Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA TIẾP XÚC đa THỊ TRƯỜNG LÊN CẠNH TRANH, RỦI RO TÍN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.19 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

HỒ THỊ NGỌC TUYỀN

TÁC ĐỘNG CỦA TIẾP XÚC ĐA THỊ TRƯỜNG
LÊN CẠNH TRANH, RỦI RO TÍN DỤNG VÀ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

HỒ THỊ NGỌC TUYỀN

TÁC ĐỘNG CỦA TIẾP XÚC ĐA THỊ TRƯỜNG
LÊN CẠNH TRANH, RỦI RO TÍN DỤNG VÀ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng


Mã số: 9.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Chí Đức
TS. Đào Lê Kiều Oanh

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


1

TÓM TẮT
Luận án được thực hiện nhằm mục tiêu phân tích tác động của tiếp xúc đa thị trường
lên cạnh tranh, rủi ro tín dụng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam
cùng với các yếu tố có liên quan đến các ngân hàng thương mại. Nghiên cứu được tiến hành
trong giai đoạn từ 2008 – 2017 với phương pháp nghiên cứu định lượng gồm các bước phân
tích như sau:
(i) Đo lường tác động của tiếp xúc đa thị trường và các yếu tố liên quan tác động đến
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại thông qua chỉ số LERNER.
(ii) Đánh giá và đo lường mức độ tác động của tiếp xúc đa thị trường đến rủi ro tín dụng
của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua chỉ số NPL, MMC1.
(iii) Đo lường tác động tiếp xúc đa thị trường đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
thương mại Việt Nam, thông qua việc ước tính chỉ số tiếp xúc đa thị trường MMC1,
MMC2 đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại được đo lường bằng lợi
nhuận điều chỉnh rủi ro (RAROA).
(iv) Áp dụng phương pháp GMM cho dữ liệu bảng không cân bằng, phân tích tác động của
tiếp xúc đa thị trường, cạnh tranh và rủi ro tín dụng đến hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng thương mại Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tiếp xúc đa thị trường có tác động đến cạnh tranh, rủi ro
tín dụng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam; Thông qua MMC1
và MMC2 cho thấy sự hiện diện ngày càng tăng của các ngân hàng ở các khu vực khác nhau

đã gây ra sự sụt giảm chung về thị phần và hiệu quả hoạt động của ngân hàng.


2

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
1.1.

SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thứ nhất, tác động của cạnh tranh ngân hàng đối với rủi ro về tài chính luôn là vấn đề

tranh luận cả về mặt học thuật và chính sách, đặc biệt là vấn đề rủi ro tín dụng.
Thứ hai, việc đẩy mạnh mở rộng hợp tác kinh tế, hội nhập với thế giới đã tạo ra nhiều
cơ hội nhưng cũng tồn tại nhiều thách thức, và HQHĐ trở thành một tiêu chí quan trọng để
đánh giá sự phát triển nền tài chính của Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Thứ ba, có thể nói có nhiều nghiên cứu đánh giá các yếu tố tác động đến cạnh tranh, rủi
ro tín dụng và HQHĐ ở trong ngoài nước không ít, tuy nhiên, các nghiên cứu về Tiếp xúc đa
thị trường (TXĐTT) tại Việt Nam chưa nhiều, cụ thể là các nghiên cứu TXĐTT đến cạnh
tranh, RRTD và HQHĐ.
Bối cảnh nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài về cạnh tranh, RRTD và HQHĐ đã đặt
ra hai vấn đề cần xem xét:
+ Một là, kết quả nghiên cứu chưa đồng nhất sẽ nảy sinh nhiều tranh luận khác nhau, và
tồn tại những hạn chế hay khoảng trống nghiên cứu mà các tác giả trước chưa xem xét tới.
+ Hai là, ở trong nước các nghiên cứu về TXĐTT chưa nhiều, cụ thể là các nghiên cứu
TXĐTT đến cạnh tranh, RRTD và HQHĐ nên chưa thể hình thành được cơ sở tham khảo cho
các nhà hoạch định chính sách để có định hướng xây dựng phát triển ngành ngân hàng trong
nước phát triển ổn định và bền vững theo thực tế hiện nay là các ngân hàng cùng cạnh tranh
với nhau trong cùng một địa bàn.
Do đó, việc nghiên cứu tác động của TXĐTT lên cạnh tranh, RRTD và HQHĐ của các
NHTM cùng các yếu tố có liên quan tác động đến HQHĐ của ngân hàng là vấn đề hết sức

quan trọng và cần thiết với các NHTMVN trong giai đoạn hiện nay. Cho nên tác giả đã chọn
đề tài: “Tác động của tiếp xúc đa thị trường lên cạnh tranh, rủi ro tín dụng và hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam”.
1.2.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

- Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu tác động của TXĐTT lên cạnh tranh, RRTD và
HQHĐ của các NHTM Việt Nam.


3

- Mục tiêu cụ thể:
(1) Đo lường mức độ tác động của TXĐTT đến cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.
(2) Đo lường mức độ tác động của TXĐTT đến RRTD của các NHTM Việt Nam.
(3) Đo lường tác động TXĐTT đến HQHĐ của các NHTM Việt Nam.
(4) Đề xuất các giải pháp, kiến nghị cho nhà quản trị ngân hàng và nhà hoạch định chính
sách nhằm nâng cao HQHĐ của các NHTM, tạo sự ổn định cho hoạt động của các ngân
hàng trong bối cảnh cạnh tranh và rủi ro ngày càng gia tăng hiện nay của các NHTM VN.
1.3.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Để làm rõ các mục tiêu trên, các câu hỏi nghiên cứu bao gồm:
(1) Mức độ tác động và chiều hướng tác động của TXĐTT đến cạnh tranh của các NHTM
như thế nào?
(2) Mức độ tác động và chiều hướng tác động của TXĐTT và các yếu tố liên quan tác
động đến RRTD của các NHTM ra sao?
(3) Yếu tố TXĐTT và các yếu tố nào có tác động đến HQHĐ của các NHTM Việt Nam?

Chiều hướng và mức độ tác động của TXĐTT và các yếu tố liên quan tác động đến
HQHĐ của các NHTM Việt Nam như thế nào?
(4) Các giải pháp góp phần nâng cao sự ổn định cho hoạt động của các NHTM trong bối
cảnh TXĐTT, cạnh tranh và rủi ro ngày càng gia tăng hiện nay của các NHTM VN?
1.4.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tác động của TXĐTT lên cạnh tranh, RRTD, HQHĐ
cùng một số các yếu tố kiểm soát khác như Qui mô ngân hàng (SIZE), Vốn CSH/Tổng Tài
sản (CAP), Tổng cho vay/Tổng tài sản (TLTA), Tổng tiền gửi/tổng tài sản (DEPOTA); Thu
nhập ngoài lãi/tổng thu nhập (DIV), Tỷ lệ sở hữu nhà nước trong tổng sở hữu (SOCB), Tổng
chi phí hoạt động/Tổng tài sản (OETA), Tốc độ tăng trưởng của GDP hàng năm (GDP); Lạm
phát (INF) đến HQHĐ của các NHTM VN.
Phạm vi nghiên cứu: Gồm các NHTM trong giai đoạn 2008-2017 tại Việt Nam. Nghiên
cứu loại trừ các ngân hàng có cơ chế riêng, đặc thù như ngân hàng chính sách xã hội Việt
Nam, ngân hàng hợp tác xã, các quỹ tín dụng, các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài và các
ngân hàng liên doanh.
1.5.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, với phương pháp ước lượng GMM
đối với cả 3 mục tiêu nghiên cứu.


4

1.6.


ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Về mặt khoa học, nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ thêm mối quan hệ về TXĐTT trong

lĩnh vực ngân hàng mà hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, ít nhất là
tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng cho các nghiên cứu sau này không
những ở phần cập nhật cơ sở lý thuyết mà còn có thể so sánh kết quả thu được. Bên cạnh đó,
đây là một nghiên cứu với mục đích kiểm nghiệm lại các kết quả nghiên cứu trước đây, đồng
thời từ những tồn tại mà mở ra các hướng tiếp theo cho các nghiên cứu sau này. Theo khảo
sát của NCS, rất ít các nghiên cứu về TXĐTT ở các nước đang phát triển, chỉ có nghiên cứu
của Coccorese và Pechellia, (2009, 2013) và Degl’Innocenti và cộng sự (2014) là nghiên cứu
ở các nước phát triển.
Về khía cạnh thực tiễn, đây sẽ là cơ sở tham khảo nghiêm túc hỗ trợ các nhà quản lý các
NHTM đưa ra những quyết định linh động, hợp lý theo tình hình biến động của thị trường
trong quá trình cạnh tranh gay gắt hiện nay. Hơn nữa, TXĐTT là khía cạnh mới của cạnh
tranh, giúp bổ sung thêm hiểu biết về việc các ngân hàng có nhiều chi nhánh và có tiếp xúc
với nhau thì cạnh tranh trong ngân hàng tăng hay giảm, hiệu quả và rủi ro tín dụng tăng hay
giảm, đặc biệt là trong thời buổi hội nhập.
1.7.

NHỮNG PHÁT HIỆN MỚI TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả nghiên cứu cho thấy TXĐTT có tác động đến cạnh tranh, RRTD và HQHĐ của

các NHTM Việt Nam, cụ thể:
(i) Các biến TXĐTT, quy mô ngân hàng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tài sản, lạm phát có tác
động cùng chiều và có ý nghĩa thống kê đến cạnh tranh của các NHTM VN.
(ii) TXĐTT có tác động cùng chiều và có ý nghĩa thống kê đến RRTD, nghĩa là càng
gia tăng TXĐTT thì sẽ làm tăng RRTD. Điều này cho thấy nếu các NHTM gia tăng việc cạnh
tranh trên cùng một thị trường với các NHTM khác sẽ có xu hướng giảm chất lượng các
khoản cho vay nhằm gia tăng khách hàng và lợi nhuận, việc này đồng nghĩa với RRTD ngày
càng gia tăng.

(iii) TXĐTT có tác động cùng chiều và có ý nghĩa thống kê đến RRTD, nghĩa là càng
gia tăng TXĐTT thì sẽ làm tăng RRTD. Điều này cho thấy nếu các NHTM gia tăng việc cạnh
tranh trên cùng một thị trường với các NHTM khác sẽ có xu hướng giảm chất lượng các
khoản cho vay nhằm gia tăng khách hàng và lợi nhuận, việc này đồng nghĩa với RRTD ngày
càng gia tăng.


5

1.8.

KẾT CẤU LUẬN ÁN
Luận án được chia thành 5 chương
Chương 1: Mở đầu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên quan về rủi ro tín dụng, cạnh
tranh, tiếp xúc đa thị trường đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 5: Kết luận và khuyến nghị

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VỀ RỦI RO
TÍN DỤNG, CẠNH TRANH, TIẾP XÚC ĐA THỊ TRƯỜNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Các khái niệm về rủi ro, rủi ro tín dụng, cạnh tranh và hiệu quả hoạt động
2.1.1 Rủi ro và rủi ro tín dụng
Theo Kiều (2012) thì rủi ro là một sự không chắc chắn (uncertainty) hay một tình trạng bất ổn.
Đặc điểm cơ bản của một ngân hàng là theo đuổi những lợi ích có thể chấp nhận được và rủi
ro đo được. RRTD xảy ra khi khách hàng không thể hoàn trả khoản vay của họ. Theo Ủy ban
Basel (2004) thì RRTD là các sự kiện bất ngờ dẫn đến tổn thất về giá trị tài sản, khấu trừ lợi
nhuận so với lợi nhuận kỳ vọng hoặc tạo ra các khoản chi phí bổ sung để hoàn thành một giao

dịch cụ thể. RRTD xảy ra khi các bên không thể trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn được ghi
trong hợp đồng.
2.1.2 Cạnh tranh và tiếp xúc đa thị trường
Cạnh tranh: là việc giành lấy thị phần của các ngân hàng nhằm bán được nhiều sản phẩm và
dịch vụ, cũng như chi phối được thị trường nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị
trường có lợi nhất.
TXĐTT: xảy ra khi hai hoặc nhiều doanh nghiệp đang cạnh tranh với nhau tại cùng một thời
điểm và trong các thị trường khác nhau (sản phẩm hoặc địa điểm). Khi các doanh nghiệp này
tiếp xúc nhiều lần và ở nhiều nơi, cuộc TXĐTT này có thể dẫn tới một hiện tượng đặc biệt
gọi là "nhượng bộ lẫn nhau". Các doanh nghiệp phải đối mặt với TXĐTT khi họ cạnh tranh
với nhau cùng một lúc ở một số thị trường khác nhau. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng là
Edwards (1955), nghĩa là khi một nhóm lớn cạnh tranh với nhau, họ có khả năng gặp nhau ở
một số thị trường đáng kể và việc tiếp xúc nhiều lần có thể làm giảm cạnh tranh.


6

2.1.3 Hiệu quả và HQHĐ của các NHTM
Hiệu quả là biểu hiện mối quan hệ tương quan giữa kết quả thu được và toàn bộ chi phí bỏ ra
để có kết quả đó, độ chênh lệch giữa hai đại lượng này càng lớn thì hiệu quả càng cao.
HQHĐ của ngân hàng là sự phản ánh việc các ngân hàng sử dụng các nguồn lực để đạt được
mục tiêu, thể hiện mối tương quan giữa đầu ra và đầu vào để đạt được hiệu quả đặt ra, đồng
thời giảm thiểu chi phí để tăng khả năng cạnh tranh với các định chế tài chính khác.
2.2. Các lý thuyết có liên quan đến cạnh tranh, rủi ro và hiệu quả hoạt động
2.2.1 Giả thuyết Cấu trúc- Thực hiện - Hiệu quả (SCP)
Khái niệm: Giả thuyết về quyền lực thị trường truyền thống khẳng định rằng thị phần của
ngân hàng tăng lên là một biểu hiện cho quyền lực trên thị trường. Thị phần cao hơn và thị
trường tập trung cao (ít đối thủ cạnh tranh) tạo điều kiện cho các ngân hàng định giá các sản
phẩm và dịch vụ của họ cao hơn, trong khi đặt ra lãi suất gửi tiền thấp hơn. Việc gia tăng giá
trên mức giá mang tính cạnh tranh sẽ dẫn đến lợi nhuận cao hơn cho các ngân hàng.

Tác động: sẽ tác động đến cạnh tranh của các NHTM, cụ thể là về chi phí hoạt động, vốn chủ
sở hữu cũng như tổng tài sản của ngân hàng, các chiến lược huy động vốn (tiền gửi) và cấp
tín dụng (cho vay và các khoản nợ xấu) cũng như các dịch vụ đem lại thu nhập từ lãi và thu
nhập ngoài lãi.
2.2.2 Giả thuyết cuộc sống yên tĩnh (Quiet Life -QL)
Khái niệm: Giả thuyết cuộc sống yên tĩnh lập luận rằng sức mạnh thị trường càng cao thì nỗ
lực tối đa hóa HQHĐ càng thấp. Sức mạnh thị trường có thể giúp che giấu bớt những dấu
hiệu để các chủ sở hữu không thể phát hiện sự tồn tại của các hành vi thiếu năng lực quản lý
hoặc phi hiệu quả. Giả thuyết này trái ngược với mô hình SCP được phát triển bởi Hicks
(1935) và nó có thể dẫn đến lợi nhuận thấp hơn do các yếu tố không liên quan đến hiệu quả.
Tác động: Thứ nhất, nếu các ngân hàng cạnh tranh trong một thị trường tập trung cao hơn có
thể đặt giá cao hơn chi phí biên, các nhà quản lý không phải nỗ lực làm việc để giữ chi phí
trong tầm kiểm soát; Thứ hai, quyền lực thị trường có thể cho phép các nhà quản lý theo đuổi
các mục tiêu khác ngoài việc tối đa hoá lợi nhuận hoặc tối đa hóa giá trị doanh nghiệp; Thứ
ba, trong trường hợp không cạnh tranh, các nhà quản lý nếu dành nguồn lực để giành và duy
trì thị trường sẽ làm tăng chi phí và làm giảm hiệu quả một cách không cần thiết; Thứ tư, nếu
các ngân hàng hưởng lợi từ quyền lực thị trường, các nhà quản lý kém có thể tồn tại mà
không cần gắng làm việc hiệu quả hơn.


