Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 93 trang )

TRẦN VĂN HIỆULUẬT KINH TẾ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
2015 - 2017

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

Học viên thực hiện: TRẦN VĂN HIỆU

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH:LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
Học viên thực hiện: TRẦN VĂN HIỆU
Giảng viên hưỡng dẫn: TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các kết quả
nêu trong luận văn chưa đưa công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của khoa sau đại học Viện Đại Học Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Văn Hiệu


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ
đạo nhiệt tình và quý báu của TS.Nguyễn Văn Cương và tập thể các thầy cô giáo
khoa sau đại học – Viện Đại Học Mở Hà Nội.
Nhân dịp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS.Nguyễn Văn
Cương và các thầy cô giáo Khoa Sau đại học - Viện Đại Học Mở Hà Nội. Tác giả
cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn bè và
đồng nghiệp đã giúp đỡ, hỗ trợ tài liệu, tạo mọi điều kiện tốt nhất đồng thời đóng
góp những ý kiến quý báu để hoàn thành công trình nghiên cứu cuối khoá tại Viện
Đại Học Mở Hà Nội.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm tài liệu, nghiên cứu và tìm
hiểu thực tế nhưng do thời gian hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi những
sai sót. Tác giả rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của quý thầy cô,
bạn bè, đồng nghiệp và độc giả.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày


tháng

năm 20

HỌC VIÊN

Trần Văn Hiệu


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết đề tài .......................................................................................... 1
2. Tính hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .......................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 4
6. Bố cục luận văn ................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1 ............................................................................................................ 5
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH..... 5
1.1. Khái quát về cạnh tranh ................................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm................................................................................................ 5
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của cạnh tranh đối với sự phát triển kinh tế................. 6
1.2. Khái quát về pháp luật cạnh tranh ................................................................ 10
1.2.1. Khái niệm.............................................................................................. 10
1.2.2. Vai trò của pháp luật cạnh tranh ............................................................ 11
Kết luật chương .................................................................................................. 14
CHƯƠNG 2 .......................................................................................................... 15

TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH................................................. 15
2.1. Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh.......................................................... 15
2.1.1. Khái niệm.............................................................................................. 15
2.1.2. Các hành vi hạn chế cạnh tranh ............................................................. 15
2.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh........................................................... 34
2.2.1. Khái niệm.............................................................................................. 34
2.2.2. Các loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh ....................................... 36
2.3. Bộ máy thực thi Luật Cạnh tranh và thủ tục tố tụng cạnh tranh.................... 66
2.3.1. Tổ chức bộ máy thực thi pháp luật cạnh tranh ....................................... 66


2.3.2. Điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh .......................................................... 70
Kết luận chương ................................................................................................. 76
CHƯƠNG 3 .......................................................................................................... 77
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH
TRANH ................................................................................................................. 77
3.1. Phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật cạnh tranh ............................. 77
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh ................................................... 80
Kết luận chương ................................................................................................. 82
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 84


DANH MỤC VIẾT TẮT
UNCTAD - Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển
WTO - Tổ chức thương mại thế giới
TTKT - Tập trung kinh tế
NĐ-CP - Nghị định Chính phủ
CTKLM - Cạnh tranh không lành mạnh



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Cạnh tranh là một quy luật và thuộc tính tất yếu của nền kinh tế thị trường mở
cửa và hội nhập và là một động lực thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, qua đó, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên trong thực tế bên cạnh các hành vi cạnh tranh
công bằng và lành mạnh, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, xâm phạm lợi
ích người tiêu dung và xã hội cũng xuất hiện khá phổ biến. Các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh này xâm hại quyền tự do kinh doanh, gây hậu quả xấu cho môi
trường kinh doanh, cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính và cho người tiêu
dùng. Do vậy, để duy trì sự vận hành bình thường của cơ chế thị trường, tất yếu đặt
ra nhu cầu thiết lập một môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng cho các chủ
thể kinh doanh. Đây cũng là một điều kiện mà Việt Nam phải thực hiện sau khi gia
nhập WTO.
Chống cạnh tranh không lành mạnh, chống hạn chế cạnh tranh là vấn đề luôn
có tính thời sự của khoa học pháp lý không chỉ ở các quốc gia có nền kinh tế thị
trường phát triển mà cả ngay ở các quốc gia đang chuyển đổi trong đó có Việt Nam.
Những năm qua, ở nước ta bảo đảm cạnh tranh lành mạnh thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu, xây dựng chính sách và điều chỉnh pháp luật của các nhà khoa học và
những người làm công tác hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật.
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường dựa trên chế độ đa sở hữu,
hoạt động cạnh tranh trên thị trường ở nước ta thời gian qua và hiện nay diễn ra khá
đa dạng giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
giữa hàng nội và hàng ngoại; giữa các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước. Nền kinh tế thị trường càng
phát triển, sự vận động của các quan hệ kinh tế càng phong phú, đa dạng thì quy mô
và mức độ cạnh tranh ngày càng tăng, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh và tập trung kinh tế xuất
hiện ngày càng nhiều. Trong khi đó thực thi pháp luật cạnh tranh còn chưa thực sự
có hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh tranh còn chưa phát huy vai trò của mình trong


