Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Hoàn thiện quy trình quản trị rủi cho công ty cổ phần nội thất thông minh xhome việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.53 KB, 77 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

NGUYỄN THÀNH TRUNG

HOÀN THIỆN QUY TRÌNH QUẢN TRỊ RỦI RO
CHO CÔNG TY CỔ PHẦN NỘI THẤT THÔNG MINH
XHOME VIET NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)

Hà Nội - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

NGUYỄN THÀNH TRUNG

HOÀN THIỆN QUY TRÌNH QUẢN TRỊ RỦI RO
CHO CÔNG TY CỔ PHẦN NỘI THẤT THÔNG MINH
XHOME VIET NAM
Chuyên ngành: Quản trị An ninh phi truyền thống
Mã số: 8900201.05QTD

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thắng

Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng bản
thân tôi, không sao chép của người khác; các nguồn tài liệu trích dẫn, số liệu
sử dụng và nội dung luận văn trung thực. Đồng thời cam kết rằng kết quả quá
trình nghiên cứu của luận văn này chưa từng công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào.
Tác giả

Nguyễn Thành Trung
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thắng, đã nhiệt tình
hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tiếp theo, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo, anh/chị em cán bộ và
nhân viên đang làm việc tại Công ty Cổ phần Nội thất thông minh Xhome Việt
Nam đã chia sẻ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do thời gian, phương pháp luận
nghiên cứu và kinh nghiệm của bản thân tôi còn hạn chế nên luận văn không
tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được những ý kiến nhận xét,
góp ý của các Thầy, Cô giáo và các bạn đồng nghiệp để vận dụng kết quả
nghiên cứu vào thực tiễn công tác của tôi trong lĩnh vực thiết kế và thi công nội
thất.
Xin trân trọng cảm ơn!
3



4


MỤC LỤC

5


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4

Từ viết tắt
DN
NXB
TMCP
Xhome

Đầy đủ
Doanh nghiệp
Nhà xuất bản
Thương mại cổ phần
Công ty Cổ phần Nội thất thông minh
Xhome Việt Nam

6



DANH MỤC BẢNG BIỂU

7


DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

8


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Gần đây, trước những tác động mạnh mẽ của lạm phát cao và suy thoái
kinh tế do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với các doanh
nghiệp, khái niệm quản trị rủi ro (Risk management - QTRR) trong doanh
nghiệp được biết đến rộng rãi hơn. Đó là quá trình tiếp cận rủi ro một cách
khoa học và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm
thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro, đồng thời
tìm cách biến rủi ro thành những cơ hội thành công. Một hệ thống quản lý rủi
ro được tổ chức tốt và vận hành hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp đứng vững và
vượt qua những biến động. Công tác quản trị rủi ro cho các khối doanh nghiệp
khác nhau có những đặc thù riêng. Hoạt động quản trị rủi ro với các doanh
nghiệp Việt Nam đang được đánh giá thực hiện chưa tốt so với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Cũng bởi do quản trị rủi ro chưa được
nhận thức đầy đủ về bản chất và vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh
doanh từ các lãnh đạo công ty. Trong giai đoạn hiện nay, môi trường kinh
doanh đang trải qua những thay đổi liên tục và khó dự đoán trước. Môi trường
kinh doanh ngày càng mở rộng thì rủi ro càng phức tạp, đặc biệt khi Việt Nam
ngày càng tiến hành mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu

tư và cạnh tranh với doanh nghiệp Việt Nam với các chính sách thuận lợi hơn
trước rất nhiều (đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO).
Trong lĩnh vực xây dựng, rủi ro được nghiên cứu muộn hơn so với các
ngành kinh tế, sản xuất khác. Tổng kết từ nhiều nghiên cứu của các tác giả trên thế
giới, khái niệm về quản lý rủi ro có thể được định nghĩa như sau: “Quản lý rủi ro
là một quá trình xác định, đánh giá và xếp hạng các rủi ro có thể xảy ra mà qua đó
thì các biện pháp hữu hiệu và nguồn tài nguyên cần thiết được lựa chọn và áp

