Tải bản đầy đủ (.doc) (223 trang)

Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự việt nam (những vấn đề cơ bản của phần chung)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 223 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

trÞnh thÞ yÕn

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHẦN CHUNG)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỊ YẾN

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHẦN CHUNG)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 9380101.03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Lê Văn Cảm


HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu


trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng
được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trịnh Thị Yến


môc lôc
Tran
g
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

8

1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước
.

8


1.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
.

25

1.3 Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
.
Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
1.4
.

32
35

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

37

2.1 Khái niệm và những đặc điểm trách nhiệm hình sự đối với
.
người chưa thành niên phạm tội

37

2.2 Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định về trách nhiệm hình sự đối
.
với người chưa thành niên phạm tội


48

2.3 Nội dung của trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
.
niên phạm tội

54

2.4 Mối quan hệ giữa trách nhiệm hình sự với miễn trách nhiệm
.
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

65

Chương 3: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

69

3.1 Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về trách
.
nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

69

3.2 Pháp luật quốc tế liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với

103



.

người chưa thành niên phạm tội

3.3 Pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới về trách nhiệm
.
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

108

Chương 4: THỰC TIỄN ÁP DỤNG, GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI NHỮNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

120

4.1 Thực tiễn áp dụng những quy định về trách nhiệm hình sự đối
.
với người chưa thành niên phạm tội

120

4.2 Sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện những quy định của Bộ luật
.
hình sự Việt Nam năm 2015 về trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội


142

4.3 Giải pháp hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự
.
đối với người chưa thành niên phạm tội của Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện nay

146

4.4 Những giải pháp khác bảo đảm áp dụng quy định của pháp luật
.
hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội

152

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

160


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự


BLDS:

Bộ Luật dân sự

PLHS:

Pháp luật hình sự

CSHS:

Chính sách hình sự

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

NCTN:

Người chưa thành niên

NCTNPT:

Người chưa thành niên phạm tội

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:


Tòa án nhân dân tối cao

LHQ:

Liên hợp quốc

CƯQTE:

Công ước quốc tế


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 4.1:

Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự về tội phạm NCTN 120

Bảng 4.2:

trong giai đoạn 10 năm (2009-2018)
Tỷ lệ tổng số vụ và tổng số bị cáo đã đưa ra xét xử trên 122
tổng số vụ và tổng số bị cáo là NCTN bị đưa ra xét xử

Bảng 4.3:

trong giai đoạn 10 năm (2009-2018)
Thống kê số vụ án và số bị cáo là NCTN được xét xử sơ 126

Bảng 4.4:

thẩm trong giai đoạn 10 năm (2009-2018)

Hình phạt cảnh cáo áp dụng đối với các bị cáo là NCTN 126

Bảng 4.5:

trong giai đoạn 10 năm ((2009-2018)
Hình phạt tiền áp dụng đối với các bị cáo là NCTN trong 127

Bảng 4.6:

giai đoạn 10 năm (2009-2018)
Hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng đối với các bị 128

Bảng 4.7:

cáo là NCTN trong giai đoạn 10 năm (2009-2018)
Hình phạt tù có thời hạn và án treo được áp dụng đối với 130

Bảng 4.8:

các bị cáo là NCTN trong giai đoạn 10 năm (2009-2018)
Việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với các bị cáo là 133

Bảng 4.9:

NCTN trong giai đoạn 10 năm (2009-2018)
Miễn TNHS, miễn hình phạt đối với các bị cáo là NCTN 134

Biểu đồ
4.1:
Biểu đồ

4.2:

trong giai đoạn 10 năm (2009-2018)
Số vụ án và số bị cáo là NCTN bị xét xử trong giai đoạn 122
10 năm (2009-2018)
Cơ cấu tội phạm NCTN trong các tội phạm nói chung 124
được Tòa án các cấp xét xử sơ thẩm giai đoạn 10 năm
(2009-2018)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Người chưa thành niên (viết tắt là NCTN) là người chưa phát triển đầy
đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm
sống còn hạn chế, dễ bị kích động, lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu,
mạo hiểm nhưng cũng dễ thay đổi, thích nghi với hoàn cảnh mới, dễ giáo dục
cải tạo, cho thấy ý thức phạm tội của NCTN chưa được hình thành một cách
rõ nét nên dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục. Trên cơ sở này Nhà nước ta đã xây
dựng chính sách hình sự người chưa thành niên phạm tội (viết tắt là
NCTNPT), cụ thể được thể hiện qua quy định của BLHS đối với NCTNPT
như quy định về nguyên tắc xử lý đối với NCTN; quy định về hình phạt; biện
pháp tư pháp áp dụng đối với NCTN; miễn hình phạt; miễn trách nhiệm hình
sự (viết tắt là TNHS) đối với NCTN … Những quy định này đã tạo ra cơ sở
pháp lí cho việc xử lý TNHS đối với NCTNPT. Khi NCTN vi phạm pháp luật,
phạm tội thì việc áp dụng trách nhiệm pháp lí và trách nhiệm hình sự phải căn
cứ vào đặc điểm tâm – sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của
NCTN và chính sách xử lý đối với NCTNPT của Nhà nước ta.
Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân và điều kiện khác
nhau, tình hình tội phạm NCTN diễn biến ngày một phức tạp. Theo số liệu
của Cục Thống kê tội phạm - Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Báo cáo thống

kê liên ngành năm 2018, số NCTN bị khởi tố mới mỗi năm chiếm khoảng 7%
đến 8% trong tổng số bị can và có chiều hướng gia tăng. Độ tuổi thực hiện
hành vi tội phạm cao nhất từ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm khoảng 80% đến 90%
dao động theo từng năm. Khi áp dụng TNHS đối với NCTNPT, trong thực
tiễn xét xử đã đạt được những thành tích đáng kể trong việc đấu tranh, giáo
dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm NCTN. Trung bình mỗi năm có khoảng
3.846 bị cáo là NCTN bị đưa ra xét xử (Vụ tổng hợp, TANDTC, năm 2018).
Tuy nhiên, đây mới chỉ là con số thống kê những vụ án đã được đưa ra xét xử
còn số lượng tội phạm ẩn không được đưa ra xử lý do nhiều nguyên nhân
khác nhau là tảng băng chìm lớn của thực trạng tội phạm NCTN.
1