7

2.2.3

Giả thuyết nhượng bộ lẫn nhau

Khái niệm: Theo lý thuyết về độc quyền, các công ty hoạt động đa thị trường sẽ không cạnh
tranh mạnh mẽ với các đối thủ của mình tại một thị trường nhất định nếu họ sợ bị trả đũa tại
tất cả các thị trường còn lại (Edwards, 1955; Sorenson, 2007). Điều này là do nếu số lượng
thị trường mà các doanh nghiệp cạnh tranh nhau càng nhiều, thì có thể xảy ra hành động trả

đũa trên các thị trường, điều này sẽ gây ra những tổn thất đáng kể. Trong tình huống như vậy,
mức độ cạnh tranh trên tổng thể sẽ giảm để tránh tổn thất quá lớn trên toàn bộ thị trường.
Tác động: Bernheim và Whinston (1990) đã cho thấy, khi xảy ra TXĐTT, các doanh nghiệp
sẽ có các thỏa thuận ngầm với nhau và duy trì sự hợp tác thay vì cạnh tranh nếu có bất cân
xứng giữa các thị trường mà các công ty tương tác hoặc giữa các công ty trên nhiều thị trường.
Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng việc TXĐTT làm tăng cạnh tranh. Solomon (1970)
cho rằng nếu ngân hàng đã cạnh tranh gay gắt ở những thị trường nhất định trong một khu
vực nào đó, số mối liên kết đa thị trường trong cùng khu vực càng cao có thể dẫn đến tăng
mức cạnh tranh, và làm giảm lợi nhuận ngân hàng.
2.2.4

Lý thuyết về tác động của cạnh tranh đến rủi ro của các NHTM

Khái niệm: Giả thuyết này cho rằng cạnh tranh quá mức giữa các ngân hàng có thể đe doạ
đến khả năng trả nợ của các tổ chức cụ thể và cản trở sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân
hàng (Keeley, 1990).
Tác động: Cạnh tranh giữa các ngân hàng phát sinh từ việc tự do hóa hệ thống ngân hàng sẽ
làm giảm giá trị của vốn điều lệ ngân hàng bằng cách giảm lợi ích từ vị thế độc quyền, và
khuyến khích ngân hàng chọn lựa những chính sách rủi ro hơn nhằm duy trì lợi nhuận trước
đó (Keeley, 1990). Tuy nhiên, Boyd và De Nicoló (2005) lại cho thấy sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng ít hơn tạo điều kiện thuận lợi cho việc định lãi suất cho vay kinh doanh cao hơn,
dẫn tới tăng nguy cơ tín dụng của người vay do các vấn đề về đạo đức, và có thể dẫn đến tỷ lệ
nợ xấu cao và tăng khả năng mất ổn định của ngân hàng.
2.2.5

Lý thuyết về đa dạng hóa

Khái niệm: Đa dạng hóa có thể được hiểu rằng việc một công ty mở rộng phạm vi sản phẩm
hoặc lĩnh vực hoạt động vì mục đích gia tăng hiệu quả kinh doanh qua việc gia tăng tỷ suất
sinh lợi hoặc giảm thiểu rủi ro hoặc cả hai.

Tác động: Quan điểm thứ nhất cho rằng đa dạng hóa sản phẩm có thể giúp ngân hàng giảm
nguy cơ phá sản do ngân hàng đã phân bổ nguồn lực cho các sản phẩm khác nhau (Haugen,


8

2001); Quan điểm thứ hai cho rằng ngân hàng nên tập trung phát triển tốt ở một loại hình sản
phẩm, dịch vụ là chính sách tốt hơn so với việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ.
2.2.6

Lý thuyết Lý thuyết quá lớn để sụp đổ “Too-big-to-fail”

Khái niệm: Lý thuyết quá lớn để sụp đổ “Too-big-to-fail” đề cập đến mối quan hệ giữa quy
mô và rủi ro ngân hàng. Lý thuyết này cho rằng các ngân hàng hay định chế tài chính có quy
mô lớn, hoạt động rộng và liên kết với nhiều thành phần kinh tế khác, có tầm ảnh hưởng rất
lớn đến nền kinh tế của một quốc gia nên trước nguy cơ phá sản của họ sẽ là thảm họa cho cả
nền kinh tế, do đó cần được hỗ trợ bởi Chính phủ khi họ phải đối mặt với khó khăn.
Tác động: Sự bảo hộ của Chính phủ đối với các ngân hàng và định chế tài chính quy mô lớn
có thể làm gia tăng hành vi chấp nhận rủi ro của họ (Mishkin, 1999).
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh, RRTD và hiệu quả hoạt động của NHTM
2.3.1 Nhân tố chủ quan: Năng lực tài chính, Năng lực quản trị điều hành
2.3.2 Nhân tố khách quan: Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội
2.4. Các nghiên cứu có liên quan về tác động của RRTD, TXĐTT đến HQHĐ của các
NHTM
Có nhiều nghiên cứu về cạnh tranh, RRTD và HQHĐ của các NHTM trong và ngoài
nước, tuy nhiên các yếu tố này có sự ảnh hưởng khác nhau đến cạnh tranh, RRTD và HQHĐ
vì sự khác nhau về nguồn số liệu thu thập được, quy mô, phương pháp nghiên cứu.
Những năm gần đây, các ngân hàng đã nhận thức được tầm quan trọng của rủi ro cũng
như mối liên hệ giữa rủi ro và lợi nhuận. Một ngân hàng quản lý rủi ro tốt sẽ có sức đề kháng
tốt hơn và ít bị ảnh hưởng bởi những tác động không lường trước, có khả năng đưa ra những

hành động kịp thời để hạn chế thấp nhất những tổn thất cho ngân hàng. Trong xu thế hội nhập
quốc tế các NHTM phải cạnh tranh gay gắt với nhau nhằm đem lại lợi nhuận, thì rủi ro cũng
đồng thời gia tăng và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động.
Ho và Saunders (1981) cho rằng lợi nhuận mà các ngân hàng đưa ra khi thiết lập lãi
suất tiền gửi và lãi suất tín dụng phụ thuộc vào (i) độ e ngại rủi ro của ngân hàng, (ii) cơ cấu
thị trường mà ngân hàng hoạt động, (iii) quy mô giao dịch, (iv) biến động lãi suất. Ho và
Saunder (1981) cho rằng các ngân hàng vẫn có lãi ngay cả khi ngân hàng hoạt động ở thị
trường có sự cạnh tranh cao. Các nghiên cứu trước đây đều cho thấy tác động tích cực của
TXĐTT đối với việc nâng cao hiệu quả, chất lượng dịch vụ, đổi mới và cạnh tranh quốc tế
(Claessens & Laeven, 2004). Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng mối quan hệ giữa
cạnh tranh và hiệu quả hoạt động chưa được rõ ràng trong ngành tài chính so với các ngành


9

khác (Akins và cộng sự, 2016). Nhiều nghiên cứu cho thấy TXĐTT đang làm thay đổi mối
quan hệ này với hiệu quả và sự ổn định của ngân hàng (Maudos và cộng sự, 2004).
Trong vài thập kỷ qua, các ngân hàng đã chú trọng hơn về việc củng cố vị trí và khả
năng cạnh tranh của mình trong bối cảnh tiến bộ kỹ thuật không ngừng, toàn cầu hóa và các
quy định về độc quyền dần được bãi bỏ. Hiện tượng này có thể có những tác động đáng kể
đến sự thay đổi về mức độ cạnh tranh, bởi vì ở các thị trường tập trung hơn, các thông tin sẽ
được doanh nghiệp nắm bắt nhanh và sự so sánh về mức lãi suất sẽ được chú ý hơn. Bên cạnh
đó, việc sáp nhập và mua lại (M & A) đã dẫn đến sự trùng lắp nhiều hơn giữa các chi nhánh,
do đó tăng số lượng các thị trường mà các ngân hàng sẽ phải cạnh tranh lẫn nhau. Các vấn đề
liên quan đến TXĐTT đã được phân tích trong các lý thuyết lẫn nghiên cứu thực nghiệm
trong nhiều thập niên qua và phần lớn các nghiên cứu này được thực hiện tại các nước phát
triển. Theo lý thuyết về độc quyền (oligopoly theory), các công ty hoạt động đa thị trường sẽ
không cạnh tranh mạnh mẽ với các đối thủ của mình nếu họ sợ bị trả đũa tại các thị trường
khác. Vì nếu số lượng thị trường mà các doanh nghiệp hoạt động cùng nhau càng nhiều, thì
hành động trả đũa trên các thị trường này rất có thể xảy ra, điều này sẽ gây ra những tổn thất

