằm thu lợi nhuận.
Bằng các hoạt động dịch vụ chuyển tiền và thanh toán, ngân hàng cung cấp
các phương tiện thanh vốn cho cả nền kinh tế. Với việc cung cấp các dịch vụ
khác, hoạt động ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu đa dạng, phức tạp của nền
kinh tế và đời sống xã hội. Các hoạt động đó vừa phản ánh tính đặc thù của
ngân hàng, vừa phản ánh bản chất xã hội của ngân hàng. Mặt khác, trong khi

12


thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương
mại còn góp phần thực hiện việc cung ứng và điều tiết khối lượng tiền tệ cho
nền kinh tế, điều tiết việc lưu thông tiền tệ, thúc đẩy sản xuất và lưu thông
hàng hóa. Mối quan hệ giữa ngân hàng với nền kinh tế và thể chế chính trị xã
hội thể hiện mối quan hệ tương hổ và tác động ở cả hai chiều thuận nghịch.
Những chính sách, thể chế tích cực sẽ tác động đến sự phát triển, thay đổi tích
cực của ngân hàng và ngược lại. Đồng thời, các biến động của ngân hàng đến
lượt nó sẽ tác động cả hai phương diện tích cực và tiêu cực đến thể chế chính
trị, đời sống kinh tế của một đất nước.

Thứ ba, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện,
tiềm ẩn nhiều rủi ro và chịu sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước. NHTM chỉ
được phép thực hiện hoạt động khi nhận được giấy phép thành lập từ cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Để nhận được giấy phép thành lập này, NHTM phải
đáp ứng các điều kiện chặt chẽ và ở mức khá cao so với nhiều ngành khác liên
quan đến vốn điều lệ (đạt yêu cầu vốn pháp định), trụ sở làm việc, bộ máy và
nhân sự quản lý, kế họach chiến lược kinh doanh…). Bên cạnh đó, hầu hết
các hoạt động kinh doanh cụ thể của NHTM như ngoại hối, thanh toán quốc
tế, phát hành công cụ nợ, mở rộng mạng lưới… đều phải được chấp nhận từ
cơ quan quản lý sau khi đáp ứng các điều kiện về năng lực kinh doanh. Tham
gia kinh doanh tiền tệ với tầm ảnh hưởng rộng khắp, bên cạnh những rủi ro
thông thường trong kinh doanh, tổ chức tín dụng còn phải ứng phó với nhiều
rủi ro đặc thù, phức tạp trong kinh doanh nhất so với các doanh nghiệp khác,
bao gồm:
Rủi ro lãi suất là sự chênh lệch giữa lãi suất huy động đầu vào và lãi
suất đầu ra do biến động của thị trường và chênh lệch giữa các kỳ hạn huy
động và kỳ hạn đầu tư, cho vay ra thị trường. Nếu không có sự quan tâm thích
đáng đến việc quản lý rủi ro lãi suất, không dự đoán được xu hướng biến động
của lãi suất thì các tổ chức tín dụng có thể bị thiệt hại nặng nề từ loại rủi ro

13


này, thậm chí rơi vào tình trạng thua lỗ dẫn đến phá sản.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ các hoạt động tín dụng là khả năng xảy ra
tổn thất do khách hàng không thực hiện và thực hiện không đúng nghĩa vụ của
mình theo cam kết trong hợp đồng với tổ chức tín dụng (cho vay, bảo lãnh,
các hình thức cấp tín dụng khác) làm giảm hay mất giá trị của tài sản có.
Thanh toán là một mấu chốt quan trọng trong công tác cân đối và điều
hòa vốn, là yếu tố sống còn trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.

Rủi ro thanh khoản là khả năng tổ chức tín dụng không thể đáp ứng nhu cầu rút
tiền thường xuyên hoặc đột xuất của người gửi cũng như các nghĩa vụ chi trả tài
chính khác.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tổ chức tín dụng mà chủ yếu là
ngân hàng thương mại thực hiện các nghiệp vụ tài chính được hạch toán ngoại
bảng, các nghiệp vụ này (chủ yếu là nghiệp vụ bảo lãnh tài chính và giao dịch
thư tín dụng) cũng tạo ra những rủi ro tín dụng cho ngân hàng thương mại
ngoài các rủi ro tín dụng đã được ghi nhận trong nội bảng.
Thứ tư, hoạt động ngân hàng mang tính chất của hoạt động dịch vụ.
Giống như các dịch vụ khác, dịch vụ ngân hàng do tổ chức tín dụng cung cấp
có đặc điểm riêng khác biệt với sản phẩm hàng hóa thông thường đó là tính
trừu tượng - vô hình, quá trình sản xuất - tiêu dùng diễn ra đồng thời.
Bên cạnh đó, dịch vụ ngân hàng gắn liền với ba yếu tố :
Một là yếu tố con người: yếu tố con người phản ánh vai trò quan trọng
của những cá nhân trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ ngân hàng. Khách hàng
thường cảm thấy rất khó khăn khi cố gắng hiểu chi tiết về dịch vụ ngân hàng. Vì
vậy, thực tế cho thấy những quyết định sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng của
khách hàng chịu ảnh hưởng rất lớn vào sự tin tưởng tổ chức tín dụng với đối
tượng đánh giá trực tiếp là đội ngũ các nhân viên phụ trách quan hệ với khách
hàng.
Hai là yếu tố quy trình cung cấp: được hiểu là sự tập trung vào các cơ