BLHS đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1985 với nội dung
các chế định phù hợp với những chuẩn mực, yêu cầu của thực tiễn. BLHS
năm 1999 đã sửa đổi cơ bản, toàn diện để phù hợp với các chuẩn mực quốc tế,
trong đó có các chuẩn mực về tư pháp người chưa thành niên và bảo vệ người
chưa thành niên [62, tr.10]. Tuy nhiên, một số quy định còn bất cập nên khi áp
dụng vào thực tiễn còn bộc lộ những nhược điểm, hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu của xu thế hội nhập cũng như yêu cầu đấu tranh có hiệu quả đối
với tình trạng tội phạm NCTN, chưa đáp ứng yêu cầu của các chuẩn mực
pháp lý quốc tế hoặc chưa tương thích với quy định của Hiến pháp năm 2013
và các đạo luật khác của Việt Nam. Unicef Việt Nam khi đánh giá khó khăn,
vướng mắc trong thực tiễn xét xử các vụ án có bị cáo là NCTN để đưa ra sự
cần thiết phải thành lập Tòa án chuyên trách đối với NCTN ở Việt Nam đã
nhận định: “Một trong những nguyên nhân làm người chưa thành niên phạm
tội tái phạm chính là vì luật còn thiếu cơ chế hỗ trợ, giúp người chưa thành
niên phạm tội nhận thức được lỗi lầm của mình để khắc phục được các
nguyên nhân, điều kiện phạm tội của mình ... Các chế tài không tước tự do
hạn chế về giáo dục và giá trị phục hồi thấp nên đã khiến các Tòa án ngần

ngại áp dụng trong thực tiễn” [65, tr.39]. Với việc khắc phục nhiều hạn chế
của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã có nhiều điểm nổi bật trong quy
định về TNHS đối với NCTNPT như: mục đích chủ yếu của việc xử lý là phải
bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi, thu hẹp phạm vi chịu TNHS
của NCTN trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, bổ sung các biện pháp
giám sát, giáo dục trong trường hợp NCTN được miễn TNHS ... Tuy nhiên,
bên cạnh đó còn có một số vấn đề cần được tiếp tục hoàn thiện như: Trong
khoản 2 Điều 14 chưa nói rõ người chuẩn bị phạm tội theo khoản này phải là
người từ đủ 16 tuổi trở lên; khoản 2 Điều 91 lồng ghép nội dung các trường
hợp người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự là chưa khoa
học và hợp lý; Điều 101 dùng từ “điều luật” mà không chỉ rõ khung hình phạt
áp dụng dễ gây hiểu nhầm và vận dụng không thống nhất; chưa có điều luật
quy định riêng trong trường hợp người dưới 18 tuổi được miễn hình phạt ...
2


Đặc biệt, BLHS năm 2015 chính thức có hiệu lực từ 01/01/2018 và việc áp dụng
những quy định này trong thực tiễn xét xử là một “mảnh đất mới” để nghiên cứu
sinh có thể khai thác nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về lý luận và
thực tiễn quy định, qua đó làm rõ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn
xét xử cũng như những nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc, bất cập đó
để kiến nghị hoàn thiện BLHS và đưa ra giải pháp bảo đảm thực thi những
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về TNHS đối với NCTNPT.
Những đòi hỏi về mặt lý luận, thực tiễn quy định và áp dụng pháp luật
hình sự về TNHS đối với NCTNPT cho thấy việc nghiên cứu các quy định
này trong Luật hình sự Việt Nam là hoàn toàn cần thiết và cấp bách trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay ở Việt Nam. Xuất phát từ lý do
trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam (Những vấn đề cơ bản của Phần
chung)” để thực hiện luận án tiến sĩ .

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Hoàn thiện PLHS về TNHS đối với NCTNPT và các giải pháp thực thi
pháp luật đúng đắn khi áp dụng TNHS đối với NCTNPT nhằm đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, yêu cầu đấu tranh
phòng ngừa tội phạm và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, Đề tài giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Xây dựng cơ sở lý luận về TNHS đối với NCTNPT, trong đó làm sáng
tỏ những vấn đề cơ bản như: khái niệm, đặc điểm TNHS đối với NCTNPT; cơ
sở của việc quy định về TNHS đối với NCTNPT; nội dung của trách nhiệm
hình sự đối với NCTNPT;
- Phân tích những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, cũng như
PLHS một số nước trên thế giới về TNHS đối với NCTNPT dưới góc độ luật
học so sánh để khẳng định những kế thừa và những kinh nghiệm có thể tiếp
thu khi hoàn thiện PLHS trong tương lai về TNHS đối với NCTNPT;
3


- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của những quy phạm PLHS
Việt Nam về TNHS đối với NCTNPT từ giai đoạn Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa cho đến nay;
- Phân tích thực tiễn áp dụng những quy định của PLHS Việt Nam về
TNHS đối với NCTNPT;
- Xác định phương hướng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp
bảo đảm thực thi những quy định của BLHS về TNHS đối với NCTNPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về TNHS đối với
NCTNPT; những quy định của PLHS Việt Nam về TNHS đối với NCTNPT; thực

tiễn áp dụng những quy định PLHS về TNHS đối với NCTNPT ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội” được đề cập đến trong luận
án đồng nhất với thuật ngữ “người dưới 18 tuổi phạm tội” (quy định trong
BLHS năm 2015). Mặc dù tên gọi khác nhau nhưng bản chất nhằm chỉ cùng
một đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm. Vì vậy, trong phạm
vi nghiên cứu của luận án, nghiên cứu sinh thống nhất sử dụng thuật ngữ
NCTNPT khi nghiên cứu về đối tượng người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm.
Do tính chất đa dạng, rộng lớn và phức tạp của chế định TNHS đối với
NCTNPT nên trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ đề cập đến
những vấn đề cơ bản của Phần chung pháp luật hình sự về TNHS đối với
NCTNPT đúng như tên gọi của Đề tài luận án tiến sỹ luật học, mà không nghiên
cứu cấu thành các tội phạm cụ thể liên quan đến NCTNPT (Phần các tội phạm).
Nghiên cứu quy định pháp luật quốc tế, pháp luật hình sự của một số
quốc gia và pháp luật hình sự Việt Nam về TNHS đối với NCTNPT.
Thực tiễn áp dụng TNHS đối với NCTN phạm tội ở Việt Nam trong giai
đoạn 10 năm (2009-2018).
4


4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của luận án là dựa trên phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa MácLênin, học thuyết về nhà nước pháp quyền, phương pháp tiếp cận quyền.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, các phương pháp nghiên cứu cụ thể
được sử dụng bao gồm: phương pháp lịch sử, phân tích, thống kê, so sánh,
tổng hợp, điều tra án điển hình ... của khoa học luật hình sự và tội phạm học

để luận chứng các vấn đề khoa học được nghiên cứu.
Phương pháp lịch sử được sử dụng để khảo cứu các tài liệu và các nguồn
sử liệu khác nhau về nhà nước và pháp luật liên quan đến TNHS đối với
NCTNPT trong Luật hình sự Việt Nam (Chương 1, 3);
Phương pháp so sánh luật học, được sử dụng để so sánh, từ đó chỉ ra
những điểm tương đồng và khác biệt về các quy phạm pháp luật tương ứng có
liên quan đến TNHS đối với NCTNPT ở Việt Nam với một số nước trên thế
giới và rút ra bài học kinh nghiệm, đưa ra đề xuất hoàn thiện PLHS Việt Nam
về TNHS đối với NCTNPT (Chương 2);
Phương pháp phân tích để làm rõ nội hàm những quy phạm pháp luật
hình sự về TNHS đối với NCTNPT. Đồng thời, phương pháp này còn được sử
dụng để phân tích thực trạng áp dụng những quy phạm PLHS về TNHS đối
với NCTNPT ở Việt Nam, chỉ ra những mặt được và còn hạn chế của Tòa án
trong việc đưa ra các phán quyết về TNHS đối với NCTNPT (Chương 3,4);
Phương pháp thống kê được sử dụng để tổng hợp và xử lý số liệu liên
quan đến thực tiễn áp dụng TNHS đối với NCTNPT, phản ánh tính khách
quan của thực trạng này, làm cơ sở cho việc đánh giá cũng như đưa ra những
giải pháp định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến TNHS đối
với NCTNPT (Chương 4);
Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng để nghiên cứu các bản
án trong thực tiễn xét xử NCTNPT, làm cơ sở cho việc đánh giá thực tiễn áp
dụng TNHS đối với NCTNPT (Chương 4);
5


Phương pháp tổng hợp để khái quát hóa những quan điểm khoa học về
TNHS đối với NCTNPT, chỉ ra những đặc điểm có tính quy luật của pháp luật
thực định cũng như thực tiễn áp dụng TNHS đối với NCTNPT (Chương 1,2).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án sau khi bảo vệ thành công sẽ là công trình khoa khọc pháp lý

đầu tiên ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học nghiên cứu một cách toàn diện và
chuyên sâu đối với đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam (Những vấn đề cơ bản của Phần
chung). Luận án giải quyết những vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn
liên quan đến TNHS đối với NCTNPT (Phần chung) trong luật hình sự Việt
Nam với những đóng góp dưới đây:
1) Hệ thống hóa và đánh giá tổng quan về sự thể hiện, phát triển của
những quan điểm về vấn đề TNHS đối với NCTNPT trong khoa học luật hình
sự trong và ngoài nước;
2) Hình thành cơ sở lí luận, khung lí thuyết về TNHS đối với NCTNPT,
trong đó làm sáng tỏ những nhận thức lý luận về TNHS đối với NCTNPT;
3) Đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc những khía cạnh thể hiện nội
dung TNHS đối với NCTNPT trong PLHS Việt Nam trên cơ sở phân tích
những quy phạm pháp luật thực định, đối chiếu lịch sử, so sánh pháp luật;
đánh giá sát thực thực tiễn áp dụng những quy định về TNHS đối với
NCTNPT trong BLHS và xác định nguyên nhân của những hạn chế trong áp
dụng những quy định này.
4) Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu kể trên, luận án đạt được kết
quả quan trọng nhất là: kiến nghị hoàn thiện BLHS năm 2015 về TNHS đối
với NCTNPT và đưa ra giải pháp bảo đảm thực thi những quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về TNHS đối với NCTNPT.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu
một cách hệ thống và đồng bộ về vấn đề TNHS đối với NCTNPT (Phần
chung) ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học. Trong quá trình thực hiện luận án, tác
6


