Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Skkn một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.55 KB, 17 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI

Lệ Thủy, tháng 3 năm 2019


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI

Họ và tên: Diệp Thị Dung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Ngư Thủy Bắc

Lệ Thủy, tháng 3 năm 2019


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết trẻ em là niềm tự hào lớn của mỗi gia đình, là chủ
nhân tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã hội Việt Nam “Trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục
trẻ phải có sự chung tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội. Nhưng
trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều


các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con cái. Điều này làm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm và sự phát triển toàn diện
của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ có rất ít vốn kỹ năng sống. Vì vậy, việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết để giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn
mình một cách có định hướng, khiến trẻ biết quý trọng bản thân, nuôi dưỡng
những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực, giúp trẻ
hòa nhập với thế giới xung quanh.
Là một giáo viên, tôi nhận thức được rằng việc giáo dục kỹ năng sống là
giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp khác nhau mà quyết
định phải xuất phát từ trẻ, vì thế việc học phải hết sức gần gũi với cuộc sống, nội
dung phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ, trẻ cần có điều
kiện để cọ sát, trao đổi kinh nghiệm, thực hành trải nghiệm và tự giải quyết vấn
đề một cách tự lập. Đó chính là tiền đề gieo mầm hạt giống nhằm hình thành kỹ
năng sống cho trẻ. Song tôi thấy thực tế thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
chưa được chú trọng. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp 4-5 tuổi, tôi luôn trăn
trở suy nghĩ làm thế nào để có một phương pháp truyền đạt đến trẻ những kỹ
năng sống tốt nhất? và dạy dưới hình thức nào?
Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được vai trò quan trọng
của các kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ, tôi đã mạnh dạn chọn nghiên
cứu đề tài: “Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi”
1.2. Điểm mới của đề tài:
Đề tài này thể hiện sự quan tâm thiết thực đến việc giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ. Từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 45 tuổi ở trường mầm non, giúp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong
mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ, nhằm cung cấp cho trẻ những kỹ năng
sống cơ bản thông qua các hoạt động hằng ngày góp phần nâng cao hiệu quả
trong giáo dục mầm non.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tôi đã nghiên cứu để tìm ra
“Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi”.
1.3. Phạm vi áp dụng đề tài.
Với điều kiện và khả năng của bản thân, đề tài này chỉ đề cập đến một số

vấn đề trong việc vận dụng những kiến thức và những biện pháp để giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi ở chính đơn vị trường tôi đang công tác.


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng
Năm học 2018 - 2019 được sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường
tôi giảng dạy lớp 4- 5 tuổi, với tổng số trẻ: 39 cháu; có 19 nữ, 20 nam. Trong
quá trình giảng dạy nhằm thực hiện nội dung nâng cao chất lượng chăm sóc –
giáo dục trẻ. Bản thân tôi đã gặp một số thuận lợi, khó khăn như sau:
* Thuận lợi:
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao, tích cực, động
viên góp ý cho giáo viên một cách tận tình, chu đáo.
- Bản thân là một giáo viên có trình độ chuẩn, được đào tạo chính quy, có
tâm huyết với nghề, luôn yêu thương, tôn trọng trẻ. Luôn tìm tòi học hỏi đồng
nghiệp để nâng cao trình độ chuyện môn nghiệp vụ của mình.
- Đội ngũ giáo viên trẻ, năng động, nhiệt tình trong công việc, yêu nghề và
có trình độ chuẩn trở lên, luôn giúp đỡ lẫn nhau tạo điều kiện cho việc học hỏi
kinh nghiệm.
- Phòng học rộng rãi thuận lợi cho việc trang trí lớp và tổ chức cho trẻ hoạt
động.
* Khó khăn:
- Số trẻ trong lớp đông chưa đồng đều về chất lượng, số ít còn nhút nhát
trong khi thể hiện ý tưởng, khả năng của mình.
- Đa số trẻ ở với ông bà vì ba mẹ đi làm ăn xa nên nhận thức của một số
phụ huynh còn chưa quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ dẫn đến
công tác phối hợp giữa giáo viên với gia đình chưa phát huy được hiệu quả.
Từ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện, tôi đã suy nghĩ,
nghiên cứu tài liệu để tìm ra các giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã khảo sát mức độ các kĩ năng sống của

trẻ. Kết quả khảo sát ban đầu như sau:
Bảng khảo sát mức độ thực tế về vốn kỹ năng sống của trẻ
(Tổng số trẻ là 39)
Nội dung khảo sát
1. Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi
2. Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
3. Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng
nhóm
4. Khả năng mạnh dạn tự tin
5. Kỹ năng nhận thức
6. Kỹ năng vận động