1


việc chống lại các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh (hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền v.v.). Vì vậy, việc tiếp tục nghiên
cứu để đề xuất hoàn thiện pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay là cấp thiết
nhất là trong bối cảnh các cơ quan có thẩm quyền đang tổng kết, xây dựng Luật
Cạnh tranh (sửa đổi, bổ sung) thay thế cho Luật Cạnh tranh năm 2004. Vì những lý
do trên đây, người viết chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh ở
Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tính hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua, ở nước ta pháp luật cạnh tranh ngày càng thu hút được sự
quan tâm đông đảo của các nhà khoa học. Nhiều công trình khoa học ở những phạm
vi và mức độ tiếp cận khác nhau đã đề cập đến cơ sở lý luận về cạnh tranh và pháp
luật chống cạnh tranh, tìm hiểu nội dung pháp luật cạnh tranh của một số nước trên
thế giới, nêu ra nhu cầu và phương hướng xây dựng pháp luật cạnh tranh ngày một
hoàn thiện hơn. Tiêu biểu phải kể đến một số tài liệu tham khảo và công trình
nghiên cứu như: Tài liệu tham khảo “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh
trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Như Phát và Bùi Nguyên Khánh, (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001); Chuyên
khảo “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam” của tác giả Đặng Vũ Huân, (Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); Tài
liệu tham khảo“cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay”
của Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, (Nxb công an nhân dân, Hà nội,
2001)….
Luật Cạnh tranh của Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004 và
chính thức có hiệu lực ngày 01/07/2005 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự
điều tiết nền kinh tế theo cơ chế thị trường tại nước ta. Sau thời điểm ban hành Luật
Cạnh tranh năm 2004, cũng có nhiều tài liệu tham khảo và công trình nghiên cứu về

pháp luật cạnh tranh được công bố. Tiêu biểu như đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ, “Những nội dung cơ bản của Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 và đề xuất áp
dụng” của TS.Tăng Văn Nghĩa, 2005; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Những

2


vấn đề đặt ra và giải pháp thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh trong thực tiễn” của
TS.Tăng Văn Nghĩa, 2007; “Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh vào
cuộc sống” của tác giả Nguyễn Như Phát (Tạp chí luật học, số 6/2006); Luận án tiến
sỹ luật học “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam” của tác giả
Lê Anh Tuấn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008; Giáo trình “Luật Cạnh tranh” của
tác giả Tăng Văn Nghĩa, (Nxb giáo dục Việt Nam, 2009)...Ngoài ra còn rất nhiều
bài báo, tạp chí đã đưa ra được thực trạng pháp luật cạnh tranh, xây dựng và đóng
góp ý kiến quý báu cho việc hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh đã được
đăng tải trên các tạp chí như tạp chí nhà nước và pháp luật, tạp chí luật học, tạp chí
kinh tế...
Trong khuân khổ luận văn thạc sỹ luật học, tác giả luận văn sẽ kế thừa các
công trình kể trên và tiếp tục giải quyết những vấn đề mới đặt ra từ thực tiễn xây
dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh ở nước ta thời gian qua.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
pháp luật cạnh tranh, đánh giá thực trạng về pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam từ đó
đưa ra đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật cạnh tranh ở nước ta
trong thời gian tới.
Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu, tìm hiểu về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh;
- Nghiên cứu, các loại hành vi cạnh tranh trên thị trường cũng như thực trạng
xử lý và giải quyết ở Việt Nam hiện nay;
- Đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý hành vi vi

phạm trật tự cạnh tranh ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật cạnh tranh, nhất là các quy định
trong Luật cạnh tranh 2004 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành, thực trạng thực
thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó luận văn cũng sử dụng

3


một số tư liệu phản ánh kinh nghiệm xây dựng và thực thi Luật Cạnh tranh của một
số nước trên thế giới để giải quyết các vấn đề nghiên cứu được đặt ra.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả bám sát các chủ trương, đường lối của
Đảng và nhà nước ta về chính sách cạnh tranh và các giải pháp hoàn thiện pháp luật
cạnh tranh được thể hiện trong các văn kiện của Đảng và hệ thống pháp luật của nhà
nước. Để hoàn thành luận văn, phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm:
Phương pháp so sánh được sử dụng cho phép chúng ta tìm hiểu quan điểm tiếp cận
của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh từ thực tiễn điều chỉnh pháp luật
của nước ngoài cũng như thấy được khía cạnh quốc tế của pháp luật cạnh tranh.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ cơ sở lý
luận về pháp luật cạnh tranh. Phương pháp thống kê cũng được sử dụng để làm rõ
thực trạng pháp luật cạnh tranh và sự điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi cạnh
tranh ở Việt Nam.
6. Bố cục luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 3
chương:
Chương 1: Khái quát chungvề cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh
Chương 2: Tổng quan về pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh


4


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ PHÁP
LUẬT CẠNH TRANH
1.1. Khái quát về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm
Kinh tế thị trường được xem là một trong những phát minh vĩ đại nhất trong
lịch sử phát triển của văn minh nhân loại khi con người đã trải qua sự thống trị của
kinh tế tự nhiên luôn (trong đó xã hội vận động chậm chạp) và sự thống trị của kinh
tế chỉ huy (ở đó động lực kinh tế, tính năng động sáng tạo của con người bị triệt
tiêu). Cho đến nay chúng ta không thể tìm ra được kiểu tổ chức kinh tế nào có hiệu
quả hơn kinh tế thị trường, gắn với cạnh tranh.
Điều cần nhấn mạnh là cạnh tranh chỉ trở thành động lực phát triển nội tại
của nền kinh tế khi người tiêu dùng buộc các chủ thể kinh doanh phải phản ứng phù
hợp với mong muốn của người tiêu dùng. Cạnh tranh cũng là động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất xã hội phát triển nhằm nâng cao năng suất lao động, đẩy nhanh quá
trình tích tụ và tập trung sản xuất trong điều kiện các yếu tố của sản xuất như tài
nguyên, chất xám, sức lao động... đều là hàng hoá. Cạnh tranh xuất hiện với đặc
trưng là một cuộc đua tranh trong một ngành, một lĩnh vực kinh tế nào đó khi có sự
tham gia của các chủ thể kinh doanh có lợi ích mâu thuẫn nhau.
Theo từ điển tiếng việt cạnh tranh được hiểu là “Sự cố gắng giành phần hơn,
phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm lợi ích như
nhau”. Với khái niệm này, cạnh tranh được xem xét ở góc độ chung nhất của đời
sống xã hội. Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng Thống Mỹ đưa ra quan niệm
cạnh tranh với một quốc gia như sau: “Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ
mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng có thể sản xuất các hàng
hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của các thị trường quốc tế, đồng thời duy
trì và mở rộng thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”.


5


Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia
là: “Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức
sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay
đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian”. Cạnh tranh
là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp có thể tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ sản xuất, kinh doanh trong điều kiện của cơ chế thị
trường, cạnh tranh có thể được hiểu một cách chung nhất như sau: “Cạnh tranh
được coi là hành vi của các chủ thể trong khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường với mục đích giành và thiết lập cho mình những
ưu thế có lợi nhất để thu lợi nhận cao nhất”.
Qua các khái niệm trên có thể nhận thấy một điểm chung là:“Cạnh tranh là
sự chạy đua giữa hai hay nhiều đối thủ. Cạnh tranh trong kinh tế về bản chất được
hiểu là sự chạy đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường nhằm không ngừng tung
ra thị trường những sản phẩm và dịch vụ tốt nhất với giá cả thấp nhất nhằm lôi kéo
khách hàng về phía mình”. [2]
Trong thực tiễn, căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền
vào hoạt động kinh doanh, thị trường được chia thành hai hình thái: Cạnh tranh tự
do và cạnh tranh có sự điều tiết.
Căn cứ vào cơ cấu thành viên thị trường và mức độ tập trung trong một lĩnh
vực kinh doanh, thị trường được phân chia thành các hình thái: Cạnh tranh hoàn hảo
và cạnh tranh không hoàn hảo (mức độ cao nhất là độc quyền).
Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh, các hành vi cạnh
tranh trên các hình thái, thị trường được phân chia thành: Cạnh tranh lành mạnh và
cạnh tranh không lành mạnh.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của cạnh tranh đối với sự phát triển kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là

diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường.Nhờ có cạnh tranh, với sự thay
đổi liên tục về nhu cầu và với bản tính tham lam của con người, nền kinh tế thị
trường đã đem lại những bước phát triển nhảy vọt mà loài người chưa từng có được

6


trong các hình thái kinh tế trước đó. Sự ham muốn không có điểm dừng đối với lợi
nhuận của nhà kinh doanh sẽ mau chóng trở thành động lực thúc đẩy họ sáng tạo
không mệt mỏi, làm cho cạnh tranh trở thành động lực của sự phát triển. Theo đó,
cạnh tranh có những vai trò cơ bản sau đây:
- Cạnh tranh đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng: Trong môi trường cạnh
tranh, người tiêu dùng có vị trí trung tâm, họ được cung phụng bởi các bên tham gia
cạnh tranh. Nhu cầu của họ được đáp ứng một cách tốt nhất mà thị trường có thể
cung ứng, bởi họ là người có quyền bỏ phiếu bằng đồng tiền để quyết định ai được
tồn tại và ai phải ra khỏi cuộc chơi.Nói khác đi, cạnh tranh đảm bảo cho người tiêu
dùng có được cái mà họ muốn. Một nguyên lý của thị trường là ở đâu có nhu cầu,
có thể kiếm được lợi nhuận thì ở đó có mặt các nhà kinh doanh, người tiêu dùng
không còn phải sống trong tình trạng xếp hàng chờ mua như thời kỳ bao cấp mà
ngược lại, nhà kinh doanh luôn tìm đến để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
một cách tốt nhất. Với sự ganh đua của môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp
luôn tìm mọi cách hạ giá thành sản phẩm nhằm lôi kéo khách hàng về với mình. Sự
tương tác giữa nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp
trong điều kiện cạnh tranh đã làm cho giá cả hàng hoá và dịch vụ đạt được mức rẻ
nhất có thể, các doanh nghiệp có thể thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong
khả năng chi tiêu của họ. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh loại bỏ mọi khả năng bóc lột
người tiêu dùng từ phía nhà kinh doanh.Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của
người tiêu dùng và khả năng đáp ứng về trình độ công nghệ của người sản
xuất.Trong mối quan hệ đó, sở thích của người tiêu dùng là động lực chủ yếu của
yếu tố cầu; công nghệ sẽ quyết định về yếu tố cung của thị trường.Tùy thuộc vào