giả đã công bố một số công trình khoa học trên một số sách báo pháp lý nhằm
đóng góp trong khoa học luật hình sự Việt Nam những tri thức lý luận, thực

tiễn về TNHS đối với NCTNPT.
Về mặt thực tiễn: những phát hiện của luận án trong đánh giá thực
trạng và thực tiễn áp dụng những quy định về TNHS đối với NCTNPT trong
luật hình sự Việt Nam; những kiến nghị của luận án về giải pháp hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định này có thể phục vụ đắc lực cho
công tác lập pháp cũng như áp dụng pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay nhằm nâng cao hiệu quả trong việc đấu tranh phòng, ngừa tội phạm nói
chung và tội phạm NCTN nói riêng.
Ngoài ra, luận án còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cho những nhà
khoa học - luật gia, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh
viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự trong những cơ sở đào tạo đại học,
sau đại học tại Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu tham khảo, luận án
được cơ cấu thành 04 chương, cụ thể:
- Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Chương 2. Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội
- Chương 3: Những quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội.
- Chương 4: Thực tiễn áp dụng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực
thi những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội

7


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU


1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
NCTNPT và vấn đề xử lý NCTNPT là đề tài luôn được quan tâm nghiên
cứu xuất phát từ những lí do sau: việc nghiên cứu trước hết xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn xét xử những vụ án tội phạm NCTN mà kết quả là Tòa án phải
ra quyết định áp dụng những chế tài hình sự phù hợp để xử lý NCTNPT tương
xứng với độ tuổi, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội. Đồng thời, quá trình nghiên cứu cũng định hình, đặt nền móng cho khoa
học pháp lý hình sự Việt Nam về TNHS đối với NCTNPT.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài của mình, tác giả chủ yếu đi sâu
nghiên cứu TNHS đối với NCTNPT với các hướng tiếp cận: thứ nhất, các
công trình nghiên cứu những vấn đề chung liên quan đến TNHS đối với
NCTNPT; thứ hai, các công trình nghiên cứu chính sách hình sự đối với
NCTNPT; thứ ba, các công trình nghiên cứu các biện pháp xử lý đối với
NCTNPT; thứ tư, các công trình nghiên cứu khác (tâm lý học, xã hội học, tội
phạm học) mà NCTN là đối tượng nghiên cứu cũng là những tài liệu mà
chúng tôi đề cập đến và sử dụng trong luận án.
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu những vấn đề chung liên
quan đến trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Trong khoa học Luật hình sự, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về
khái niệm TNHS, song đại đa số đều thống nhất nội hàm khái niệm TNHS là
hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do
việc thực hiện tội phạm [7, tr.122], [44, tr.14], [61, tr.41]. Ngoài quan điểm
này, còn có quan điểm khác đã đồng nhất TNHS với hình phạt, coi TNHS
phát sinh từ khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội: “Trách nhiệm hình
sự là việc thực hiện chế tài pháp lý hình sự, phát sinh từ khi áp dụng hình
phạt đối với người phạm tội” [28, tr.59].
8


Trong nghiên cứu chuyên sâu về TNHS, tác giả Phạm Mạnh Hùng đã đưa

ra định nghĩa: “Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu
quả bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó
thực hiện tội phạm và là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình
sự, được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật và một số
biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định” [29, tr.46].
GS.TSKH. Lê Văn Cảm cho rằng: theo nghĩa tích cực, “TNHS là trách
nhiệm phải xử sự hợp pháp của một người trong việc ý thức được nghĩa vụ của
mình là không được thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm” (đây là cách hiểu không truyền thống, không có tính chất phổ biến), còn
theo nghĩa tiêu cực, “trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm và hậu
quả pháp lý ấy được thể hiện trong việc Tòa án nhân danh Nhà nước kết án
người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm đó, còn người bị kết án
phải chịu sự tác động về mặt pháp lý hình sự theo một trình tự tố tụng riêng”
[10, tr.610] (cách hiểu theo quan điểm truyền thống, có tính chất phổ biến).
TNHS đối với NCTNPT là dạng đặc biệt của TNHS. TNHS đối với
NCTNPT là hậu quả pháp lý bất lợi mà NCTN phải chịu khi thực hiện tội
phạm. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Bộ
luật Hình sự (BLHS) hiện hành, thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm
do NCTN thực hiện trong nhiều năm, cũng như các đặc điểm liên quan đến
tâm – sinh lý, điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, lịch sử, truyền
thống... của nước ta, về cơ bản các nhà khoa học – luật gia đều thống nhất
khái niệm NCTNPT trong luật hình sự. Trên cơ sở khảo sát về tâm lý, đúc kết
kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như căn cứ vào
chính sách hình sự của Nhà nước đối với NCTN, đặc biệt là kết quả thống
nhất và đầy đủ của nhiều công trình nghiên cứu [29, tr.133], [38, tr.27], [40,
tr.520], [44, tr.343], [56, tr.459].
Tác giả Trần Văn Dũng đã đưa ra khát quát về TNHS đối với NCTNPT
là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người từ một độ tuổi nhất
9