9


dụng vào thực tế để hạn chế, theo dõi và kiểm soát các khả năng xuất hiện
và/hoặc các tác động của các sự kiện không dự báo trước”.
Trên thế giới đã có nhiều khoa học như Martin Barnes, D.F. Cooper,
D.H. MacDonald và C.B.Chapman, H.Ren, He Zhi,… đóng góp thành tựu to
lớn trong quá trình nghiên cứu về rủi ro và quản lý rủi ro (QLRR). Đồng thời,
theo quan điểm nghiên cứu về rủi ro khi xảy ra, QLRR được xem xét trên
khía cạnh dự báo và có khả năng đề phòng được.
Dự án đầu tư xây dựng là tập hợp các hoạt động có liên quan đến việc
bỏ để mới, mở rộng hoặc cải tạo nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng cao
chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất định.
Một trong những đặc điểm chính của dự án đầu tư xây dựng là môi trường
không chắc chắn (tiềm ẩn nhiều rủi ro).
XHOME là công ty thiết kế, thi công nội thất hàng đầu tại Việt
Nam với sự tin tưởng của hàng ngàn khách hàng khắp mọi nơi trên cả nước.
Là đơn vị duy nhất có thể cung cấp đầy đủ trọn gói các sản phẩm dịch vụ từ
thiết kế, thi công nội thất đến xây mới, cải tạo, trang trí... Ngoài ra, chúng tôi
còn mang đến các sản phẩm Nội thất cao cấp… với những bản thiết kế chi tiết
đến hoàn hảo.
Tiềm năng phát triển lớn cũng chính là yếu tố khiến các doanh nghiệp

đồ nội thất nước ngoài nhăm nhe tiến vào thị trường Việt Nam. Năm 2017,
"gã khổng lồ" IKEA đến từ Thụy Điển sau khi nghiên cứu đã tuyên bố sẽ lên
kế hoạch mở rộng thị trường tại Đông Nam Á, và Việt Nam chính là điểm
nhắm tới để phát triển trong tương lai gần. Điều này cũng gây không ít áp lực
cho các doanh nghiệp trong nước, buộc họ phải tối ưu hóa hoạt động, gia tăng
khả năng cạnh tranh trên thị trường bên cạnh đó, người tiêu dùng ngày càng
có yêu cầu cao hơn về chất lượng, mẫu mã và giá cả của sản phẩm. Điều này
đồng nghĩa với việc, nếu bạn cho khách hàng thấy sản phẩm của bạn không
đáp ứng được tiêu chuẩn của họ thì đừng bao giờ mơ tưởng rằng họ sẽ đưa
10


tiền cho bạn! Nhưng nếu cửa hàng kinh doanh nội thất của bạn vượt qua được
những khó khăn từ thị trường thì đây quả là một thách thức. Xuất phát từ các
phân tích trên, tác giả đã lựa chọn nội dung “Hoàn thiện quy trình quản trị
rủi ro cho Công ty Cổ phần Nội thất thông minh Xhome Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về quản trị rủi ro
Rủi ro là một khái niệm không xuất hiện ngay trong thời kỳ đầu của
văn minh nhân loại. Sự phát triển của khoa học là nhân tố làm xuất hiện nhu
cầu về việc tìm hiểu rủi ro và quản trị chúng. Các nhà toán học là những
người đi đầu trong việc tìm hiểu và lượng hóa rủi ro. Rủi ro với tư cách là một
khoa học ra đời vào thời Phục Hưng, thế kỷ 16, thế kỷ của những phát minh
khám phá. Sự khám phá ra Lý thuyết xác suất chính là tâm điểm quan trọng
cho khoa học quản trị rủi ro ra đời. Blaise Pascal và Daniel Bernoulli là
những người đã lượng hóa được rủi ro. Năm 1654, Pascal đã cố gắng giải
quyết bài toán “bí ẩn của trò chơi đánh bạc” bằng cách tìm đến một giải pháp
chia như thế nào những số tiền đặt cọc của một trò chơi may rủi, gọi là
“balla”, dẫn đến việc cho ra đời Lý thuyết xác suất, từ đó tìm ra công thức