khả năng tài chính và nhu cầu, người tiêu dùng sẽ quyết định việc sử dụng loại hàng
hoá, dịch vụ cụ thể.Phụ thuộc vào những tính toán về công nghệ, về chi phí…nhà
sản xuất sẽ quyết định mức độ đáp ứng nhu cầu về loại sản phẩm, về giá và chất
lượng của chúng.Thực tế đã cho thấy, mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu
dùng phụ thuộc vào khả năng tài chính, trình độ công nghệ của doanh
nghiệp.Những gì mà doanh nghiệp chưa thể đáp ứng sẽ là các đề xuất từ phía thị

7


trường để doanh nghiệp lên kế hoạch cho tương lai. Do đó, có thể nói nhu cầu và sở
thích của người tiêu dùng (đại diện cho thị trường) có vai trò định hướng cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Kinh tế học đánh giá hiệu quả của một thị
trường dựa vào khả năng đáp ứng nhu cầu cho người tiêu dùng. Thị trường sẽ được
coi là hiệu quả nếu nó cung cấp hàng hoá, dịch vụ đến tay người tiêu dùng với giá
trị cao nhất. Thị trường sẽ kém hiệu quả nếu chỉ có một người bán mà cô lập với các
nhà cạnh tranh khác, các khách hàng khác.
- Cạnh tranh có vai trò điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường:
Như một quy luật sinh tồn của tự nhiên, cạnh tranh đảm bảo phân phối thu nhập và
các nguồn lực kinh tế tập trung vào tay những doanh nghiệp giỏi, có khả năng và
bản lĩnh trong kinh doanh. Sự tồn tại của cạnh tranh sẽ loại bỏ những khả năng lạm
dụng quyền lực thị trường để bóc lột đối thủ cạnh tranh và bóc lột khách hàng. Vai
trò điều phối của cạnh tranh thể hiện thông qua các chu trình của quá trình cạnh
tranh. Dẫu biết rằng, cạnh tranh là một chuỗi các quan hệ và hành vi liên tục không
có điểm dừng diễn ra trong đời sống của thương trường, song được các lý thuyết
kinh tế mô tả bằng hình ảnh phát triển của các chu trình theo hình xoắn ốc. Theo đó,
chu trình sau có mức độ cạnh tranh và khả năng kinh doanh cao hơn so với chu
trình trước. Do đó, khi một chu trình cạnh tranh được giả định là kết thúc, người
chiến thắng sẽ có được thị phần (kèm theo chúng là nguồn nguyên liệu, vốn và lao
động…) lớn hơn điểm xuất phát. Thành quả này lại được sử dụng làm khởi đầu cho

giai đoạn cạnh tranh tiếp theo. Cứ thế, kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh
và cạnh tranh hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp có sự tích tụ dần trong quá trình
kinh doanh để nâng cao dần vị thế của người chiến thắng trên thương trường. Trong
cuộc cạnh tranh dường như có sự hiện diện của một bàn tay vô hình lấy đi mọi
nguồn lực kinh tế từ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả để trao cho
những người có khả năng sử dụng một cách tốt hơn. Sự dịch chuyển như vậy đảm
bảo cho các giá trị kinh tế của thị trường được sử dụng một cách tối ưu.
- Cạnh tranh đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách hiệu
quả nhất: Những nỗ lực giảm chi phí để từ đó giảm giá thành của hàng hoá, dịch vụ

8


đã buộc các doanh nghiệp phải tự đặt mình vào những điều kiện kinh doanh tiết
kiệm bằng cách sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực mà họ có được. Mọi
sự lãng phí hoặc tính toán sai lầm trong sử dụng nguyên vật liệu đều có thể dẫn đến
những thất bại trong kinh doanh.Nhìn ở tổng thể của nền kinh tế, cạnh tranh là động
lực cơ bản giảm sự lãng phí trong kinh doanh, giúp cho mọi nguồn nguyên, nhiên,
vật liệu được sử dụng tối ưu.
- Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ
thuật trong kinh doanh: Nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận đã thúc đẩy các doanh nghiệp
không ngừng áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để đáp ứng ngày càng tốt hơn đòi hỏi của thị
trường, mong giành phần thắng về mình. Cứ như thế, cuộc chạy đua giữa các doanh
nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật trong đời sống
kinh tế và xã hội. Trên thực tế, sự thay đổi và phát triển liên tục của các thế hệ máy
vi tính và sự phát triển của hệ thống viễn thông quốc tế hiện đại cho thấy rõ vai trò
của cạnh tranh trong việc thúc đẩy tiến bộ khoa học, kỹ thuật.
- Cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi mới liên tục
trong đời sống kinh tế – xã hội: Nền tảng của quy luật cạnh tranh trên thị trường là