định đến dưới 18 tuổi, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình
sự quy định là tội phạm. TNHS của NCTNPT là TNHS giảm nhẹ bao gồm
nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS theo một trình
tự, thủ tục đặc biệt, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS và
chịu mang án tích [15, tr.15].
Nghiên cứu các công trình liên quan đến vấn đề cơ sở của TNHS trước
đây và hiện nay trong khoa học luật hình sự còn tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau. Chẳng hạn, GS.TSKH. Đào Trí Úc cho rằng, cơ sở của TNHS là: “sự
hiện diện của tất cả những dấu hiệu do luật định về tội phạm”; PGS.TS. Trần
Văn Độ quan niệm, cơ sở của TNHS là: “tội phạm – hành vi nguy hiểm cho
xã hội chứa đựng các yếu tố cấu thành tội phạm ” [22, tr.182], hay PGS.TS.
Nguyễn Mạnh Kháng cho rằng: “Suy cho cùng, thì cơ sở của trách nhiệm
hình sự là cấu thành tội phạm và chỉ dấu hiệu đó mới là cơ sở của trách
nhiệm hình sự” [31, tr.113].
Trong khi đó, tiếp cận theo một hệ thống đầy đủ, logic và chặt chẽ,
GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã chỉ ra ba cách tiếp cận khác nhau về cơ sở của
TNHS tương ứng với ba bình diện: về mặt nội dung hay vật chất (khách quan);
về mặt hình thức (bên ngoài) và về mặt quy phạm (pháp lý) [10, tr.627-632].
Luật hình sự Việt Nam đã quy định khái niệm người chưa thành niên
phạm tội: Người chưa thành niên phạm tội chỉ bao gồm những người từ đủ 14
tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
Luật hình sự quy định là tội phạm.
Bên cạnh đó trong khoa học luật hình sự còn có thuật ngữ “các hình thức
của trách nhiệm hình sự”. Nghiên cứu vấn đề này tác giả nhận thấy trong khoa
học luật hình sự cho đến thời điểm hiện tại chỉ có công trình của GS.TSKH. Lê
Văn Cảm đề cập đến việc nêu khái niệm “hình thức thực hiện trách nhiệm hình
sự”, cụ thể: “hình thức thực hiện TNHS là việc thể hiện nội dung TNHS của
người phạm tội trong bản án có hiệu lực của Tòa án” và tác giả đã đưa ra các

hình thức thực hiện TNHS, đồng thời đưa ra các dạng bản án thể hiện nội dung
10


của TNHS: “1) Thực hiện TNHS có kèm theo việc quyết định hình phạt và; 2)
Thực hiện TNHS không kèm theo quyết định hình phạt” [10, tr.617-620].
Hiện nay ở Việt Nam có các công trình nghiên cứu chung liên quan đến
TNHS đối với NCTNPT như: Mô hình lí luận về Bộ luật hình sự Việt Nam
(Phần chung) của GS.TS. Đào trí Úc (chủ biên); Các nghiên cứu chuyên khảo
về phần chung luật hình sự, tập III và sách chuyên khảo sau đại học: Những
vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung) của GS.TSKH. Lê
Văn Cảm; LATS: Chế định trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam của
TS. Phạm Mạnh Hùng; sách chuyên khảo: Người chưa thành niên phạm tội –
đặc điểm tâm lý và chính sách xử lý của TS. Đặng Thanh Nga và TS. Trương
Quang Vinh; LVTh.S: Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm
tội trong Luật hình sự Việt Nam của tác giả Trần Văn Dũng; Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần chung) của các nhà khoa học viết sách liên quan đến
TNHS đối với NCTNPT như: GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, PGS.TS. Trịnh Quốc
Toản, TS. Võ Khánh Vinh... Các kết quả nghiên cứu nêu trên đã góp phần quan
trọng trong việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về TNHS đối với NCTNPT
như thừa nhận khái niệm TNHS, cơ sở và các dạng của TNHS làm nền tảng lí
luận cho việc nghiên cứu TNHS đối với NCTNPT; thừa nhận NCTN là người
dưới 18 tuổi – chưa phát triển một cách đầy đủ về thể chất và tinh thần, khả
năng nhận thức và khả năng kiểm soát hành vi của NCTN còn có phần hạn chế,
dễ bị tác động từ các điều kiện bên ngoài và dễ bị kích động. Thống nhất trong
nhận thức chung về việc xử lý NCTNPT nhằm giúp họ sửa chữa sai lầm và trở
thành công dân có ích cho xã hội. Việc quy định TNHS đối với NCTNPT là
hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan. Tuy nhiên, các công trình mới chú
ý vào những khía cạnh cụ thể hay từng vấn đề liên quan đến TNHS đối với
NCTNPT. Chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, có

hệ thống các quy định của Phần chung về TNHS đối với NCTN trong luật hình
sự Việt Nam dưới cấp độ luận án tiến sĩ luật học. Có những công trình đã đề
cập đến TNHS đối với NCTNPT nghiên cứu từ khá lâu, nhiều vấn đề lý luận đã
có quan điểm thay đổi, được lý giải sâu sắc hơn, chính xác hơn.
11