tính toán khả năng kết cục của các biến cố. Mô hình đầu tiên xác định khả
năng xuất hiện các kết cục chính là Tam giác Pascal nổi tiếng. Năm 1738,
Bernoulli trong bài viết “Trình bày một lý thuyết mới về đo lường rủi ro” đã
giới thiệu khái niệm “lợi ích” (Utility), một phương pháp đo lường kết quả
của một khả năng biến cố trong việc ước định rủi ro. Với những nỗ lực và
phát minh đầu tiên này, các nhà khoa học tiếp tục tiếp cận rủi ro theo các đặc
điểm tư tưởng khác nhau nhưng thống nhất về mặt hệ thống, tạo nên khuôn
mặt tương đối hoàn thiện về quản trị rủi ro ngày nay. Và như vậy, khoa học
quản trị rủi ro đã được thống nhất ghi nhận công lao khởi nguồn thuộc về các
nhà bác học của Thời kỳ ánh sáng (châu Âu thế kỷ 18), thời đại của nghiên
11


cứu, khám phá một kiến thức rộng lớn, chuẩn bị cho sự phát triển các phương
pháp đo lường rủi ro sau này.
Tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong những thập kỷ gần đây cho phép
phát triển và hoàn thiện một loạt các hệ thống và phương pháp định giá rủi ro
như Value at Risk (VaR), thước đo tín nhiệm, rủi ro tín dụng, phân bổ ngân
quỹ cho rủi ro. Trong đó, đáng chú ý nhất là phương pháp xác định giá trị rủi
ro VaR. Phương pháp VaR được phát triển từ năm 1993 và hiện được các tổ
chức tài chính trên thế giới áp dụng rộng rãi. JP Morgan là tổ chức tài chính đi
tiên phong về ứng dụng và phát triển phương pháp này. Hiệp định Basel áp
dụng đối với các nước trong tổ chức G-10 đã coi VaR là nền tảng để xây dựng
nên hành lang pháp lý, tạo ra sân chơi thống nhất và bình đẳng cho các tổ
chức tài chính quốc tế. Các phương pháp sau VaR là sự kế thừa và mở rộng ý
tưởng của VaR được áp dụng phổ biến trong các tổ chức tài chính, ngân hàng
trên thế giới, trong đó có Công ty chứng khoán.
Trên thế giới đã có nhiều khoa học như Martin Barnes, D.F. Cooper,
D.H. MacDonald và C.B.Chapman, H.Ren, He Zhi,… đóng góp thành tựu to
lớn trong quá trình nghiên cứu về rủi ro và quản lý rủi ro (QLRR). Đồng thời,

theo quan điểm nghiên cứu về rủi ro khi xảy ra, QLRR được xem xét trên
khía cạnh dự báo và có khả năng đề phòng được.
2.2. Nghiên cứu về rủi ro trong xây dựng
Nghiên cứu tại các nước phát triển trình độ cao
- Tại Hoa Kỳ: Ovidi Cretu và các tác giả, trong cuốn sách 285 trang,
nghiên cứu về QLRR cho thiết kế và xây dựng trình bày khái niệm về sự
không chắc chắn và rủi ro của dự án; phân tích rủi ro qua việc tác động của nó
đến kết quả của việc thực hiện dự án và giúp nhà quản lý dự án có thể lên kế
hoạch chuẩn bị để đối phó rủi ro dự án.
-Tại Anh: Nghiên cứu QLRR của Chapman, C.B. và Ward, Stephen, trong
cuốn sách nghiên cứu về quy trình, kỹ thuật và thông tin dự án trong QLRR dự án.
12