quyền tự do trong kinh doanh và sự độc lập trong sở hữu và hoạt động của doanh
nghiệp. Khi sự tự do kinh doanh bị tiêu diệt, mọi sự thi đua chỉ là những cuộc tụ
họp theo phong trào, không thể là động lực đích thực thúc đẩy sự phát triển. Cạnh
tranh đòi hỏi nhà nước và pháp luật phải tôn trọng tự do trong kinh doanh. Trong sự
tự do kinh doanh, quyền được sáng tạo trong khuôn khổ tôn trọng lợi ích của chủ
thể khác và của xã hội luôn được đề cao như một kim chỉ nam của sự phát triển. Sự
sáng tạo làm cho cạnh tranh diễn ra liên tục theo chiều hướng gia tăng của quy mô
và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Việc thiếu vắng sự sáng tạo sẽ làm cho cạnh
tranh trở thành những tua quay được lặp đi lặp lại ở cùng một mức độ, làm cho ý
nghĩa của cạnh tranh – động lực của sự phát triển sẽ chỉ còn là những danh hiệu sáo
rỗng. Sự sáng tạo không mệt mỏi của con người trong cuộc cạnh tranh nhằm đáp
ứng những nhu cầu luôn thay đổi qua nhiều thế hệ liên tiếp là cơ sở thúc đẩy sự phát

9


triển liên tục và đổi mới không ngừng. Sự đổi mới trong đời sống kinh tế được thể
hiện thông qua những thay đổi trong cơ cấu thị trường, hình thành những ngành
nghề mới đáp ứng những nhu cầu của đời sống hiện đại, sự phát triển liên tục của
khoa học kỹ thuật, là sự tiến bộ trong nhận thức của tư duy con người về các vấn đề
liên quan đến kinh tế – xã hội.[6]
Với ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, cạnh tranh
luôn là đối tượng được pháp luật và các chính sách kinh tế quan tâm. Sau vài thế kỷ
thăng trầm của của kinh tế thị trường và với sự chấm dứt của cơ chế kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, con người ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về bản chất và ý
nghĩa của cạnh tranh đối với sự phát triển chung của đời sống kinh tế. Do đó, đã có
nhiều nỗ lực xây dựng và tìm kiếm những cơ chế thích hợp để duy trì và bảo vệ cho
cạnh tranh được diễn ra theo đúng chức năng của nó.
1.2. Khái quát về pháp luật cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm

Cạnh tranh chỉ có thể hình thành, tồn tại và phát triển trong điều kiện của
kinh tế thị trường.Tuy nhiên, muốn phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của cạnh tranh cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Bất kỳ nền kinh tế thị
trường của quốc gia nào thì pháp luật kinh tế cũng phải quan tâm đến hai vấn đề
chính trong một thể thống nhất là quyền tự do kinh doanh và khả năng, hình thức
can thiệp của công quyền vào đời sống kinh tế. Pháp luật về cạnh tranh chỉ xuất
hiện và can thiệp vào cạnh tranh như là một công cụ khuyến khích và đảm bảo của
những tiền đề cụ thể. Đó là tiền đề của nguyên tắc tự do thương mại mà theo đó là
tự do kinh doanh, tự do khế ước và quyền tự chủ cá nhân được hình thành và đảm
bảo. Tự do kinh doanh, tự do khế ước cùng với sự thúc đẩy của quy luật giá trị và
bản tính của con người nên các hoạt động cạnh tranh tự phát luôn có thiên hướng
thái quá, cực đoan nhằm gây rối, ngăn cản, hạn chế hoặc thủ tiêu cạnh tranh của các
đối thủ. Những hành vi cạnh tranh mang mục đích đó, khi thái quá, đến lượt nó, lại
quay lại huỷ hoại động lực phát triển kinh tế, phá huỷ cạnh tranh.
“Như vậy pháp luật cạnh tranh được hiểu là hệ thống các quy phạm cũng như

10


các công cụ pháp luật khác nhằm bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị trường cũng
như môi trường cạnh tranh bình đẳng và công bằng”.
Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do canh tranh, ý tưởng của Ađam Smith về vai
trò của “Bàn tay vô hình” thị trường được thể hiện rõ nét qua mô hình cạnh tranh
hoàn hảo mà theo đó nhà nước và pháp luật là kẻ thù của cạnh tranh, của đời sống
kinh tế, rõ ràng lúc đó chưa có sự kiểm soát và điều tiết cạnh tranh, vì vậy cũng
chưa có pháp luật về cạnh tranh. Tuy nhiên, thực tế cấu trúc và hành vi thị trường
không đảm bảo cạnh tranh hoàn hảo (chẳng hạn do độc quyền, rào cản nhập cuộc,
các hành vi hạn chế cạnh tranh...) nên từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các quốc
gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều quan tâm đến việc kiểm soát và điều tiết
cạnh tranh bằng việc ban hành pháp luật nhằm chống lại mọi hành vi cạnh tranh