1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu chính sách hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với NCTNPT là một bộ phận của chính sách
hình sự, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm NCTN. Nội dung của chính sách hình sự đối với
NCTNPT vừa có nội dung thuộc về chính sách hình sự chung được áp dụng
đối với người phạm tội, vừa có nội dung đặc thù chỉ được áp dụng đối với
NCTNPT. Đa số các nhà nghiên cứu luật học đều thống nhất quan điểm về
chính sách hình sự là “những phương hướng có tính chất chỉ đạo, chiến lược
của nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm đảm bảo
thực hiện tốt đường lối xử lý về hình sự ...” [10, tr.35], [61, tr.182]. Mỗi quốc
gia đều có chính sách hình sự riêng mang đặc trưng của quốc gia đó nhằm bảo
vệ chế độ Nhà nước, bảo vệ “nhân thân, các quyền và tự do của con người và
của công dân, cũng như lợi ích của xã hội và lợi ích của Nhà nước ...” [10,
tr.43]. Do đó việc nghiên cứu chính sách hình sự nói chung và chính sách hình
sự đối với NCTNPT nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng
xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật và phòng ngừa tội phạm nói chung và
tội phạm NCTN nói riêng.
Chính sách hình sự đối với NCTN (người dưới 18 tuổi) trong BLHS
năm 2015 với việc thể chế hóa các chủ chương của Đảng và Nhà nước và đảm
bảo sự phù hợp, tính tương thích với các điều ước quốc tế về tư pháp NCTN
mà Việt Nam là thành viên, qua đó “tăng cường sự bảo vệ, đề cao hiệu quả
phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội nói chung và

người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng ...” [76, tr.79-89].
Trong luận án “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội ở Việt Nam hiện nay” (bảo vệ năm 2016), tác giả Hoàng Minh Đức đã đưa
ra khái niệm, đặc điểm về chính sách hình sự đối với NCTNPT, từ đó đi sâu
phân tích chính sách hình sự đối với NCTNPT, cũng như tình hình thực hiện
chính sách hình sự đối với NCTNPT ở Việt Nam hiện nay và đưa ra giải pháp
hoàn thiện chính sách hình sự đối với NCTNPT ở Việt Nam, cụ thể: Chính sách
12


hình sự đối với NCTNPT là hệ thống các quan điểm, phương hướng có tính chỉ
đạo, chiến lược của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật hình sự đối với NCTNPT, trong việc sử dụng hệ thống pháp
luật hình sự đó vào thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cho
NCTN thực hiện, nhằm phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo
đúng pháp luật các loại tội phạm do NCTN thực hiện [23, tr.40-42]. Và đặc
điểm chính sách hình sự đối với NCTNPT bao gồm: chính sách hình sự đối với
NCTNPT là một phần của chính sách xã hội nói chung và là chính sách pháp
luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự đối với NCTNPT nói riêng của một Nhà
nước; chính sách hình sự đối với NCTNPT góp phần tạo thành hệ thống chính
sách xã hội nói chung, là động lực, đường hướng chỉ đạo sự vận động và phát
triển của xã hội, nó có thể tạo ra sự tương tác thuận chiều thúc đẩy sự phát triển
của xã hội, phát huy và bảo đảm các giá trị, quyền cơ bản của con người trong
xã hội, ngược lại nó cũng có thể trở thành xung lực kìm hãm sự phát triển của
xã hội và việc bảo vệ các giá trị cơ bản của con người; chính sách hình sự đối
với NCTNPT là những phương hướng có tính chất chỉ đạo, chiến lược của
Đảng và Nhà nước Việt Nam trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm do
NCTN thực hiện [23, tr.136- 147].
Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Cao Thị Oanh với đề tài “Nguyên tắc
phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam” (bảo vệ năm 2007),

cũng đề cập đến nguyên tắc phân hóa TNHS đối với NCTNPT. Tuy nhiên, đây
mới chỉ là một nội dung nằm trong một tiểu mục nhỏ của luận án. Theo tác giả,
về nguyên tắc, trong những trường hợp tương đương, TNHS đối với những
người phạm tội phụ thuộc một phần vào độ tuổi của họ. Theo đó, TNHS của
những NCTNPT phải nhẹ hơn so với những người đã thành niên phạm tội; trong
phạm vi những NCTNPT, TNHS của những người có độ tuổi lớn hơn phải nặng
hơn so với những người có độ tuổi nhỏ hơn. Yêu cầu này đòi hỏi đường lối xử lý
NCTNPT phải thể hiện tính giáo dục cao nhằm giúp họ sửa chữa lỗi lầm, phát
triển hoàn thiện và có thể bắt đầu lại cuộc sống ở mức thuận lợi nhất có thể.
Đường lối xử lý này cần được thể hiện một cách thống nhất trong tất cả các quy
13


định có liên quan đến TNHS của NCTNPT nhằm đảm bảo trong mọi trường hợp
TNHS được xác định đối với NCTNPT cụ thể phải phù hợp với các yếu tố riêng
biệt của những người trong độ tuổi này [42, tr.90].
Bên cạnh đó còn có một số bài viết đề cập đến chính sách hình sự đối với
NCTNPT, như: bài viết “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội” của tác giả Vũ Thị Thu Quyên [47, tr.18]; bài viết “Những điểm mới
về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật
hình sự năm 1999 và những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật tố tụng
hình sự cho phù hợp” của tác giả Trần Văn Luyện [34, tr.5-12]. Các bài viết
này đã khắc họa rõ nét chính sách hình sự - Chính sách nhân đạo của Đảng và
Nhà nước ta đối với NCTNPT chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Về cơ bản, chính sách hình sự đối với NCTNPT “cho thấy rõ bản chất
nhân đạo và tính nhân văn” [11, tr.59] được thể hiện cụ thể trong mục đích xử
lý NCTNPT không mang tính trừng phạt mà chủ yếu mang tính giáo dục. Hầu
hết các nhà nghiên cứu luật học đều thống nhất về chính sách hình sự đối với
NCTNPT. Tuy nhiên, vẫn còn một số quan điểm khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất, NCTN cần được áp dụng các biện pháp thay thế,
biện pháp hành chính là phù hợp, không tán thành mở rộng phạm vi xử lý
hình sự và cho rằng “nếu quy định xử lý hình sự quá rộng là sớm đưa các em
vào vòng tố tụng thì đây không phải là phương án tốt nhất để giáo dục các em
trở thành người có ích cho xã hội” do vậy nên xây dựng chính sách hình sự
đối với NCTNPT theo hướng giảm nhẹ hơn nữa như: nên thu hẹp phạm vi
chịu TNHS đối với NCTN [21, tr.20-25]; nên miễn hình phạt cho NCTNPT
khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS
năm 1999 và không có tình tiết tăng nặng TNHS nào quy định tại khoản 1
Điều 48 BLHS năm 1999 [6, tr.20-26].
Quan điểm thứ hai, về cơ bản nhất trí xây dựng chính sách hình sự
mang tính khoan hồng, hướng thiện cho NCTN nhưng thực trạng NCTN vi
phạm pháp luật ngày càng nhiều và các biện pháp xử lý phi hình sự đối với
14