đáng kể. Trong tình huống như vậy, mức độ cạnh tranh trên tổng thể sẽ giảm. Bernheim và
Whinston (1990) đã cho thấy, khi TXĐTT xảy ra, các doanh nghiệp sẽ có các thỏa thuận
ngầm với nhau và duy trì sự hợp tác thay vì cạnh tranh nếu có bất cân xứng giữa các thị
trường mà các công ty tương tác hoặc giữa các công ty trong và trên nhiều thị trường. Tuy
nhiên, có một số nghiên cứu không ủng hộ lý thuyết này, thậm chí cho thấy thực tế cạnh tranh
trên thị trường mạnh mẽ hơn khi các DN có TXĐTT (Degl’Innocenti và cộng sự, 2014).
Một số tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng của TXĐTT đối với khả năng sinh lời của các
doanh nghiệp ngành sản xuất chế biến, và các nghiên cứu chỉ ra TXĐTT tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tăng khả năng sinh lời (Scott, 1982; Hughes và Oughton, 1993). Gimeno (2002)
nghiên cứu các hãng hàng không Mỹ và Busse (2000) nghiên cứu ngành công nghiệp điện
thoại di động tại thị trường Mỹ, trong khi Fu (2003) cũng xem xét các doanh nghiệp báo chí
tại Trung Mỹ. Các nghiên cứu này đều cho thấy TXĐTT có tác động tích cực đối khả năng
sinh lời của các doanh nghiệp, do đó ủng hộ cho giả thuyết nhượng bộ lẫn nhau “mutual
forbearance hypothesis”.
Trong lĩnh vực ngân hàng, đã có một số nghiên cứu thực nghiệm và kết quả không
nhất quán về ảnh hưởng của TXĐTT đối với hiệu quả hoạt động. Coccorese và Pellecchia
(2009) cho thấy TXĐTT làm tăng khả năng sinh lời của các ngân hàng Ý.


10

Sử dụng dữ liệu các ngân hàng của Ý trong giai đoạn 1997-2009, Coccorese và Pellecchia
(2013) cho thấy các công ty hoạt động trên nhiều thị trường sẽ có nhiều khả năng cấu kết
cùng với nhau. Fuentelsaz và Gomez (2006) nghiên cứu thị trường ngân hàng tiết kiệm Tây
Ban Nha, lại cho thấy mối liên hệ chữ U ngược của TXĐTT với việc gia nhập ngành.
Một số nghiên cứu đã phân tích tác động của đa dạng hóa trong lĩnh vực ngân hàng lên
rủi ro và lợi nhuận. Một số nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng đa dạng hóa các nguồn thu
nhập làm tăng rủi ro (De Young và Roland, 2001; Stiroh, 2004; Stiroh và Rumble, 2006;
Lepetit và cộng sự, 2008; Demirgüc-Kunt và Huizinga, 2010); Gallo và cộng sự (1996);
Rogers và Sinkey (1999) và Ashraf và cộng sự (2016) thì lại cho kết luận ngược lại.

Sự đa dạng hoá thu nhập được cho là có ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận trong Stiroh và
Rumble (2006), Chiorazzo và cộng sự (2008), Lepetit và cộng sự (2008), Demirgüc-Kunt và
Huizinga (2010) và Elsas và cộng sự (2010). Tuy nhiên, kết quả được tìm thấy là tiêu cực đối
với lợi nhuận trong các nghiên cứu của DeYoung và Roland (2001); Stiroh (2004), DeYoung
and Rice (2004), Stiroh (2004), Baele và cộng sự (2007), Berger và cộng sự (2010) và
Fiordelisi và cộng sự (2011).
Đối với ngành ngân hàng, kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm chắc chắn còn mơ hồ
hơn, do đó không thể đưa ra phán quyết dứt khoát về vai trò của liên hệ đa thị trường đối với
cạnh tranh và lợi nhuận. Trong các nghiên cứu này, liên hệ thường được đo bằng các biến
được xây dựng dựa trên số lượng liên kết giữa một nhóm ngân hàng nhất định (tất cả các
ngân hàng hoạt động trên thị trường hoặc tập hợp con của các tổ chức hàng đầu) hoặc số
lượng tiền gửi liên quan đến các liên kết đó, trong khi mức độ cạnh tranh được đánh giá
thông qua các chỉ số như lợi nhuận, thu nhập từ các khoản vay, chi phí liên quan đến tiền gửi,
thay đổi thị phần.
Đa dạng hóa thu nhập là một trong những chiến lược cạnh tranh của ngân hàng trong
thời buổi cạnh tranh gay gắt, buộc ngân hàng phải có nhiều nguồn thu nhập khác nhau. Một
chiến lược khác vẫn chưa được nghiên cứu nhiều chính là việc ngân hàng đa dạng hóa khu
vực kinh doanh trong một vùng, lãnh thổ, quốc gia, dẫn đến việc các ngân hàng tiếp xúc với
nhau nhiều lần, và có thể dẫn đến các hành vi cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trường có thể
khiến cho khách hàng có chất lượng thấp cũng có thể được cho vay, do đó ảnh hưởng đến rủi
ro tín dụng của ngân hàng. Theo lược khảo của NCS, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào
phân tích mối quan hệ giữa yếu tố TXĐTT, cạnh tranh và RRTD đến HQHĐ của các ngân
hàng, ít nhất là tại các quốc gia đang phát triển.


11

Trong những năm qua, các ngân hàng tại Việt Nam đã phát triển nhanh chóng về số
lượng, quy mô và địa bàn hoạt động. Sự cạnh tranh với các NHTM trong nước ngày càng gay
gắt, dẫn đến xu hướng các ngân hàng dịch chuyển từ hoạt động truyền thống sang việc đa

dạng hóa các hoạt động, mà chủ yếu là các hoạt động về dịch vụ nhằm giữ vững thị phần vì
hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Việt Nam và đóng góp 1618% trong tăng trưởng kinh tế (Stewart và cộng sự, 2016). Các nghiên cứu tại Việt Nam đa
phần về hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng đã được thực hiện, tuy nhiên các nghiên cứu
này thường tập trung vào khía cạnh ảnh hưởng của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả hoạt
động của ngân hàng (Cành và Minh, 2014; Vinh và Mai, 2015; Quỳnh và Hậu, 2016).
Tại Việt Nam đã có một số đề tài nghiên cứu về cạnh tranh như các nghiên cứu của
Trung (2010), Vinh (2015), Vinh và Tiên (2017). Có thể thấy hiện nay tại Việt Nam, chưa có
nhiều nghiên cứu về cạnh tranh đặc biệt là TXĐTT, rủi ro hoạt động tác động đến hiệu quả
hoạt động của NHTM Việt Nam được thực hiện. Mặc dù các NHTM Việt Nam đang nỗ lực
mở rộng dịch vụ song các dịch vụ vẫn chưa phong phú; các dịch vụ phi tín dụng như thanh
toán, đầu tư, kinh doanh ngoại hối, tư vấn tài chính chưa phát triển; các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng hiện đại mới chỉ trong giai đoạn thử nghiệm hoặc thí điểm. Thêm vào đó là việc
ngân hàng Nhà Nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, các NHTM hạn chế việc cho vay
nên đã không ngừng tăng lãi suất cho vay thì dịch vụ ngân hàng truyền thống (huy động và
cho vay) đã không mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng, dẫn đến sự cạnh tranh trong các
ngân hàng ngày một gia tăng theo hình thức gia tăng sự hiện diện tại các thị trường khác nhau.
2.5. Các phương pháp đo lường cạnh tranh, tiếp xúc đa thị trường, RRTD và HQHĐ
2.5.1 Phương pháp đo lường cạnh tranh
Khi nghiên cứu về sức cạnh tranh ngân hàng, các học giả thường sử dụng hai phương pháp:
Thứ nhất, phương pháp Panzar và Rosse (1987) đây là phương pháp sử dụng chỉ số thống
kê H để xác định điều kiện cạnh tranh trong một ngành (cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh độc
quyền, độc quyền); Thứ hai, phương pháp Lerner (1934). Trong nghiên cứu này tác giả cũng
sử dụng chỉ số Lerner để đo lường cạnh tranh của các NHTM VN bởi sự phổ biến và khả
năng thu thập dữ liệu thuận lợi cho nghiên cứu.
2.5.2 Phương pháp đo lường tiếp xúc đa thị trường
Để xây dựng một chỉ số cho TXĐTT, có hai loại biện pháp thường được sử dụng: biện pháp
đếm và biện pháp xác suất (Singal, 1996, tr. 563. Coccorese và Pellecchia (2009). Một lựa
chọn khác để đo lường TXĐTT là ước tính mô hình đồng thời các phương trình cung - cầu