không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh nhằm khuyến khích, bảo vệ cạnh tranh,
kiểm soát và chống xu hướng độc quyền. Để điều tiết cạnh tranh, nhà nước có thể
sử dụng nhiều công cụ khác nhau như chính sách thuế, kiểm soát giá cả, điều chỉnh
độc quyền... thậm chí quốc hữu hoá. Song ban hành và cho thực hiện pháp luật về
cạnh tranh là phương thức có hiệu quả hơn cả trong điều kiện của nhà nước pháp
quyền và xã hội công dân.[27,tr.12]
1.2.2. Vai trò của pháp luật cạnh tranh
Sau gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, quan điểm về cạnh tranh ở
Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản từ cả khía cạnh kinh tế, xã hội và pháp lý,
đặc biệt Luật Cạnh tranh được thông qua ngày 3/12/2004 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội
khoá XI và có hiệu lực từ ngày 1/7/2005. Luật Cạnh tranh năm 2004 là đạo luật đầu
tiên về cạnh tranh của Việt Nam, được ban hành trong điều kiện nền kinh tế thị
trường đang dần được hình thành và hoàn thiện. Luật Cạnh tranh ra đời là một dấu
mốc quan trọng trong tiến trình đổi mới nền kinh tế và có vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo nền kinh tế thị trường được vận hành có hiệu quả. Được đánh giá là
hiến pháp của nền kinh tế thị trường như cách ví của các nhà khoa học nên ngay từ
khi được ban hành, Luật Cạnh tranh được kỳ vọng là công cụ quan trọng nhằm tạo
lập và đảm bảo một môi trường kinh doanh bình đẳng và sự vận hành hiệu quả của

11


nền kinh tế thị trường. Để thi hành Luật Cạnh tranh, Chính phủ cũng đã có nhiều nỗ
lực trong việc hướng dẫn thi hành luật. Cùng với Bộ luật dân sự, Pháp lệnh bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 (nay là Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010) và các văn bản pháp luật có liên quan, Luật Cạnh tranh góp phần quan
trọng vào việc điều tiết cạnh tranh ở Việt Nam.
Để điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong đời sống xã hội, nhà nước phải ban
hành một hệ thống pháp luật bao gồm các văn bản pháp luật khác nhau.Nếu xét về
chức năng thì hệ thống này có thể bao gồm ba bộ phận hợp thành đó là pháp luật

đầu vào hay còn gọi là pháp luật gia nhập thị trường, pháp luật điều chỉnh các quan
hệ thị trường và pháp luật đầu ra hay còn gọi là pháp luật thoát khỏi thị trường.Cạnh
tranh vừa là quy luật vừa là môi trường vận động của nền kinh tế thị trường.Hoạt
động cạnh tranh xuất hiện trong mọi lĩnh vực của nề kinh tế và bản thân các quan hệ
kinh tế trong nền kinh tế thị trường đều chứa đựng trong nó yếu tố cạnh tranh. Pháp
luật với chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội có nhiệm vụ định hướng và đưa
các quan hệ này theo một trật tự nhất định phù hợp với ý trí và định hướng của nhà
nước. Bởi vậy để đảm bảo các quan hệ kinh tế vận hành có hiệu quả, theo hướng đã
định, đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải đáp ứng các điều kiện như: Định ra khuân
khổ cho quá trình cạnh tranh, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống lại
có hiệu quả các hành vi cạnh tranh không lạnh mạnh, mọi xu hướng dẫn tới hạn chế
cạnh tranh, triệt tiêu cạnh tranh.
Với những mục đích đó, pháp luật về cạnh tranh có thể can thiệp và định
hướng vào hầu hết các nhóm quan hệ kinh tế do pháp luật kinh tế điều chỉnh. Nó
phải được hình thành trên cơ sở đồng bộ với các định khung pháp luật khác như: Tự
do cạnh tranh, tự do khế ước, tự do hình thành giá cả, đảm bảo sự bình đẳng trước
pháp luật của các chủ thể kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường cùng
các chuẩn mực về đạo đức kinh doanh truyền thống, tập quán thương mại lành
mạnh được xã hội và pháp luật thừa nhận. Sự can thiệp, điều tiết hoạt động cạnh
tranh trên thị trường mang tính tất yếu trong điều kiện nhà nước quản lý, điều tiết

12


kinh tế thị trường theo các mục tiêu, chính sách của mình. Sự can thiệp, điều tiết đó
nhằm mục đích:
- Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, trung thực, công bằng giữa các chủ thể cạnh
tranh;
- Điều tiết cạnh tranh theo mức độ, phạm vi phát triển của thị trường trong
nước và ngoài nước, của từng loại hàng hoá;