một số hành vi trong thời gian dài không còn hiệu quả nên cần xây dựng
chính sách hình sự theo hướng tăng cường ngăn chặn, phòng ngừa trẻ em
phạm tội trên cơ sở hạ thấp độ tuổi chịu TNHS, mở rộng phạm vi chịu TNHS
của NCTN nhưng đồng thời hoàn thiện, mở rộng hơn nữa các biện pháp xử lý
NCTNPT, xây dựng và hoàn thiện hệ thống tư pháp thân thiện cho NCTN.
GS.TS. Võ Khánh Vinh nhận định: quan điểm giảm nhẹ TNHS đối với
NCTNPT tuy đã được thừa nhận và thể hiện một cách nhất quán trong BLHS
hiện hành, song không phải không còn gặp phải những ý kiến đối lập, như:
trong xu thế trẻ hóa đội ngũ lao động quốc gia và việc phát triển sớm khả
năng nhận thức, tâm lý ở NCTN, thì cần hạ độ tuổi chịu TNHS đối với họ,
bằng cách này sẽ xuất hiện xu hướng hình sự hóa một loạt các hành vi phạm
tội của NCTN; có nên cho NCTNPT cùng lúc được hưởng quá nhiều ân huệ
của pháp luật hay chỉ cần giảm nhẹ hình phạt là đủ. Những ý kiến nêu trên tuy
đã được đặt ra, nhưng đã không thuyết phục được quan điểm chính thống của

các nhà làm luật và như chúng ta thấy BLHS hiện hành đã đưa ra một loạt quy
phạm hợp lý và tiến bộ, thể hiện được chính sách nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta đối với NCTNPT. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh Điều 69 BLHS năm
1999 ghi nhận những định hướng quan trọng cho cả quá trình truy cứu TNHS
người chưa thành niên phạm tội [79, tr.520].
Ngoài ra cũng có một số đề tài khoa học các cấp triển khai nghiên cứu
nhằm cải thiện khung pháp luật, chính sách về NCTN vi phạm pháp luật, nâng
cao nhận thức và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc
với các đối tượng; tăng cường chăm sóc về tâm lý xã hội cho NCTN vi phạm
pháp luật ở Việt Nam hiện nay nhằm góp phần hoàn thiện chính sách, pháp
luật về đối tượng này như đề tài khoa học: “Nghiên cứu, đánh giá, phân tích
tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và hệ thống xử lý tại Việt
Nam” của Viện nghiên cứu pháp lý – Bộ tư pháp (2003). Bên cạnh đó có dự
án “Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại Việt
Nam” của Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp (2000). Căn cứ vào quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp, vận dụng
15


quan niệm có tính chất hướng dẫn của LHQ trong quy tắc Bắc kinh, dự án này
đã tập trung phân tích, đối chiếu các chuẩn mực quốc tế về tư pháp đối với
NCTN trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia với thực tiễn lập
pháp và thi hành pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó dự
án đã đưa ra đánh giá tổng hợp về sự hài hòa giữa luật pháp quốc gia và pháp
luật quốc tế trong lĩnh vực tư pháp NCTN; những ưu điểm và hạn chế của hệ
thống tư pháp NCTN ở Việt Nam. Đồng thời, dự án đã đề xuất những kiến
nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống tư pháp NCTN ở Việt
Nam. Dự án chỉ rõ, việc hoàn thiện chính sách, pháp luật của nhà nước ta đối
với NCTN vi phạm pháp luật tập trung chủ yếu vào việc hoàn thiện ba yếu tố,
đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức bộ máy của các cơ

quan tư pháp và đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp, đảm bảo sự vận hành
đúng đắn của từng mắt xích và những phương thức phối kết hợp chặt chẽ,
hiệu quả trong cả hệ thống mắt xích đó.
1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu các biện pháp xử lý đối với
người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với NCTNPT ở Việt Nam được thể hiện rõ trong
mục đích xử lý hình sự nhóm đối tượng này không phải mang tính trừng phạt
mà hướng đến giáo dục, phòng ngừa và mục tiêu phục hồi và tư pháp phục
hồi của NCTN [5, tr.63], [43]. Cũng chính bởi đặc điểm của NCTN với mức
độ trưởng thành chưa đầy đủ nên “họ không phải chịu hoàn toàn trách nhiệm
về hành vi của mình và họ là những con người có thể cải tạo, giáo dục được”
[43, tr.17]. Việc xử lý NCTNPT nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội [35,
tr.225], [42, tr.89], [50, tr.8]. Đánh giá các quy định đối với NCTNPT trong
BLHS năm 1999, UNICEF Việt Nam đã nhận định “các quy định của BLHS
thực sự đã phản ánh hướng tiếp cận không mang tính trừng phạt trong hoạt
động tư pháp với NCTN so với người đã thành niên” [62, tr.28].
Trong luận án tiến sĩ luật học của tác giả Phạm Mạnh Hùng với đề tài
“Chế định trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam” (bảo vệ năm
16