Số trẻ / Tổng
số trẻ
22/39
20/39
20/39

Tỷ lệ đạt
%
56,4%
51,2%
51,2%

21/39
22/39
22/39

53,8%
56,4%

56,4%


7. Kỹ năng thích nghi
21/39
53,8%
8. Kỹ năng vệ sinh
23/39
58,9%
Đứng trước thực trạng trên của lớp tôi đã suy nghĩ, nghiên cứu để tìm
ra:“Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi”
2.2. Các giải pháp.
2.2.1: Lập kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các kỹ
năng sống.
Tổ chức các hoạt động cho trẻ luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ
đạo trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo 4- 5 tuổi, khả
năng tập trung chú ý và ghi nhớ có chủ định rất kém. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng
nhanh quên. Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ không được củng cố bằng cách
luyện tập thường xuyên thì chúng sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế hoạch
cho trẻ luyện tập thường xuyên thì các kỹ năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát triển
bền vững và không bị lãng quên. Việc tổ chức cho trẻ luyện tập phải có kế hoạch
cụ thể, được tiến hành thường xuyên và không ngừng sáng tạo, có như vậy mới
gây được hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Hàng tuần vào sáng thứ 2, tôi thường tổ chức hoạt động trò chuyện cùng
trẻ khoảng 15 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển kỹ năng
giao tiếp cho trẻ. Qua hoạt động này trẻ biết tự giới thiệu mình, biết lắng nghe,
biết dùng ngôn ngữ của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày nghỉ ở nhà
của bé hay trao đổi cùng cô về chủ đề đang học. Cuối chương trình cho trẻ nhận
xét câu chuyện nào hay nhất sẽ đựơc nhận phần thưởng của cô.( Phần thưởng có
thể là một bông hoa cài, một bức tranh vẽ ngôi nhà hay một hạt giống cây nảy

mầm….Các phần thưởng được thay đổi theo từng chủ đề). Kết quả, trẻ lớp tôi
rất hứng thú khi tham gia buổi trò chuyện đầu tuần. Trẻ đã có thói quen trước
khi nói biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt rất mạnh dạn tự tin khi kể “chuyện của
mình” cho bạn nghe.
Trong giờ hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ ôn bài cũ hoặc
làm quen với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 15 phút để tổ chức cho trẻ
luyện tập thực hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể:
Chiều thứ 2, tôi thường tổ chức cho trẻ thực hành các kỹ năng chăm sóc
bản thân như rửa tay, lấy nước uống, mặc quần áo, cho đồ vào ba lô….Mỗi hoạt
động tôi chọn một trò chơi khác nhau.
Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo
hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu
với trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng
cô từ 10 đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và
tặng quà. Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho
trẻ làm quen từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy trẻ


cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy bấm, tuần tiếp theo
tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những tuần sau là áo có khoá kéo. Lúc
đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng túng nhưng do luyện tập thường xuyên và có
kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần chính xác hơn. với cách tổ chức có hệ
thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương
đối tốt.
Chiều thứ 4, tôi tổ chức cho trẻ xem băng đĩa hoặc tranh ảnh có kèm
những câu chuyện về các hành vi ứng xử đúng sai giữa con người với con
người, giữa con người với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo
dục trẻ kỹ năng ứng xử phù hợp với xung quanh.
Ví dụ : Cho trẻ xem đoạn phim về câu chuyện “Mèo hoa đi học”. Tôi trò
chuyện cùng trẻ:

- Mèo hoa đã nói gì với mèo mẹ để không đi học?( Mèo hoa nói dối cái
đuôi bị ốm)
- Bác Cừu đã nghĩ ra cách gì?( Bác cừu đưa kéo dọa cắt đuôi mèo hoa)
- Thái độ của mèo hoa lúc đó như thế nào?(Mèo hoa hoảng sợ)
- Thế là từ đó bạn mèo hoa như thế nào các con? (Mèo hoa đi học cùng
các bạn)
- Qua câu chuyện này các con học được điều gì?
(Câu chuyện là một bài học quý về tính trung thực, chúng ta không nên
nói dối sẽ làm bố mẹ buồn lòng. Và các con biết không mỗi ngày đến trường là
một niềm vui, các con sẽ có thêm nhiều bạn mới và những bài học thú vị)
Mỗi một tình huống, mỗi một câu chuyện tôi dựa vào nội dung để giáo
dục trẻ cách ứng xử phù hợp. Qua việc thảo luận các tình huống như vậy trẻ
luôn có ý thức ứng xử phù hợp với con người và môi trường xung quanh.
Chiều thứ 5, tôi tổ chức các hoạt động nhằm dạy trẻ kỹ năng tuân thủ quy
tắc xã hội.
Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không gây
ồn, khi xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi ngồi
ăn ghế phải xếp sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi xếp dép
phải xếp kẹp đôi, tổ chim non xếp ngăn trên của giá dép, tổ hoa hồng xếp ngăn
giữa, tổ hoa mai con xếp ngăn dưới… Nhờ được tham ra và nhắc nhở thường
xuyên nên ý thức của trẻ trong việc chấp hành các quy tắc cô đưa ra rất tốt.
Chiều thứ 6, tôi tổ chức cho trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ chơi ở các góc
nhằm phát triền kỹ năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp.
Những tuần đầu, tôi cho trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm
như vậy? Cách sắp xếp như thế nào cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia tổ,
yêu cầu mỗi tổ tự xếp mỗi góc chơi, thi xem đội nào xếp đúng, xếp đẹp và nhanh
nhất. Rõ ràng khi tham gia hoạt động này, các kỹ năng hợp tác của trẻ được phát
triển. Trẻ biết giúp đỡ nhau và nhắc nhở nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ một
cách nhanh chóng. Từ việc tổ chức thường xuyên như vậy, các mối quan hệ



cũng như kỹ năng làm việc nhóm của trẻ được củng cố, bên cạnh đó đồ dùng đồ
chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn gàng, ngăn nắp và rất khoa học.Với biện
pháp này, các kỹ năng cần có luôn được củng cố và hoàn thiện một cách chính
xác.
2.2.2: Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ thông qua hình thức giao tiếp
hằng ngày
Cách giao tiếp không chỉ quan trọng trong những năm trẻ đi học mà còn rất
quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ. Kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng
nền tảng để giúp trẻ nhận biết giá trị sống và hình thành kỹ năng sống.
* Kỹ năng giao tiếp với bạn bè:
Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi
đa văn hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích.
Để giúp trẻ phát triển kỹ năng chơi với các trẻ khác tôi tạo môi trường cho
trẻ giao tiếp với nhau và tạo tình huống cho trẻ tự giải quyết. Và tôi đưa ra “tiêu
chí” không tranh giành đồ chơi với bạn. Trong tiêu chí này tôi lên kế hoạch rèn
cả lớp nói chung, cứ vào các buổi chiều bình bầu và nhận xét buổi chơi, tôi cho
cả lớp nhận xét xem trong giờ chơi bạn nào còn tranh giành đồ chơi thì bạn đó
sẽ không được cắm cờ, cuối tuần bạn nào có nhiều cờ sẽ được bé ngoan, ngoài
ra trong các giờ chơi, giờ đón trả trẻ, trẻ nào có biểu hiện hành vi sai trái là tôi
giải thích và sửa ngay cho trẻ, việc làm đó rất tốt đối với trẻ vì trẻ biết được điều
gì nên làm và điều gì không nên làm và nhân cách sống của trẻ sẽ được phát
triển toàn diện hơn.
Ngoài ra tôi còn sưu tầm một số câu chuyện, bài thơ mang tính giáo dục.
Giúp trẻ thấy các nhân vật trong câu truyện , bài thơ khi giao tiếp với nhau như
thế nào? Bài thơ: “ Biết cảm ơn xin lỗi”
Cảm ơn xin lỗi
Dù với ai cũng phải
Ai giúp cho cái gì
Xin lỗi cho đàng hoàng