14


chế phân phối dịch vụ thông qua các chính sách kinh doanh, các thủ tục…
xuất phát từ dịch vụ do nhiều yếu tố tạo thành nên đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ
hơn về chất lượng; tính không tách biệt (sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng
thời) của dịch vụ đòi hỏi quá trình cung cấp dịch vụ cần thiết phải linh hoạt
nhất định để có thể thỏa mãn những nhu cầu tiềm năng; tính vô hình của dịch

vụ làm tăng vai trò của khách hàng trong việc đánh giá dịch vụ trước khi mua.
Ba là yếu tố điều kiện thực hiện hữu hình hóa các dịch vụ gồm: nhóm
các điều kiện ngoại vi, không có giá trị độc lập (như các sổ séc, sổ tiết kiệm,
thẻ tín dụng…) và nhóm các điều kiện thiết yếu, có giá trị độc lập (mạng lưới
chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch…)
Thứ năm, hoạt động ngân hàng liên quan đến nhiều đối tượng, có ảnh
hưởng với quy mô và phạm vi rộng lớn. Nếu nhìn nhận tổ chức tín dụng như
một doanh nghiệp tham gia kinh doanh trên thị trường thì có thể nói đây là
các tổ chức có quy mô vốn tự có, giá trị tài sản, doanh số hoạt động, mạng
lưới chi nhánh, đội ngũ nhân viên…lớn và rộng khắp trên phạm vi quốc gia,
thậm chí nhiều quốc gia.
Thứ sáu, hoạt động kinh doanh ngân hàng mang tính “nhạy cảm” cao,
rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý xã hội và có tác động lây truyền. Là
trung gian tài chính, ngân hàng đứng giữa người gửi tiền (người cho mình huy
động vốn) và người đi vay (người sử dụng vốn). Chính vì thế, trong mối quan
hệ tay ba này, giữa ngân hàng thương mại với người gửi tiền và người đi vay
đều phải dựa vào lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau là yếu tố bao trùm hàng
đầu trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần thiết cho quan hệ tín dụng phát
sinh. Lòng tin trong quan hệ tín dụng được hình thành nên và được củng cố từ
nhiều phía. Trong mối quan hệ với tổ chức tín dụng thì lòng tin của khách
hàng là số tiền gửi của họ được ngân hàng quản lý một cách tốt nhất bao gồm
cả việc tiền gửi được cất giữ một cách an toàn nhất, được đầu tư một cách
hiệu quả nhất và nhanh chóng được rút ra khi cần thiết. Trong quan hệ tín

15


dụng, lòng tin của ngân hàng (người cho vay) đối với khách hàng (người đi
vay) quan trọng hơn rất nhiều vì ngân hàng cho họ vay vốn với cam kết hoàn
trả của họ.Trong mối quan hệ này, ngân hàng phải duy trì niềm tin cho mình

và người gửi tiền và do vậy, phải cân nhắc kỹ lưỡng năng lực, uy tín của
người đi vay. Nếu không, ngân hàng sẽ không thu hồi được vốn để hoàn trả
cho người gửi tiền và do vậy, cũng sẽ đánh mất luôn lòng tin đối với dân
chúng. Tình trạng tài chính của một ngân hàng phụ thuộc vào niềm tin của
khách hàng gửi tiền, vào giá trị của ngân hàng đó.
1.2. Tổng quan về pháp luật xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động
ngân hàng
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động
ngân hàng
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ. Từ đó có thể định nghĩa: Vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân
hàng là những hành vi trái pháp luật, có lỗi do cá nhân hoặc tổ chức có đủ
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, vi phạm các quy định trong hoạt động
ngân hàng được pháp luật bảo vệ.
Vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân hàng khác với vi phạm pháp
luật trong các lĩnh vực khác ở chỗ hành vi phải xâm phạm các quy định của
hoạt động ngân hàng, nếu không xâm phạm các quy định của hoạt động ngân
hàng thì thuộc về hành vi vi phạm lĩnh vực pháp luật khác.
Những dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân
hàng được thể hiện như sau:
Thứ nhất, là hành vi do con người thực hiện. Vi phạm pháp luật trong
hoạt động ngân hàng trước hết phải là hành vi của con người hoặc tổ chức
(các chủ thể pháp luật) vi phạm các quy định trong hoạt động ngân hàng. Đây
là dấu hiệu không thể thiếu vì không có hành vi của con người thì không xác

16


định được vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân hàng.