12

bao gồm một tham số hành vi biểu thị hành vi của các doanh nghiệp nhằm đo lường mức độ
sức mạnh thị trường của họ và được nhiều tác giả áp dụng cho ngành ngân hàng (Coccorese,
2005, 2012; Canhoto, 2004; Uchida và Tsutsui, 2005; Rezitis, 2010; Coccorese và Pellecchia
(2009, 2013). Trong nghiên cứu này tiếp cận cách đo lường TXĐTT theo Coccorese và
Pellecchia (2009, 2013).
2.5.3 Phương pháp đo lường RRTD
Phương pháp đo lường RRTD có thể căn cứ vào các chỉ tiêu trực tiếp như: nợ quá hạn, nợ
xấu, dự phòng RRTD. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu gián tiếp cũng rất quan trọng cho biết dấu
hiện nhận biết rủi ro đối với ngân hàng như: Quy mô tín dụng, mức độ tăng trưởng quy mô
tín dụng, cơ cấu tín dụng. Trong nghiên cứu này sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ các khoản cho vay
không thực hiện được (gồm các khoản nợ xấu từ nhóm 3 đến nhóm 5)/ Tổng cho vay (NPL)
được sử dụng nhằm đo lường RRTD. Tỷ lệ này càng ít thì càng tốt cho sự ổn định của ngân
hàng (Berger và ctg, 2009, Dwumfour, R.A., 2017; Noman và ctg, 2018).
2.5.4 Phương pháp đo lường HQHĐ
Trong phân tích HĐKD và đánh giá HQHĐ của doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng,
các tỷ số tài chính chủ yếu là ROA, ROE, RAROA và RAROE thường được áp dụng vì
phương pháp này tương đối đơn giản và dễ dàng trong khâu thu thập số liệu. Ngoài ra, để
khắc phục các nhược điểm trong phương pháp phân tích các chỉ số tài chính, các nhà kinh tế
đã sử dụng Chỉ số Lợi nhuận điều chỉnh rủi ro để đánh giá HQHĐ của các NHTM. Trong
nghiên cứu này sử dụng chỉ số RAROA để đo lường HQHĐ.
2.6 Khoảng trống trong lĩnh vực nghiên cứu
(i) Chưa có nghiên cứu phân tích tác động của TXĐTT đến cạnh tranh của các NHTMVN.
(ii) Chưa có nghiên cứu phân tích tác động của TXĐTT đối với RRTD của các NHTMVN.
(iii) Chưa có nghiên cứu phân tích tác động của TXĐTT đến HQHĐ của các NHTMVN.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương này, tác giả đã trình bày các lý thuyết nền tảng quan trọng liên quan đến
luận án, hệ thống lại các nghiên cứu trong và ngoài nước cũng như các khái niệm liên quan
như đến TXĐTT, cạnh tranh, RRTD và HQHĐ cũng được đề cập trong chương này.



13

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình đo lường TXĐTT, cạnh tranh, RRTD và HQHĐ của các NHTM
3.1.1 Mô hình nghiên cứu cạnh tranh: Mô hình nghiên cứu được xây dựng như sau:
LERNERit = β0 + β1MMC1i,t + β2SIZEi,t + β3CAPi,t + β4SOCBi,t
+ β5LLPi,t + β6GDPt + β7INFt + μit

(MH1)

- Biến phụ thuộc: cạnh tranh (Lerner)
- Các biến độc lập đóng vai trò kiểm soát cũng xuất hiện trong mô hình để làm giảm việc
gây nhiễu trong mô hình đồng thời làm rõ hơn tiếp xúc đa thị trường đến cạnh tranh, bao
gồm: Tiếp xúc đa thị trường (MMC1); Quy mô ngân hàng (SIZE); Vốn chủ sở hữu/tổng tài
sản (CAP); Tỷ lệ sở hữu nhà nước trong tổng sở hữu (SOCB); Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro
tín dụng (LLP); Tốc độ tăng trưởng của GDP hàng năm (GDP); Lạm phát (INF)
3.1.2 Mô hình nghiên cứu RRTD: Mô hình nghiên cứu được xây dựng như sau:
NPLit = β0 + β1MMC1i,t + β2SIZEi,t + β3DIVi,t + β4TLTAi,t + β5CAPi,t+ β6OETAi,t + μit
(MH2)
- Biến phụ thuộc (Risk): Rủi ro tín dụng được đo lường bằng NPL (Tổng các khoản cho
vay không thực hiện được/Tổng cho vay).
- Các biến độc lập đóng vai trò kiểm soát cũng xuất hiện trong mô hình để làm giảm việc
gây nhiễu trong mô hình đồng thời làm rõ hơn TXĐTT đến cạnh tranh, bao gồm: Tiếp xúc
đa thị trường (MMC1); Quy mô ngân hàng (SIZE); Thu nhập ngoài lãi/tổng thu nhập (DIV);
Tổng cho vay/Tổng tài sản (TLTA); Vốn CSH/Tổng Tài sản (CAP); Tổng chi phí hoạt
động/Tổng tài sản (OETA).
3.1.3 Mô hình nghiên cứu HQHĐ: Mô hình nghiên cứu được xây dựng như sau
RAROAit = β0+ β1MMCi,t +β2DEPOTAi,t +β3DIVi,t +β4TLTAi,t + β4CAPi,t + β5OETAi,t + μit

(MH3)
- Biến phụ thuộc (RAROA): Hiệu quả hoạt động đã được hiệu chỉnh cho rủi ro.
- Các biến độc lập đóng vai trò kiểm soát cũng xuất hiện trong mô hình để làm giảm việc
gây nhiễu trong mô hình đồng thời làm rõ hơn TXĐTT đến cạnh tranh, bao gồm: Tiếp xúc
đa thị trường (MMC1 và MMC2); Tổng tiền gửi/tổng tài sản (DEPOTA); Thu nhập ngoài
lãi/tổng thu nhập (DIV); Tổng cho vay/Tổng tài sản (TLTA); Vốn CSH/Tổng Tài sản (CAP);
Tổng chi phí hoạt động/Tổng tài sản (OETA). Cách đo lường MMC1 và MMC2 được tính
bằng 3 ma trận 3.1, 3.2, 3.3 theo Coccorese và Pellechia (2009, 2013).


14

Đầu tiên, tính ma trận các chi nhánh của ngân hàng thương mại theo các thị trường ở đây
là tỉnh thành, trong đó k là số lượng thị trường và dij là số lượng chi nhánh của ngân hàng
i tại thị trường j.
(3.1)
Tiếp theo, tính ma trận N x K, gọi là C với giá trị cij thể hiện ngân hàng i hoạt động tại thị
trường j:
(3.2)
Với ma trận C thì cij = 1 nếu dij > 0 và cij = 0 nếu dij = 0. Do đó nếu cij=1 có nghĩa là NHi
có mặt có hoạt động ở thị trường i, nghĩa là có ít nhất 1 chi nhánh/trụ sở ở thị trường i.
Sau đó, tính tiếp ma trận M có chiều N x N như sau:
(3.3)
Trong đó, CT là ma trận đảo của C. Các thành phần mij chính là số thị trường mà ngân hàng i
và j cùng hoạt động, nghĩa là số thị trường mà ngân hàng i và j cùng có ít nhất là 1 chi
nhánh/trụ sở. Từ các ma trận này, tác giả tính toán chỉ tiêu quan trọng đo lường mức độ hoạt
động đa thị trường multimarket contact của các ngân hàng:
(3.4)
Giá trị thấp hơn và cao hơn của MMC1 phụ thuộc vào sự phân bố của các ngân hàng
giữa các tỉnh. Về mặt lý thuyết, mức tối thiểu là bằng không, điều này xảy ra nếu một ngân

hàng độc quyền tại các thị trường nơi nó hoạt động và tối đa bằng số tỉnh với điều kiện là tất
cả các ngân hàng gặp nhau ở tất cả các thị trường các tỉnh. Do đó đối với các ngân hàng thị
trường đơn MMC1 bằng 1 trừ khi họ là những nhà độc quyền.
Cách tính MMC2: Được bắt đầu từ ma trận S chiều NxK với các phần tử là thị phần
của ngân hàng i trong tỉnh j:
(3.5)