Tác giả nhận thấy rủi ro là những yếu tố gây sai lệch so với kế hoạch đề ra, đồng
thời trình bày chín giai đoạn QLRR của phương pháp luận là: định nghĩa, mục
tiêu, nhận định, cấu trúc, sở hữu, ước tính, đánh giá, khai thác và quản lý..
- Tại Pháp: Luis F.Alarcón và cộng sự, nghiên cứu rủi ro về chi phí và
tiến độ ảnh hưởng hoàn thành việc mở rộng kênh đào Panama. Nghiên cứu
chỉ ra rằng: vai trò khảo sát, thiết kế và sự không chắc chắn cố hữu có tầm
quan trọng này ở giai đoạn đầu của dự án.
- Tại Nhật Bản: Các cộng sự nghiên cứu về Luật xây dựng và thực tiễn
ở Nhật Bản so sánh với Hoa Kỳ. Chia sẻ rủi ro giữa chủ đầu tư và nhà thầu
được quy định chi tiết trong điều khoản hợp đồng chứ không phải như ở Hoa
Kỳ đòi hỏi phải chuyển tất cả các rủi ro từ nhà thầu sang chủ đầu tư.
- Tại Tây Ban Nha: M.Pilar de la Cruz và cộng sự, nghiên cứu nhằm
nâng cao hiệu quả quy trình quản lý dự án xây dựng do cơ quan công vụ Tây
Ban Nha gồm các bước xác định và phân tích các rủi ro, đồng thời, xác định
các phản ứng rủi ro tiềm ẩn.
Nghiên cứu tại các nước phát triển

- Tại Nga: Artem Aleshin, nghiên cứu vấn đề QLRR của các dự án quốc
tế và liên doanh với sự hợp tác của nước ngoài tại Nga. Tác giả đã xác định,
phân loại và đánh giá những rủi ro vốn có của các dự án chung ở Nga và đưa
ra các khuyến nghị thực tiễn cho việc QLRR.
- Tại Đài Loan: nghiên cứu rủi ro các dự án đường cao tốc ở Đài Loan.
Phân bổ rủi ro, xác định loại rủi ro ảnh hưởng đến quyết định xử lý rủi ro của
nhà thầu.
- Tại Singapore: Bon-Gang Hwang và cộng sự, cho rằng QLRR cần
được thực hiện trong các dự án xây dựng để đảm bảo đạt được mục tiêu của
dự án, bất kể quy mô dự án.
- Tại Hàn Quốc: J.W. Seo và Hyun Ho Choi, nghiên cứu phương pháp
đánh giá tác động an toàn dựa trên rủi ro cho các dự án xây dựng tàu điện
13


ngầm ở Hàn Quốc. Tác giả cho rằng sự an toàn của các công trình xây dựng
có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau như loại và quy mô dự án,
phương pháp thi công, quy trình quản lý an toàn, khí hậu, địa điểm…
Nghiên cứu mới tại các nước đang phát triển có điều kiện tương đồng
như Việt Nam
- Tại Malaysia: Cheng Siew Goh và cộng sự, nghiên cứu QLRR cho dự
án công cộng tại Malaysia thông qua các cuộc hội thảo. Tác giả chỉ ra rằng
việc lựa chọn các công cụ và kỹ thuật QLRR thích hợp là rất quan trọng để ra
quyết định đối phó tốt hơn.
- Tại Thái Lan: Sid Ghosh và Jakkapan Jintanapakanont, nghiên cứu rủi
ro các dự án cơ sở hạ tầng tại Thái Lan. Nghiên cứu xác định các biến số nguy
cơ quan trọng đối với một dự án đường sắt ngầm Chaloem Ratchamongkhon
tại Thái Lan.
- Tại Indonexia: Andreas Wibowo và Bernd Kochendorfer, nghiên cứu
các yếu tố rủi ro tài chính tại dự án ở đường Toll, Indonexia. Các kết quả mô