- Bảo vệ lợi ích của người sản xuất, lợi ích người tiêu dùng và lợi ích của nhà
nước, xã hội;
- Làm cho cạnh tranh thực sự trở thành động lực phát triển sản xuất, phát triển
nền kinh tế quốc dân, tạo thế cạnh tranh của quốc gia trên thị trường quốc tế;
- Hạn chế tình trạng bóp nghẹt cạnh tranh tự do, lành mạnh và công bằng;
- Chống mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
- Góp phần điều tiết toàn bộ nền kinh tế thị trường theo mục tiêu, chính sách
đã chọn, giữ vững kỷ cương, pháp luật của nhà nước;
- Định hướng chuẩn mực, đạo đức trong kinh doanh, cạnh tranh giữ gìn tập
quán kinh doanh, thông lệ cạnh tranh được nhà nước và xã hội chấp nhận;
- Đảm bảo cho tiến trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng và hiệu quả.Các
quốc gia đang tích cực tham gia vào quá trình toàn cầu hóa thông qua việc mở rộng
thị trường nội địa, giảm và xóa bỏ các hàng rào cản trở hoạt động thương mại dành
cho nhau các ưu đãi trên nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Pháp luật cạnh tranh với vai trò bảo vệ sự phát triển lành mạnh của thị trường
nội địa sẽ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa phát triển nhanh chóng và hiệu quả trên
cơ sở các thành viên tham gia đều khai thác lợi thế của mình và tận dụng được lợi
thế của đối tác. Bằng pháp luật của mình, nhà nước quy định các hành vi cạnh tranh
bị coi là không lành mạnh, các quy định hạn chế cạnh tranh (độc quyền) và những
biện pháp xử lý nhằm đảo bảo nguyên tắc về tính đa dạng của các chủ thể kinh tế,
về tự do kinh doanh, tự do khế ước... trên thương trường. Vì thế pháp luật cạnh
tranh - pháp luật tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng trong kinh doanh của các chủ
thể kinh doanh phải được xây dựng trên những nguyên tắc, điều kiện của cấu trúc

13


khung pháp luật kinh tế và là bộ phận quan trọng hợp thành hệ thống pháp luật kinh
tế trong cơ chế kinh tế thị trường theo nguyên tắc: Mọi chủ thể kinh doanh bình
đẳng và tự do cạnh tranh theo khả năng của mình mà không bị bất cứ một sự chèn

ép nào từ phía các chủ thể khác và từ nhà nước.
KẾT LUẬT CHƯƠNG
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có vai trò vô cùng quan trọng, nó
được coi là động lực của sự phát triển không chỉ của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp mà cả nền kinh tế nói chung.Pháp luật cạnh tranh giữ một vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế thị trường.Dưới sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh, các
doanh nghiệp sẽ có một sân chơi bình đẳng, lành mạnh để có thể cung cấp các sản
phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.

14


CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
2.1. Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh
2.1.1. Khái niệm
Hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở
cạnh tranh trên thị trường.
Đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh, pháp luật quy định về các hành vi
như thế nào là hạn chế cạnh tranh, những hành vi nào bị cấm tuyệt đối và những
hành vi bị cấm nhưng có những trường hợp được miễn trừ (có thời hạn và không có
thời hạn) khi đạt những điều kiện nhất định.
2.1.2. Các hành vi hạn chế cạnh tranh
a) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Cơ chế kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn nguy cơ các doanh nghiệp lạm dụng
quyền tự do hợp đồng để xác lập những thỏa thuận hạn chế khả năng tham gia thị
trường của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng, tìm cách loại bỏ một số đối thủ nào đó
trên thương trường, hạn chế hay thủ tiêu sự cạnh tranh giữa những đối thủ cạnh
tranh. Theo Luật Cạnh tranh, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
– Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;

– Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung
ứng dịch vụ;
– Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán
hàng hoá, dịch vụ;
– Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
– Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
– Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;

15


– Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các
bên của thoả thuận;
– Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều bị cấm một cách
tuyệt đối. Việc cấm tuyệt đối (không có miễn trừ, không có ngoại lệ) chỉ áp dụng
đối với những loại thỏa thuận về ngăn cản, kìm hãm, không cho đối thủ tiềm năng
tham gia thương trường, không được phát triển, mở rộng kinh doanh; thỏa thuận
loại bỏ các doanh nghiệp nằm ngoài thỏa thuận (tẩy chay) hoặc thông đồng để một
hoặc các bên thắng thầu trong cung cấp hàng hóa, cung cấp dịch vụ. Những loại
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn lại chỉ bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có
thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên[3]. Những thỏa thuận liên
quan đến thị phần liên quan dưới 30% là hợp pháp.
Đặc điểm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: Thứ nhất, về chủ thể tham
gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp hoạt động độc lập. Theo Điều
2 Luật Cạnh tranh năm 2004 thì doanh nghiệp bao gồm tổ chức, cá nhân kinh

doanh.Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải hoạt động độc lập với nhau và
hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về tài chính. Như vậy, trường hợp công ty mẹ công ty con, hay giữa công ty với đại lý của mình có sự thỏa thuận thì không coi là
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ hai, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được hình thành khi có sự thống
nhất ý chí của các bên tham gia thỏa thuận.Sự thống nhất cùng hành động giữa các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận được thể hiện công khai hoặc không công khai.
Nội dung thỏa thuận thường là về việc ấn định giá, phân chia thị trường tiêu thụ,
hạn chế nguồn cung. Pháp luật Việt Nam ghi nhận một thỏa thuận vi phạm một
trong các hình thức vi phạm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi đã có đủ bằng chứng
kết luận giữa họ đã tồn tại một hợp đồng chính thức bằng văn bản (hợp đồng, bản
ghi nhớ…) hoặc có thể bằng hình thức không thành văn bản như: Các cuộc gặp mặt,
họp bàn… nhưng phải có sự ghi nhận ở những tài liệu liên quan. Các doanh nghiệp