Nhớ cảm ơn ngay đi
Muốn trở thành bé ngoan
Lỡ làm điều sai trái
Phải biết làm như vậy.
Tính cách mỗi trẻ mỗi khác, có những trẻ hoạt bát, hiếu động nhưng cũng
có những trẻ chậm chạp, thụ động hay quá nóng nảy… Vì thế giáo viên cần phải
biết rõ tính cách của từng trẻ để có thể cho các trẻ chơi với những người bạn
thích hợp với cá tính nhằm tránh xảy ra những va chạm về tính cách.
Ngoài ra tôi còn dạy trẻ “Giao tiếp” bằng mắt và nở một nụ cười thân
thiện, tự nhiên. Dạy trẻ phải luôn luôn giữ lời hứa khiến cho buổi nói chuyện trở
nên thật thoải mái thật chân thành khi tham gia những hoạt động vui chơi ở lớp.
* Kỹ năng chào hỏi khi giao tiếp với người lớn tuổi
Đối với trẻ, người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép và tự nhiên,
không quá màu mè và hình thức, cũng không được phép cộc lốc và suồng sã.


Điều này trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng xử
của bố, mẹ, người thân trong gia đình, cô giáo và người khác.
Chúng ta sẽ không thể kiểm soát được khi người lớn trong gia đình nói
năng thô lỗ và không có hành vi lịch sự tối thiểu. Tôi quyết định đưa kỹ năng
chào hỏi và kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón, trả trẻ:
Ví dụ: Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp với
cô cùng bạn bè, tôi chủ động chào trẻ trước “Cô chào bạn Quang Hoàng” thì lúc
đó trẻ sẽ biết đáp lại câu “Con chào cô ạ’ và tôi nhắc trẻ “Con chào bố, mẹ đi để
vào lớp với cô nào”. Hoặc khi trẻ đang chơi mà có khách đến lớp tôi nhắc trẻ
“Các con chào bác, cô… đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ có thói quen chào cô,
chào bố mẹ và chào khách, khi đến lớp, khi ra về. Còn với trẻ chưa có kỹ năng
giao tiếp nhiều với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi trẻ hơn, trò chuyện với
trẻ nhiều hơn về những người thân của trẻ, về thế giới xung quanh từ đó trẻ sẽ
mạnh dạn hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người khác.

Ngoài ra tôi còn sưu tầm những bài thơ, câu truyện, bài hát có nội dung
giáo dục về lễ giáo với nội dung cụ thể như: Bài thơ" Che mưa cho bạn, Phải là
hai tay, Cảm ơn xin lỗi" và giúp trẻ học thuộc các bài thơ đó. Qua đó giúp trẻ có
những hành vi và kỹ năng tốt qua các bài thơ, câu chuyện .
Ngoài ra tôi còn cho trẻ tham gia trò chơi đóng vai để trải nghiệm những kỹ
năng chào hỏi và giao tiếp.Tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và chọn
cách giao tiếp với người lớn cho phù hợp.
2.2.3: Lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua
các hoạt động hàng ngày.
*Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động học:
- Thông qua hoạt động làm quen văn học: Với tiết kể chuyện “Gấu con
bị sâu răng” Tôi kể cho trẻ nghe, đặt câu hỏi đàm thoại để trẻ trả lời. Cho trẻ
nhập vào vai các nhân vật trong câu chuyện, giáo dục trẻ làm việc theo nhóm,
biết lắng nghe ý kiến của người khác, tôn trọng hợp tác với bạn bè, với những
người xung quanh.
- Thông qua hoạt động tạo hình, âm nhạc: Như nhảy múa, ca hát, vẽ
tranh…Tôi sẽ kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, khả năng
tưởng tượng và sáng tạo của mình.
Ví dụ: Trong tiết vận động múa minh họa cho bài hát “Cô giáo miền xuôi ”
+ Trẻ nói: “Cô ơi con không biết múa”
+ Cô: “Thế con có yêu quý các cô giáo của mình không nào? À con yêu
quý cô giáo của mình, vậy chúng mình cùng nhau múa nhé.” Từ những lời động
viên khích lệ đó trẻ sẽ có hứng thú và tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong hoạt động
để từ đó trẻ sẽ mạnh dạn, chủ động, tự tin trong những giờ hoạt động khác…
- Thông qua hoạt động khám phá xã hội – khám phá khoa học:


Qua bài tìm hiểu động vật sống trong rừng “Hổ, báo, cừu, khỉ, voi…” Trẻ
biết đặc điểm riêng của từng con vật từ những câu hỏi cô đưa ra như: Các con có
biết con voi có mấy chân và con voi sống ở đâu? Con voi thích ăn gì các con

nhỉ?... Trẻ trả lời “Thưa cô con voi thích ăn cỏ ạ” cứ như vậy trong một tiết học
với hàng loạt câu hỏi cô đưa ra thì trẻ nào cũng được tham gia, với trẻ ít nói cô
gọi nhiều và thường xuyên hơn.
- Thông qua hoạt động phát triển thể chất: Tôi cùng các giáo viên khác
tổ chức cho trẻ các vận động như: Bò qua chướng ngại vật, đi trên ghế thể dục ,
chuyền bóng, bật qua vật cản, ném trúng đích thẳng đứng…qua đó rèn cho trẻ
các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, khéo léo khi tham gia vận động. biết
bảo vệ sức khỏe.
- Thông qua hoạt động “Làm quen với toán”: với đề tài “ Sắp xếp theo
quy tắc” tôi sử dụng trò chơi gắn các dụng cụ của nghề sắp xếp theo quy tắc, đội
nào gắn đúng nhanh đội đó sẽ chiến thắng. Như vậy buộc trẻ phải thảo luận với
nhau, hợp tác mới hoàn thành bài tập và trong giờ học nào tôi cũng sưu tầm
những đồ dùng sáng tạo.
* Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động góc:
- Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ
đạo, thông qua hoạt động này bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và không tốt. Vì
vậy tôi luôn uốn nắn và sửa sai ngay cho trẻ trong khi chơi đặc biệt qua các trò
chơi ở góc phân vai.
Ví dụ: Qua góc chơi “bán hàng” thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ
hiểu được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa gửi
lễ phép. Giai đoạn đầu trẻ còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập vai làm
người bán hàng khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ “ Bác ơi bác mua thứ gì
nào? Trẻ nói mua rau – trả tiền nè” Tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi mua hàng con
phải hỏi “Bác ơi bao nhiêu tiền một bó rau, bán cho tôi một bó ạ” nếu trẻ đã biết
thưa gửi lễ phép tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và cuối ngày nhận xét
trước lớp. Với hình thức này các cháu rất thích.
- Thông qua hoạt động vui chơi, tôi dạy kỹ năng sống hợp tác cho trẻ: Ở
độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm. Tình bạn ổn định bắt đầu
nảy sinh. Chúng sẵn sàng chia sẻ với bạn và tình bạn trở nên quan trọng với trẻ.
Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng

làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả
năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Ở kỹ năng
này tôi sử dụng trò chơi để dạy trẻ:
Ví dụ: Trong góc chơi học tập. Mỗi trẻ sẽ được phân công theo nhóm để
nhận nhiệm vụ: bạn nào xếp hoa bằng hột hạt, bạn nào học thẻ số, thẻ chữ….Từ


đó trẻ sẽ học và làm việc cùng nhau theo nhóm và biết tuân thủ theo mệnh lệnh
của nhóm trưởng.
Với hoạt động này tôi thường xuyên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi
như: Cô giáo, bác sỹ, xây dựng doanh trại, xây dựng ngã tư đường phố…Các
trò chơi đóng kịch.Thông qua đó để giáo dục những kỹ năng sống cho trẻ, bởi
trong các trò chơi xã hội này trẻ sẽ được hình thành và phát triển trí tưởng
tượng, sáng tạo.
* Thông qua hoạt động ngoài trời: Tôi đưa kỹ năng sống tự tin: Một
trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin,
lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân
cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ
luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Ví dụ: Cô tổ chức cho 2 đội chơi trò chơi “Kéo co”, ở trò chơi này cháu
thực hiện đúng luật chơi. Mỗi đội luôn tự tin mình sẽ chiến thắng và tìm mọi
cách động viên khích lệ trong nhóm cố gắng có ý chí vươn lên
* Thông qua hoạt động chiều: Hoạt động chiều chính là khoảng thời
gian trẻ được hướng dẫn các kĩ năng sống một cách cụ thể nhất. Tôi đã lựa chọn
đưa vào một số kĩ năng sống để giáo dục trẻ như: kĩ năng gấp quần áo, kĩ năng
tự mặc và cởi quần áo, kĩ năng tự mang giày dép, kĩ năng gấp chăn...Trẻ sẽ có
nhiều thời gian để được thực hành và sửa sai, điều này góp phần khắc sâu cho
trẻ những gì đã học được.
* Hướng dẫn dạy trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác
- Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ,

giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định,
ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơn, không
nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác…
Ví dụ: Khi phụ huynh đưa trẻ đến lớp, tôi đến chào phụ huynh, chào trẻ và yêu
cầu trẻ cất đồ dùng cá nhân của mình như: Con hãy cất mũ và áo vào ba lô của
mình nào, Con hãy tự cất cặp của mình vào tủ nhé. Khi trả trẻ cũng vậy, tôi yêu
cầu trẻ tự mặc áo khoác trước khi về. Trong quá trình trẻ mặc áo tôi hướng dẫn
cho trẻ cách mặc và cài áo. Như vậy đó là cơ hội để tôi giáo dục kĩ năng tự phục
vụ cho trẻ.
- Trong giờ thể dục sáng: Khi cho trẻ đi từ trên tầng về dưới sân trường
tôi kết hợp kỹ năng đi lên, xuống cầu thang cho trẻ đi đúng theo hàng lối, không
chen lấn xô đẩy bạn…
- Trong giờ vệ sinh: Tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: Kĩ năng rửa
tay bằng xà phòng dưới vòi nước sạch, lau mặt bằng khăn sạch, cách chải tóc,
đánh răng và đi vệ sinh đúng nơi quy định…


- Trong giờ ăn tôi dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ: trẻ tự dọn
bàn ghế để ăn, tự đi lấy bát thìa theo số lượng của tổ mình, khi ăn, biết ăn uống
lịch sự, không nói chuyện trong khi ăn, biết ăn hết suất, không làm rơi vãi khi
ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, biết mời trước khi ăn,biết giúp
người lớn dọn dẹp...
- Trong giờ ngủ, tôi cũng linh hoạt rèn luyện cho các cháu một số kĩ năng
tự phục vụ như trải chiếu đúng vị trí, ngăn nắp, gọn gàng. Các cháu còn tự lấy
gối và chăn để đắp vào trời lạnh. Sau khi ngủ dậy, các cháu cũng tự học cách
xếp chăn gối của mình và cất ngay ngắn vào đúng vị trí. Các cháu sẽ cùng nhau
thu dọn, xếp chiếu để cất, đó cũng là cơ hội để rèn cho trẻ kĩ năng hợp tác, làm
việc cùng nhóm bạn. Ngoài ra trong lúc trẻ ngủ, trẻ cũng học được cách giữ im
lặng tránh làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của người khác.
- Nêu gương cũng là một hoạt động đặc biệt để giáo dục các kĩ năng sống

cho trẻ. Thông qua hoạt động nêu gương, trẻ biết được những việc làm tốt và
những việc làm chưa đúng từ đó có sự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù
hợp. Trẻ học cách sửa chữa những hành vi lệch lạc, không đúng với các chuẩn
mực điều này giúp trẻ thích nghi tốt hơn khi lớn lên cùng với xã hội.
2.2. 4: Trang trí môi trường lớp học để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
Môi trường trong lớp học được phân chia thành các góc phù hợp với nhu
cầu học và chơi của trẻ. Các góc được bố trí, sắp xếp hợp lý, thuận tiện và linh
hoạt thay đổi: các góc cần hoạt động yên tĩnh bố trí xa các góc ồn ào. Đồ dùng,
đồ chơi và các nguyên vật liệu thỏa sức cho trẻ sáng tạo và khám phá như lá cây,
hột hạt, vỏ ốc... các hình ảnh, trang trí trong lớp đều rất gần gũi với thế giới của
trẻ nên trẻ dễ dàng tiếp cận.
Ví dụ: Ở góc học tập tôi đã trang bị, đóng các kệ sách trang trí đẹp với
nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “Thư viện trường mầm non”; “tủ sách gia
đình”; “những con vật đáng yêu”; thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện
nhiều kích cở, vừa tầm trẻ.Khi trẻ về góc chơi trẻ xem sách hoặc kể chuyện sáng
tạo qua các hình vẽ trong tranh..
Ngoài ra các sản phẩm của cô và trẻ được trưng bày trong không gian lớp
khích lệ tinh thần ham học hỏi và cố gắng của trẻ. Ngoài việc bố trí các góc thì
tôi cũng chú ý đến khu vực nhà vệ sinh, đây sẽ là nơi rèn luyện cho trẻ các kĩ
năng vệ sinh cá nhân như đánh răng, rửa mặt, rửa tay, tự đi vệ sinh... Giáo viên
luôn thông thoáng nhà vệ sinh, trên tường có trang trí các hình ảnh gần gũi, các
cách làm vệ sinh cá nhân cho trẻ quan sát. Mỗi bệ rửa tay có giá đựng xà phòng,
bàn chải đánh răng được gắn kĩ hiệu rõ ràng cho từng trẻ theo tổ dựa vào màu
sắc...giá khăn cũng được đánh dấu kĩ hiệu cá nhân cho trẻ dễ quan sát và sử
dụng.