Thứ hai, tính trái pháp luật. Vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân
hàng không những là hành vi nguy hiểm cho xã hội của các chủ thể pháp luật
mà hành vi đó còn phải trái với pháp luật trong hoạt động ngân hàng. Hành vi
trái pháp luật trong hoạt động ngân hàng được thực hiện không đúng với
những quy định của pháp luật trong hoạt động ngân hàng như không làm
những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm hoặc tiến
hành hoạt động vượt quá giới hạn, phạm vi cho phép của pháp luật trong hoạt
động ngân hàng.
Thứ ba, có lỗi của chủ thể. Mỗi hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động ngân hàng đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của
chủ thể vi phạm, nghĩa là chủ thể nhận thức và điều khiển được hành vi của
mình. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể vi phạm đối với
hành vi trái pháp luật trong hoạt động ngân hàng của mình. Chỉ những hành vi
nào có lỗi (được chủ thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý) mới có thể bị coi
là vi phạm pháp luật.
Thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật trong hoạt động ngân
hàng phải có năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực pháp lý là khả năng chịu
trách nhiệm pháp lý của chủ thể đối với hành vi của mình. Năng lực trách
nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm trong hoạt động ngân hàng do Nhà nước
quy định trong pháp luật. Năng lực trách nhiệm pháp lý của mỗi cá nhân
thường được xác định dựa vào hai yếu tố là độ tuổi và khả năng nhận thức và
điều khiển được hành vi của chủ thể ở thời điểm hành vi được thực hiện.
+ Vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân hàng có những đặc điểm sau
[40]:
Thứ nhất, các hành vi vi phạm trong hoạt động ngân hàng đa dạng, điển
hình là các nhóm hành vi sau:
Nhóm hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của các tổ chức tín

17



dụng và nền kinh tế.
Nhóm hành vi vi phạm đến tính chính xác của tài liệu, giấy tờ để chiếm
đoạt tài sản ngân hàng mà hành vi phổ biến là ký hợp đồng tiền gửi giả mạo,
tạo dựng hồ sơ dự án; giả mạo hợp đồng mua bán hàng hóa...để thế chấp vay
ngân hàng, chiếm đoạt tài sản.
Hành vi xâm phạm sở hữu như trộm, cướp tài sản tại các cây ATM.
Hành vi sử dụng công nghệ cao như thông qua mạng Internet xâm nhập
vào các tài khoản trong ngân hàng để chiếm đoạt tiền trong tài khoản.
Hành vi làm giả thẻ ngân hàng để rút tiền qua hệ thống ngân hàng.
Hành vi rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Vi phạm quy định về quản lý và sử dụng giấy phép; vi phạm quy định về
tổ chức, quản trị, điều hành; vi phạm quy định về cổ phần, cổ phiếu; vi phạm
quy định về huy động vốn và phí cung ứng dịch vụ; vi phạm quy định về cấp
tín dụng, nhận ủy thác, ủy thác và hoạt động liên ngân hàng…
Thứ hai, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm trong hoạt động ngân hàng
gồm hai nhóm đối tượng trong và ngoài ngành ngân hàng, trong đó nhóm đối
tượng là cán bộ ngân hàng có vai trò chủ chốt thực hiện hành vi vi phạm.
Nhóm đối tượng là cán bộ ngân hàng lợi dụng vị trí công tác, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi vi phạm, thông
thường nhóm đối tượng này thực hiện các hành vi phổ biến như lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi tham nhũng; lợi dụng vị trí công tác, uy
tín của tổ chức ngân hàng để thực hiện hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tiền
của các ngân hàng, tổ chức và cá nhân; cán bộ ngân hàng bị lôi kéo, mua
chuộc, tiếp tay cho tội phạm thể hiện ở hành vi như đưa, nhận lối lộ; cán bộ
ngân hàng thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng…
Nhóm đối tượng vi phạm ngoài ngành ngân hàng với các hành vi phổ
biến như: hành vi lừa đảo với các thủ đoạn như tạo dựng hồ sơ dự án để thế
chấp vay vốn ngân hàng; mua chuộc cán bộ nhà nước, cán bộ ngân hàng tiếp


18


×