15

Chỉ số tương đồng similarity index giữa 2 ngân hàng được tính bằng tổng của các chênh
lệch tuyệt đối của thị phần trong các tỉnh mà 2 ngân hàng gặp nhau:
(3.6)
Chỉ số SI theo lý thuyết chạy từ 0 cho đến số thị trường mà các ngân hàng tiếp xúc nhau,
và sẽ nhỏ nếu 2 ngân hàng tương đồng nhau về mức thị phần. Để tính được một chỉ số tăng
theo tính tương đồng của các ngân hàng về mặt thị phần và chạy từ 0 đến 1, ta sử dụng
chuyển đổi sau:
(3.7)
Ma trận tương ứng cho việc tính toán số lần tiếp xúc đa thị trường trở thành
(3.8)
Cuối cùng, được chỉ số MMC2 như sau:
(3.9)
3.2.1. So sánh với các mô hình nghiên cứu trước
Giống nhau: Đối tượng đề tài nghiên cứu là cạnh tranh được đo bằng chỉ số Lerner
(giống với nghiên cứu của Vinh và Tiên (2017) và Delis (2012)), RRTD được đo bằng NPLgiống với nghiên cứu của Bana Abuzayed và ctg (2018)) và HQHĐ (được đo bằng RAROA)
của các ngân hàng đã được sử dụng để đo lường ở các nghiên cứu trước. TXĐTT được đo
bằng MMC1 và MMC2 theo phương pháp đo lường của Coccorese và Pellecchia (2009,
2013). Luận án cũng sử dụng biến cơ bản thuộc nội tại của ngân hàng có liên quan đến hoạt
động tín dụng và HQHĐ như: Quy mô ngân hàng (SIZE), Thu nhập ngoài lãi/tổng thu nhập
(DIV), Tổng cho vay/Tổng tài sản (TLTA), Vốn CSH/Tổng Tài sản (CAP), Tổng chi phí hoạt

động/Tổng tài sản (OETA), các biến Tỷ lệ sở hữu nhà nước trong tổng sở hữu (SOCB): Được
đo lường bằng số vốn nhà nước trên tổng sở hữu nhà nước; Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín
dụng (LLP) và Tốc độ tăng trưởng của GDP hàng năm (GDP); Lạm phát (INF) là các biến
kiểm soát đưa vào mô hình.


16

Khác nhau: Điểm khác biệt lớn nhất của nghiên cứu này với các nghiên cứu trước là
vận dụng yếu tố TXĐTT theo nghiên cứu của Coccorese và Pellecchia (2009, 2013) để
nghiên cứu vấn đề các NHTM cạnh tranh trên cùng một địa bàn (TXĐTT) có tác động như
thế nào đến RRTD và HQHĐ được đo bằng RAROA- Hiệu quả hoạt động đã được hiệu
chỉnh cho rủi ro của các NHTM VN. Vì thế, so với các nghiên cứu trước, luận án tập trung
tìm hiểu tác động của của TXĐTT và các yếu tố liên quan đến cạnh tranh, RRTD và HQHĐ
mà chưa có nghiên cứu nào trước đây về các NHTM VN đề cập đến.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu dạng bảng không cân bằng, ứng dụng phần mềm Stata 12.0
để xử lý số liệu và ước lượng GMM được sử dụng cho cả 3 mô hình
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3: Chương 3 đã trình bày mô hình nghiên cứu TXĐTT và các yếu tố
ảnh hưởng đến cạnh tranh, RRTD và HQHĐ của các NHTM VN.


17

CHƯƠNG 4 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Kết quả thống kê mô tả
Bảng 4.1: Bảng thống kê mô tả các biến trong nghiên cứu
Biến
RAROA
NPL

LERNER
MMC1
MMC2
DIV
TLTA
SIZE
LLP
OETA
CAP
SOCB
GDPGR
INF

Số quan sát
319
311
311
319
319
311
319
319
310
319
319
319
319
319

Trung bình

Sai số
Min
Max
1.9561
1.509
0.012
6.293
0.0099
0.00993
-0.0099
0.1097
0.424
0.091
-0.173
0.634
14.600
7.542
1.000
34.148
13.931
6.958
0.910
31.275
0.099
0.080
-0.195
0.468
0.516
0.141
0.114

0.852
17.616
1.403
13.135
20.590
1.409
2.547
0.013
43.969
0.016
0.007
0.000
0.069
0.126
0.094
0.011
0.661
0.154
0.361
0.000
1.000
6.004
0.529
5.247
6.812
8.193
6.305
0.879
23.116
Nguồn: Tổng hợp các kết quả nghiên cứu từ Stata 12


Biến RAROA là biến đo lường HQHĐ có điều chỉnh rủi ro tại bảng 4.1 có giá trị trung bình
trong mẫu nghiên cứu là 1.9561 có giá trị thấp nhất là 0.012 của ngân hàng Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong năm 2013 và giá trị cao nhất là 18.416 Ngân
hàng TMCP Công Thương Việt Nam năm 2011, số liệu này cho thấy có sự chênh lệch đáng
kể về HQHĐ điều chỉnh rủi ro giữa các NHTM trong mẫu nghiên cứu.
Biến RRTD (NPL) cũng cho thấy, giá trị trung bình là 0.0099 độ lệch chuẩn là 0.00993, giá
trị lớn nhất là 0.1097 và giả trị nhỏ nhất là -0.0099. Điều này cho thấy dữ liệu có sự tương
đồng, không chênh lệch nhiều về biến RRTD được thể hiện qua NPL.
Biến LERNER cho thấy giá trị trung bình là 0.424 độ lệch chuẩn là 0.091, giá trị lớn nhất là
0.634 và giá trị nhỏ nhất là -0,173. Điều này cho thấy dữ liệu có sự tương đồng kém, có
chênh lệch nhiều về biến cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Tiếp xúc đa thị trường: Biến MMC1 đo lường tác động của tiếp xúc đa thị trường đối với
quyền lực thị trường của các ngân hàng, có giá trị nhỏ nhất là 1 và giá trị lớn nhất là 34.148
với giá trị trung bình là 14.600 và độ lệch chuẩn là 7.542. Khoảng cách giữa giá trị lớn nhất
và giá trị nhỏ nhất tương đối lớn, chênh lệch 33.148 cùng với mức độ phân tán xung quanh
giá trị trung bình cao, cho thấy các NHTM trong mẫu nghiên cứu có sự chênh lệch khá lớn.


18

Biến MMC2 có giá trị nhỏ nhất là 0.910 và giá trị lớn nhất là 31.275 với giá trị trung bình là
13.931 và độ lệch chuẩn là 6.958. MMC2 cho thấy các ngân hàng tiếp xúc với nhau là 13.931
thị trường (gần 14 tỉnh). Biến MMC1 cho thấy các ngân hàng tiếp xúc nhau trung bình là
14.600 (hơn 14 tỉnh), trong khi đó MMC2 cho thấy thị phần của các ngân hàng nhỏ hơn và
gần 14 tỉnh. MMC2 giảm hơn MMC1 cho thấy vì sự hiện diện ngày càng tăng của các ngân
hàng ở các khu vực khác nhau đã gây ra sự sụt giảm chung về thị phần trung bình.
4.2 Kết quả đo lường TXĐTT tác động đến cạnh tranh (MH1)
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy của mô hình MH1
LERNER _L1.