2004), cũng đã đề cập đến TNHS đối với NCTNPT. Tuy nhiên, đây chỉ là một
tiểu mục nhỏ nằm trong phần trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp
đặc biệt. Trong tiểu mục này, tác giả đã trình bày sơ lược một số nội dung liên
quan đến NCTNPT như: độ tuổi chịu TNHS; nguyên tắc xử lý NCTNPT; các
chế tài áp dụng đối với NCTNPT [29, tr.133-147].
Cuốn sách chuyên khảo “Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện
trên địa bàn HN – Thực trạng và giải pháp” [57, tr.2] do PGS.TS. Trịnh Quốc
Toản chủ biên cũng đã đề cập đến những vấn đề lý luận về TNHS đối với

NCTNPT, trong đó đã nêu lên vấn đề TNHS của NCTNPT trong luật hình sự
Việt Nam bao gồm những nội dung như: khái niệm và những đặc điểm tâm
sinh lý của NCTNPT; đường lối xử lý NCTNPT; các chế tài áp dụng đối với
NCTNPT. Tuy nhiên, trong cuốn sách này, tác giả mới chỉ phân tích sơ lược
nội dung các quy định của pháp luật hiện hành đối với NCTNPT.
Bên cạnh đó cuốn sách chuyên khảo “Hoàn thiện các quy định của Phần
chung Bộ luật hình sự trước yêu cầu đổi mới của đất nước” của TS. Trịnh Tiến
Việt đã đi sâu phân tích và chỉ ra tồn tại, hạn chế của những quy định đối với
NCTNPT như: nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT; các biện pháp tư pháp áp dụng
đối với NCTNPT; các hình phạt áp dụng đối với NCTNPT, từ đó đưa ra hướng
hoàn thiện các quy định của BLHS liên quan đến NCTNPT [71, tr.285-356].
TS. Dương Tuyết Miên cho rằng, quá trình vận dụng Điều 74 vào thực
tiễn còn gặp vướng mắc, cụ thể: xét về kỹ thuật lập pháp, Điều 74 vẫn còn
hạn chế khi quy định “... nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt tù
chung thân hoặc tử hình ...” hoặc “... không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật
quy định” hoặc “... không quá ½ mức phạt tù mà điều luật quy định”. Bởi vì
điều luật quy định về tội phạm cụ thể có thể có một hoặc nhiều khung hình
phạt trong khi đó Điều 74 chỉ dùng từ chung chung là “điều luật” mà không
chỉ rõ khung hình phạt áp dụng. Mặt khác, cần hiểu rằng, nhà làm luật quy
định giảm nhẹ hình phạt cho NCTNPT so với người đã thành niên là so với
trong cùng một khung hình phạt (trong điều kiện các tình tiết tương đương).
Do đó, quy định chung chung như trên sẽ dễ gây hiểu nhầm và vận dụng
17


không thống nhất. Từ sự phân tích trên, tác giả cho rằng để việc quyết định
hình phạt đối với NCTNPT được chặt chẽ cũng như hình phạt đã tuyên phù
hợp với lứa tuổi của NCTN, phù hợp với khả năng cải tạo giáo dục của họ,
Điều 74 nên sửa lại cho phù hợp [35, tr.233-234].
Ngoài ra, giáo trình cũng là ấn phẩm đáng kể đề cập đến nội dung liên

quan đến các biện pháp xử lý đối với NCTNPT như: đường lối xử lý
NCTNPT; hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với NCTNPT... được nêu
trong chương, mục giáo trình. Chẳng hạn: “Chương XVIII – Những đặc thù về
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội”, trong sách:
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TSKH. Lê Cảm làm
chủ biên (Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2003); “Chương XXIII – Trách
nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội”, trong sách: Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của GS.TS. Võ Khánh Vinh (Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2014; “Bài 17 – Trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội”, trong sách: Luật hình sự Việt Nam – Quyển 1 (Phần
chung) của TS. Phạm Văn Beo (Nxb Chính trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội,
2013); “Chương XVI – Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm
tội” trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam do GS.TS. Nguyễn Ngọc
Hòa làm chủ biên (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2015) ...
Cũng tiếp cận vấn đề một cách tổng quát về các biện pháp xử lý đối với
NCTNPT nhưng ở góc độ bình luận khoa học luật hình sự hoặc hướng dẫn áp
dụng những quy định đối với NCTNPT, cuốn Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự (Phần chung) của tác giả Đinh Văn Quế [46, tr.313-324] và cuốn Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự (đã được sửa đổi, bổ sung) do GS.TS. Trần
Minh Hưởng (chủ biên) [30], hay cuốn Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 2015 do TS. Lê Đăng Doanh và PGS.TS. Cao Thị Oanh (chủ biên) [13]
đã phân tích và làm sáng tỏ các nội dung theo thứ tự từng điều luật được quy
định trong BLHS. Việc phân tích và giải thích các điều luật kết hợp với những
ví dụ từ thực tiễn sinh động đã giúp cho việc vận dụng những quy định này dễ
dàng hơn. Song các tác giả lại chủ yếu tập trung giải thích khoa học đối với
18


×