Khu vực nhà kho là nơi trẻ cất đồ dùng cá nhân của mình. Tôi đã bố trí tủ
cá nhân trẻ sao cho trẻ dễ lấy, dễ cất các vật dụng cá nhân như mũ, áo, cặp, chăn,
gối... Mỗi tủ đều có tên và kí hiệu của trẻ. Với cách làm như trên, số trẻ trong

lớp đã dần dần học được các kĩ năng tự phục vụ mà không cần đến sự giúp đỡ
của giáo viên.
Nhiều bậc cha mẹ rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo dục trẻ, hơn
nữa phần lớn cha mẹ thường lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện. Ngoài
cửa lớp tôi đã trang bị các bảng thông tin dành cho phụ huynh , các bậc cha mẹ
có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ
của trẻ những kết quả giáo dục ở con mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi
hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin
của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ có thể ghi chép những yêu
cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên..
2.2.5. Tuyên truyền, phối kết hợp với các bậc phụ huynh cùng giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
Hiểu rõ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phần không nhỏ
trong việc giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm khi mới
nhận lớp tôi cũng đã trao đổi với các bậc phụ huynh về việc giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ. Và thống nhất với các phụ huynh về những biện pháp giáo dục ở
nhà cho trẻ để cùng uốn nắn trẻ ngay và kịp thời. Đặc biệt những phụ huynh ít
quan tâm đến con cái, tôi tìm cách để gặp và trao đổi về thành tích học tập của
cháu ở lớp và đồng thời hỏi thăm về nề nếp sinh hoạt, sở thích…của cháu ở nhà
Hay đối với những phụ huynh nuông chiều con cái, làm giúp con tất cả mọi việc
tôi cũng trao đổi với phụ huynh rằng . Phụ huynh nên để trẻ tự làm những công
việc đơn giản phục vụ bản thân như tự xúc cơm ăn, tự mặc quần áo, mặc
dép...Như vậy trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn khi tham gia hoạt động với bạn. Với việc
làm kiên trì đó tôi đã tác động việc học của cháu ở lớp cũng như việc rèn nề nếp
ở nhà, vì tôi thấy rằng một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với
bạn trong nhóm lớp lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết mới trong môi
trường gia đình của trẻ. Chính vì vậy cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng
cảm xúc bằng cách tạo các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Một số kỹ năng có
thể phối hợp cùng cô giáo để dạy trẻ như: kỹ năng cất dép, kỹ năng cất quần áo,
vệ sinh cá nhân...Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và

năng khiếu bẩm sinh của trẻ bên cạnh đó cha mẹ cần dạy trẻ từ từ để trẻ hiểu và
cha mẹ chính là tấm gương sáng để trẻ noi theo. Trong gia đình, việc dạy trẻ
những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ
xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần thục và khéo léo,
không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được
những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa,


những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung
quanh trẻ. Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử
công bằng với trẻ và đảm bảo an toànn cho trẻ. Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui
chơi và học tập.
* Hiệu quả sau khi áp dụng đề tài
Như vậy, qua một thời gian tiến hành đề tài“Một số giải pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ 4-5 tuổi” tôi đã tìm ra những giải pháp tích cực phù hợp để
nâng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và điều đó đã cho được những kết quả
sau:
Đầu năm
Cuối năm học
Nội dung khảo sát

1. Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi
2. Kỹ năng tự lập, tự phục vụ.
3.Kỹ năng hợp tác, hoạt động theo nhóm
4. Trẻ mạnh dạn tự tin
5. Kỹ năng nhận thức
6. Kỹ năng vận động
7. Kỹ năng thích nghi
8. Kỹ năng vệ sinh


Số trẻ /
Tổng số
trẻ
22/39
20/39
20/39
21/39
22/39
22/39
21/39
23/39

Tỷ lệ
đạt
%
56,4%
51,2%
51,2%
53,8%
56,4%
56,4%
53,8%
58,9%

Số trẻ/ Tỉ lệ
Tổng số đạt %
37/39
36/39
35/39
36/39

36/39
37/39
35/39
37/39

94,8%
92,3%
89,7%
92,3%
92,3%
94,8%
89,7%
94,8%

3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là quá trình giáo dục lâu dài, ở
mọi lúc mọi nơi và rất quan trọng vì giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên
trong hệ thống giáo dục quốc dân tạo những tiền đề cho việc hình thành nhân
cách con người mới. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4- 5 tuổi thông qua
mọi hoạt động trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non và ở gia
đình trẻ.Như vậy, qua một thời gian thực hiện đề tài: “Một số giải pháp giáo dục
kĩ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi”, đề tài đã mang lại những ý nghĩa nhất định. Đề
tài đã chỉ ra được những biện pháp cụ thể để giúp giáo dục những kĩ năng sống
cần thiết cho trẻ 4 -5 tuổi. Đó là những kĩ năng về giao tiếp, kĩ năng tự phục vụ,
kĩ năng nhận thức, kĩ năng hợp tác, kĩ năng thích nghi...Tất cả sẽ là vốn kinh
nghiệm sống cho trẻ, để trẻ có thể hòa nhập tốt vào cuộc sống xã hội mà không
bị bỡ ngỡ, lo sợ.
Đề tài còn là cơ hội để tuyên truyền đến các bậc phụ huynh về tầm quan
trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, tạo ra sợi dây liên kết giữa gia đình

và nhà trường nhằm hướng đến mục tiêu chăm sóc, giáo dục trẻ tốt nhất.


Với đề tài này, đây sẽ là nguồn tư liệu cho tất cả các giáo viên đang thực
hiện trách nhiệm chăm sóc, giáo dục trẻ. Các giáo viên có thể vận dụng các biện
pháp đã chỉ ra trong đề tài để áp dụng vào nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho
trẻ ở nhóm lớp mình phụ trách. Tất cả sẽ góp phần nâng cao chất lượng chăm
sóc giáo dục trẻ, đặc biệt là tiến tới trang bị cho trẻ những kĩ năng sống cần thiết
để bước vào đời.
3.2. Đề xuất – kiến nghị
Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được như vậy để nâng cao chất
lượng dạy kỹ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non nói chung và trường
mầm non nơi tôi giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến
sau.
* Đối với phòng giáo dục đào tạo:
+ Thường xuyên xây dựng kiến tập, dự giờ chuyên đề kỹ năng sống (kỹ
năng tự phục vụ) để tạo điều kiện cho giáo viên học tập và nâng cao trình độ
chuyên môn hơn nữa.
* Đối với nhà trường:
+ Nhà trường cần tăng cường cơ sở vật chất, thu hút trẻ và phụ huynh,
trang bị đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động giảng dạy trong năm học mới
tốt hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm dạy trẻ kỷ năng sống mà tôi đã rút ra
được trong quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ phát triển mọi mặt về đạo đức,
nhân cách, phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ và ngôn ngữ. Với khuôn khổ một bài viết
nhỏ, vấn đề chỉ dừng lại ở một phạm vi hạn chế, chưa thể bao quát hết được tất
cả. Đồng thời trong quá trình viết vẫn còn những thiếu sót nhất định, tôi rất
mong được sự góp ý xây dựng của nhà trường, phòng Giáo dục và đào tạo
giúp tôi ngày càng có nhiều sáng kiến kinh nghiệm hay trong giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn !



XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
.......................................................................................................................
.........................
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………….....................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................


.................................................................................................................................
........................................................................................................

XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
.................................…………………………………………………………..





×