MMC1
SIZE
CAP
LLP
SOCB
GDP
INF
_cons
AR(2)
Sargan-Hansan test

Hệ số
-0.1326
0.0037
0.0248
0.3786
0.0015
0.1468
-0.0051
0.0047
-0.1273

Sai số
0.011
0.001
0.013
0.155
0.001
0.039
0.013

0.000
0.201

t
-11.52
1.96
1.79
2.43
0.54
0.37
-0.38
6.52
-0.47

P>t
0.000
0.049
0.073
0.015
0.124
0.712
0.706
0.000
0.640
0.96
0.456

4.3 Kết quả đo lường TXĐTT tác động đến RRTD (MH2)
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy của mô hình MH2
Hệ số

Sai số
t
-.0975672
.0108035
-9.03
.4788295
.0809334
5.92
-7.41919
3.607396
-2.06
13.89682
4.050023
-3.43
-8.777854
1.252146
-7.01
-119.8612
22.2975
-5.38
505.8847
118.9972
4.25
165.2938
23.94022
6.90

Biến
NPL_ L1
MMC1

DIV
TLTA
SIZE
CAP
OETA
CONS
F(7, 40)
Prob > F
AR(2)
Sargan-Hansan test

P>t
0.000
0.000
0.046
0.001
0.000
0.000
0.000
0.000
82.17
0.000
0.196
0.690
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ phần mềm Stata 12


19

4.4 Kết quả đo lường TXĐTT tác động đến HQHĐ (MH3)

Bảng 4.10: Bảng tổng hợp kết quả nghiên cứu của MH3
Biến
RAROA_L1
MMC1
MMC2
DEPOTA
DIV
TLTA
CAP
OETA
CONS

RAROA
0.47575***
-0.02303**
-3.54864***
6.43864***
5.52131***
-2.11955***
-31.0173***
0.71449*

0.46001***
-0.03309**
-3.35749***
6.09835***
5.46544***
-2.00596***
-30.3273***
0.85139***


Ghi chú: *** biểu thị mức ý nghĩa 1%,** biểu thị mức ý nghĩa 5%, * biểu thị mức ý nghĩa 10%
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ phần mềm Stata 12
Kết luận chung: Kết quả hồi quy cho thấy
Một là, TXĐTT làm gia tăng cạnh tranh của các ngân hàng, dẫn đến chất lượng các khoảng
cho vay giảm, thể hiện ở việc các ngân hàng phải cho vay các doanh nghiệp có tình hình kinh
doanh không tốt, dẫn đến làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng.
Hai là, theo Boyd và De Nicolo (2005) thì TXĐTT có thể làm giảm cạnh tranh giữa các ngân
hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc định lãi suất cho vay cao hơn, dẫn tới tăng RRTD do
các vấn đề đạo đức (Stiglitz và Weizz, 1981) do đó làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng.
Hướng diễn giải này cho thấy TXDTT làm tăng chỉ số Lerner, cho thấy khả năng tăng giá
dịch vụ của ngân hàng tăng khi TXĐTT tăng.
Biến DIV có hệ số dương và có ý nghĩa thống kê, cho thấy các ngân hàng có tỷ trọng dịch vụ
phi truyền thống cao khả năng sinh lời tốt hơn. Biến TLTA có hệ số dương và có ý nghĩa
thống kê, cho thấy các doanh nghiệp có các khoản cho vay càng nhiều thì lợi nhuận cao hơn.
Điều này phù hợp với quan điểm các ngân hàng có khả năng chuyển các tài sản thành các
khoản vay tín dụng, từ đó tăng thu lãi từ các khoản vay này. Các ngân hàng có nguồn vốn chủ
sở hữu lớn (CAP) thì có khả năng sinh lời tốt hơn, phù hợp với Vo và Batten (2019), trong đó
cho thấy các ngân hàng có vốn lớn có thanh khoản cao hơn do đó phần bù rủi ro cho các
khoản tài trợ bên ngoài thấp hơn. Cuối cùng, chi phí hoạt động (OETA) càng cao thì hiệu quả
càng thấp. Điều này phù hợp với giả thuyết rằng chi phí hoạt động gia tăng thể hiện sự kém
hiệu quả của ngân hàng trong việc quản lý các chi phí. Điều này thống nhất với nghiên cứu
của Boyld và De Nicolo (2005), trong đó kết quả đề xuất cạnh tranh giảm dẫn đến ngân hàng


20

có thể đặt giá dịch vụ cao hơn (lãi suất cao hơn), từ đó chỉ có các doanh nghiệp có RRTD cao
mới đi vay, hoặc lãi suất cao (phù hợp với kết quả mô hình 2) và dễ khiến doanh nghiệp bị vỡ
nợ dẫn đến giảm RAROA.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4: Chương 4 đã trình bày kết quả hồi quy của các mô hình 1, mô
hình 2 và mô hình 3.
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ CÁC KHUYẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
+ Đối với mục tiêu nghiên cứu 1: Nghiên cứu đã định lượng mức độ và chiều hướng tác
động của TXĐTT và các yếu tố kiểm soát đến cạnh tranh của các NHTM VN. Cụ thể kết quả
nghiên cứu cho thấy các biến TXĐTT, quy mô ngân hàng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tài sản, lạm
phát có tác động cùng chiều và có ý nghĩa thống kê đến cạnh tranh của các NHTM VN.
Với bộ dữ liệu trong nghiên cứu trong nghiên cứu, kết quả không tìm thấy tác động có ý
nghĩa thống kê của các biến Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng (LLP), tỷ lệ sở hữu nhà
nước trong tổng sở hữu (SOCB), tốc độ tăng trưởng của GDP hàng năm (GDP) có tác động
đến cạnh tranh của các NHTMVN.
+ Đối với mục tiêu nghiên cứu 2: Luận án đã xác định chiều hướng các yếu tố tác động
và ước lượng mức độ tác động của TXĐTT đến RRTD của các NHTM Việt Nam. Cụ thể:
Luận án đã xác định các yếu tố có ảnh hưởng đến RRTD bao gồm Quy mô ngân hàng
(SIZE), Thu nhập ngoài lãi/tổng thu nhập (DIV), Tổng cho vay/Tổng tài sản (TLTA), Vốn
CSH/Tổng Tài sản (CAP), Tổng chi phí hoạt động/Tổng tài sản (OETA) có tác động đến
RRTD của các NHTM VN.
Kết quả nghiên cứu cho thấy TXĐTT (được thể hiện bằng MMC1) có tác động cùng
chiều và có ý nghĩa thống kê đến RRTD, nghĩa là càng gia tăng TXĐTT thì sẽ làm tăng
RRTD. Điều này cho thấy nếu các NHTM gia tăng việc cạnh tranh trên cùng một thị trường
với các NHTM khác sẽ có xu hướng giảm chất lượng các khoản cho vay nhằm gia tăng khách
hàng và lợi nhuận, việc này đồng nghĩa với RRTD ngày càng gia tăng.
Đối với biến kiểm soát quy mô ngân hàng và RRTD có mối quan hệ ngược chiều, kết
quả tương đồng với các nghiên cứu trước của De Haan và Poghosyan (2012), Williams
(2014). Nghiên cứu cung cấp bằng chứng cho thấy tồn tại giả thuyết “quá lớn để sụp đổ” đối
với các NHTTM VN. Các biến kiểm soát khác như Thu nhập ngoài lãi/tổng thu nhập (DIV),
Tổng cho vay/Tổng tài sản (TLTA), Vốn CSH/Tổng Tài sản (CAP) có tác động ngược chiều