16


tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể nhằm cùng một mục đích hoặc nhiều
mục đích khác nhau. Tuy nhiên, dù với mục đích nào thì doanh nghiệp đã có sự
thống nhất ý chí về cùng thực hiện một hành động nào đó đều bị coi là hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh. Yếu tố hành vi được coi là điều kiện cơ bản, bởi nếu mới
chỉ dừng lại ở ý định, ý tưởng những chưa có sự thỏa thuận trên thực tế thì không
thể coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh
tranh làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường.Thỏa thuận cạnh tranh gây
ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh, các đối thủ trên thị trường sẽ không còn
cạnh tranh nữa.Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu
dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc thỏa thuận.
Đối với nhiều nước trên thế giới, các thoả thuận ngang nghiêm trọng (thỏa
thuận ấn định giá, phân chia thị trường, kiểm soát sản lượng và thông thầu) luôn
mang bản chất phản cạnh tranh, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cạnh tranh và

tác động tiêu cực đến thị trường nên bị cấm theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên.
Khi điều tra các hành vi này, cơ quan cạnh tranh không cần phải chứng minh tác
động hạn chế cạnh tranh của hành vi. Đối với thoả thuận ngang ít nghiêm trọng và
thoả thuận dọc thì phải thực hiện đánh giá tác động.
Thực tiễn thi hành pháp luật cạnh tranh trên thế giới cũng như tại Việt Nam,
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ có xu hướng ngầm hóa.Điều này sẽ làm cho việc
phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trở nên khó khăn, phức tạp
hơn.Vì vậy, hầu hết các nước đã sử dụng chương trình khoan hồng như một công cụ
quan trọng để phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Chương trình
khoan hồng được áp dụng nhằm miễn giảm mức xử phạt cho các chủ thể tham gia
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chủ động đến khai báo đồng thời cung cấp các tài liệu
chứng cứ giúp cơ quan cạnh tranh phát hiện và điều tra hành vi thỏa thuận. Thực tế,
phần lớn các vụ việc điều tra thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được các cơ quan cạnh
tranh thế giới phát hiện thông qua chương trình khoan hồng. Chẳng hạn tại Nhật
Bản, chương trình khoan hồng là chương trình giảm hoặc miễn trừ tiền phạt phải

17


nộp của doanh nghiệp trong trường hợp họ gửi các báo cáo tới Ủy ban Thương mại
lành mạnh Nhật Bản (JFTC) liên quan đến hành vi vi phạm. Thông qua chương
trình này, JFTC đã phát hiện ra rất nhiều vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, đặc
biệt là thông đồng đấu thầu, mà trước đó họ không thể phát hiện ra do không có
chứng cứ. Cụ thể, chương trình khoan hồng của Nhật Bản mặc dù mới được đưa
vào áp dụng từ tháng 4/2006 nhưng đến tháng 5/2007, JFTC đã nhận được sự khai
báo của 105 công ty trong đó có cả Tập đoàn công nghiệp nặng Mitsubishi. Trong
năm 2009, có 85 vụ JFTC nhận được thông báo đúng sự thật về hành vi vi phạm, và
đến cuối tháng 3 năm 2010 là 349 vụ.[30]
b) lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền
Kiểm soát và xử lý các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền (gọi

tắt là hành vi lạm dụng) là một trong những nhiệm vụ quan trọng của pháp luật cạnh
tranh nhằm bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối xử. Đặc
trưng cơ bản của chế định pháp này là đối tượng áp dụng là những doanh nghiệp,
nhóm doanh nghiệp đang có vị trí thống lĩnh, doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên
thị trường. Luật Cạnh tranh năm 2004 không đưa ra định nghĩa mà liệt cụ thể các
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Theo đó,
khi doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp
có vị trí độc quyền thực hiện những hành vi được quy định tại Điều 13 và Điều 14
Luật Cạnh tranh thì sẽ bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn
chế cạnh tranh. Pháp luật của một số nước điển hình là Canada cũng có cách tiếp
cận như pháp luật Việt Nam là không đưa ra khái niệm chung mà liệt kê các hành vi
bị coi là vi phạm pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền. Điều 78 Luật Cạnh tranh Canada liệt kê 11 hành vi bị coi là lạm dụng, ngoài
ra còn cho phép cơ quan có thẩm quyền xử lý những hành vi chưa được pháp luật
liệt kê nhưng thỏa mãn cấu thành pháp lý của hành vi lạm dụng theo Điều 79. Điều
79 quy định Tòa cạnh tranh chỉ đưa ra phán quyết xử lý doanh nghiệp hoặc nhóm
doanh nghiệp khi chứng minh đủ ba nội dung sau đây:
Thứ nhất, một hoặc nhiều doanh nghiệp về cơ bản hoặc hoàn toàn kiểm soát

18


×