21

đến RRTD. Trong khi đó, tổng chi phí hoạt động/Tổng tài sản (OETA) có tác động cùng
chiều đến RRTD của các NHTM VN.
+ Đối với mục tiêu nghiên cứu 3: Nghiên cứu đã định lượng mức độ và chiều hướng
tác động TXĐTT đến HQHĐ của các NHTM Việt Nam. Cụ thể:
Nghiên cứu đã sử dụng chỉ số RAROA là biến số đo lường hiệu quả hoạt động đã
được hiệu chỉnh cho rủi ro, bên cạnh đó sử dụng phương pháp GMM để kiểm soát tính không
đồng nhất, không quan sát được và ngăn ngừa vấn đề nội sinh tiềm tàng do các yếu tố không
quan sát được tác động đến HQHĐ nhưng cũng tác động đến các biến hồi quy khác.
Kết quả cho thấy các yếu tố có ảnh hưởng đến HQHĐ đã điều chỉnh rủi ro bao gồm
Tổng tiền gửi/tổng tài sản (DEPOTA); Thu nhập ngoài lãi/tổng thu nhập (DIV), Tổng cho
vay/Tổng tài sản (TLTA), Vốn CSH/Tổng Tài sản (CAP), Tổng chi phí hoạt động/Tổng tài
sản (OETA) tác động có ý nghĩa thống kê đến HQHĐ của các NHTM VN có sự khác nhau
theo từng mô hình nghiên cứu. TXĐTT (cả bằng thước đo MMC1 và MMC2) đều cho thấy
có tác động tiêu cực đến HQHĐ của các NHTM VN, tác động tiêu cực này còn thể hiện đồng
nhất và có ý nghĩa thống kê đối với RAROA gồm: biến Tổng tiền gửi trên tổng tài sản
(DEPOTA), Vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản (CAP) và Chi phí hoạt động/Tổng tài sản (OETA).
Và các yếu tố có tác động tích cực làm tăng hiệu quả hoạt động tại các NHTM VN bao hồm:
Thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản (DIV), Tổng cho vay/Tổng tài sản (TLTA).
Tóm lại, các kết quẳ này cho thấy nếu các NHTM gia tăng việc cạnh tranh cùng một thị
trường (TXĐTT) với các NHTM khác sẽ có xu hướng giảm chất lượng các khoản cho vay.
Việc này đồng nghĩa với RRTD ngày càng gia tăng và cũng đồng thời làm giảm HQHD đã
điều chỉnh rủi ro của các NHTM VN.
5.2. Một số hàm ý chính sách
5.2.1. Đối với nhà quản trị ngân hàng
Thứ nhất, về vấn đề TXĐTT đến cạnh tranh của các NHTM: Kết quả nghiên cứu cho thấy
TXĐTT có tác động đến cạnh tranh của các NHTM, do đó, các ngân hàng càng tiếp xúc
nhiều đối thủ cạnh tranh trên các thị trường thì vấn đề cạnh tranh ngày càng gia tăng. Các nhà
quản lý của các NHTM cần chú trọng hơn đến việc tăng nội lực của ngân hàng, thông qua các

chiến lược kinh doanh đa dạng hơn, chú trọng đến khâu chất lượng dịch vụ nhằm gia tăng khả
năng cạnh tranh của các NHTM.


22

Thứ hai, về vấn đề TXĐTT đến RRTD. Các nhà quản trị nên xem xét đến vấn đề TXĐTT đối
với RRTD của chính ngân hàng của mình, bởi từ kết quả nghiên cứu cho thấy nếu các NHTM
tăng TXĐTT nghĩa là gia tăng tiếp xúc với các NHTM khác trên cùng một địa bàn thì càng
làm tăng RRTD và làm giảm HQHĐ. Điều này một phần đến từ sức ép tăng doanh số hoạt
động theo từng năm của các NHTM, vấn đề này tạo ra áp lực phải tăng doanh số cho vay tại
các chi nhánh trong các NHTM. Việc bắt buộc mở rộng địa bàn hoạt động cho vay cùng với
việc phải giữ vững thị phần hiện có vô tình đã làm chất lượng các khoản cho vay giảm, kéo
theo RRTD ngày càng gia tăng. Do đó, đối với việc cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện
nay, ngoài việc giữ vững thị phần thì các nhà quản trị các NHTM cần lưu ý đến số lượng các
NHTM khác cùng hoạt động trên địa bàn mình, cần xác định thị phần và phân khúc thị trường,
phân khúc đối tượng mà các sản phẩm của ngân hàng mình có thế mạnh.
Thứ ba là các nhà quản trị ngân hàng cần lưu tâm đến quy mô huy động, được thể hiện qua tỷ
lệ tiền gửi/tổng tài sản, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ này có tác động ngược chiều đến
HQHĐ, nghĩa là việc tăng TXĐTT giữa các ngân hàng có thể gia tăng chi phí huy động vốn
tiền gửi. Do đó, cần lưu ý đến việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu cho thấy việc gia tăng thu nhập ngoài lãi góp phần làm tăng
HQHĐ. Do vậy, đối với các nhà quản trị ngân hàng, bên cạnh việc tập trung vào mảng kinh
doanh truyền thống của ngân hàng là huy động và cho vay để tăng HQHĐ thì cần quan tâm
đến chiến lược đa dạng hóa các dịch vụ đi kèm với các sản phẩm tín dụng truyền thống chứ
không phải là đa dạng hóa lĩnh vực ngành nghề.
Thứ năm, từ kết quả nghiên cứu cho thấy việc các NHTM tăng chi phí hoạt động đồng nghĩa
với RRTD tăng và làm giảm HQHĐ. Do đó, các nhà quản trị cần kiểm soát tốt chất lượng cho
vay, thường xuyên đôn đốc các nhân viên phụ trách phải rà soát lại các khoản nợ xấu.
Thứ sáu, việc mở rộng qui mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng không phải lúc nào cũng đem

lại thế mạnh cho ngân hàng. Các nhà quản trị ngân hàng cần kiểm soát việc mở rộng quy mô
ngân hàng. Mặc dù việc gia tăng quy mô hoạt động ngân hàng là chiến lược tốt nhằm nâng
cao vị thế của ngân hàng so với các ngân hàng đối thủ, tạo niềm tin đối với khác hàng, tuy
nhiên, việc gia tăng qui mô cùng với việc tận dụng và khai thác tốt các nguồn lực hiện hữu từ
đó giúp ngân hàng hoạt động trở nên hiệu quả, ổn định lại là vấn đề cần phải cân nhắc.
5.2.2 Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về ngân hàng: Kết quả nghiên cứu cho thấy
TXĐTT càng gia tăng thì áp lực cạnh tranh càng lớn, HQHĐ mang lại không cao cùng với


23

RRTD càng gia tăng. Việc càng gia tăng TXĐTT của các ngân hàng sẽ góp phần làm giảm
HQHD, điều này trái ngược với mục đích chính của chính sách cạnh tranh, là để thúc đẩy
cạnh tranh công bằng giữa các ngân hàng. Do đó, thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước về
ngân hàng cần có những biện pháp giám sát việc tăng vốn của NHTM, đảm bảo tăng vốn dựa
trên năng lực thực sự. Đồng thời, thông qua việc rà soát mức vốn thiếu của các NHTM có
biện pháp cứng rắn để giải quyết triệt để các ngân hàng yếu kém, theo dõi và giám sát hoạt
động của các ngân hàng lớn để đảm bảo hoạt động theo đúng quy định của NHNN. Thứ hai,
cần củng cố lại quy định, quy trình pháp lý liên quan đến hoạt động của các NHTM để giảm
thiểu các rủi ro, đặc biệt rà soát chặt chẽ các ngân hàng có tỷ lệ nợ cao nhằm góp phần làm
giảm rủi ro hệ thống cũng như kiểm soát được rủi ro phá sản trong hệ thống NHTM VN. Thứ
ba, lạm phát gia tăng cũng làm gia tăng cạnh tranh của các NHTM, cần phải xây dựng chính
sách kiểm soát lạm phát phù hợp nhằm tạo lợi thế cạnh tranh giữa các ngân hàng.
5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của luận án
Thứ nhất, nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn 2008-2017, đây là giai đoạn các
NHTM Việt Nam đang cơ cấu lại, mặc dù nghiên cứu đã lấp khoảng trống của các nghiên
cứu về NHTM trong giai đoạn này, tuy nhiên mẫu nghiên cứu chưa đề cập đến các NHTM
liên doanh, các ngân hàng nước ngoài. Để khắc phục được hạn chế này, tác giả đề xuất hướng
nghiên cứu tiếp theo là nghiên cứu trong giai đoạn dài hơn, phạm vi rộng hơn đến các NHTM
liên doanh, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài.

Thứ hai, mặc dù tác giả tìm thấy bằng chứng về tác động của TXĐTT và RRTD đến
HQHĐ của các NHTM, tuy nhiên luận án chưa nghiên cứu sự thay đổi của tác động này giữa
các nhóm ngân hàng có hình thức sở hữu khác nhau như các NHTM trong nước và ngoài
nước. Do đó, để khắc phục hạn chế này, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng phạm vi
đối với các nhóm ngân hàng tại các quốc gia khác nhau. Thông qua đó có thể xem xét tác
động này dưới điều kiện thể chế khác nhau ở các cấp khu vực, các quốc gia khác trên thế giới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5
Trong chương 5 tác giả đã trình bày tóm lược các kết quả đạt được và đề xuất ra những
kiến nghị nhằm gia tăng cạnh tranh, kiểm soát RRTD và nâng cao HQHĐ của các NHTMCP
trong bối cảnh TXĐTT ngày càng gia tại Việt Nam.


×