phỏng cho thấy rằng nhà tài trợ dự án trở nên tồi tệ hơn vì trì hoãn rủi ro thấp
hoặc trung bình.
Tổng quan các nghiên cứu trong nước
- Nguyễn Liên Hương, luận án tiến sĩ, nghiên cứu về rủi ro, quản trị rủi
ro của các doanh nghiệp xây dựng. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp gồm 3 giai đoạn: giai đoạn lập chiến lược và kế hoạch, giai đoạn tham
gia đấu thầu, giai đoạn thực hiện hợp đồng xây dựng sau khi trúng thầu.
- Đỗ Thị Mỹ Dung, luận án tiến sĩ, đã làm rõ các lý thuyết về rủi ro và
QLRR dự án đầu tư xây dựng. Nghiên cứu áp dụng phương pháp xác suất
thống kê phân tích tương quan để đánh giá mối liên hệ tương quan của một
biến đến các biến khác để đánh giá về các rủi ro sau khi đã nhận dạng chúng
và sử dụng phần mềm QLRR trong quá trình QLRR thi công cọc Barret.
- Trịnh Thùy Anh, luận án tiến sĩ, nghiên cứu cơ sở lý luận vê rủi ro,

14


QLRR đứng trên nhiều góc độ: chủ đầu tư, tư vấn, nhà thầu, cộng đồng để
thấy chủ thể chịu những rủi ro nào và gây ra các rủi ro nào. Và đề xuất ba giải
pháp QLRR hướng tới chủ thể QLRR là Nhà nước: Nhóm giảm nhẹ rủi ro;
QLRR dự án theo chu trình; Hệ thống QLRR.
- Thân Thanh Sơn, luận án tiến sĩ: nghiên cứu rủi ro trong hình thức
hợp tác công tư phát triển các dự án hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam.
Tác giả đã tổng hợp được 51 rủi ro cụ thể, đồng thời phân bổ rủi ro giữa Nhà
nước và tư nhân tham gia dự án dựa trên quan điểm rủi ro nên được quản lý
bởi bên có khả năng QLRR đó tốt nhất.
Tổng quan tình hình nghiên cứu có thể dẫn tới một số kết luận:
-

Rủi ro là khái niệm không còn mới, do đó những nghiên cứu về rủi ro rất

nhiều cả trong và ngoài nước, nhưng chủ yếu là rủi ro tài chính hay rủi ro
trong lĩnh vực ngân hàng. Riêng rủi ro về xây dựng đã bắt đầu có nhiều
nghiên cứu hơn.

-

Nghiên cứu về quản trị rủi ro còn mang tính bị động, thường dựa vào rủi ro có
sẵn mang rời rạc chứ chưa được nghiên cứu ở cấp độ chiến lược.
Việc nghiên cứu rủi ro và quản trị rủi ro dưới góc độ đảm bảo an ninh
doanh nghiệp đã bắt đầu được đề cập nhưng còn rất ít.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Với nội dung nghiên cứu như trên, tác giả đặt ra các câu hỏi nghiên cứu
như sau:

-

Trong lĩnh vực thiết kế, thi công nội thất doanh nghiệp thường gặp phải
những rủi ro gì?

-

Tác động và khả năng xảy ra của rủi ro được đo lường như thế nào?

-

Công ty Cổ phần Nội thất thông minh Xhome Việt Nam nên sử dụng quy
trình quản trị rủi ro nào cho doanh nghiệp.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: là xây dựng quy trình quản trị rủi ro để đảm bảo phát
triển bền vững cho Công ty Cổ phần Nội thất thông minh Xhome Viet Nam

15


Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu:
-

Tổng quan nghiên cứu quản trị rủi ro, quy trình quản trị rủi ro, quản trị rủi ro
trong thiết kế và thi công nội thất.

-

Xác lập cơ cở lý luận về quy trình quản trị rủi ro để đảm bảo phát triển bền
vững doanh nghiệp thiết kế và thi nội thất.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là quy trình quản trị rủi ro để đảm bảo phát triển
bền vững
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: nghiên cứu quy trình quản trị rủi ro ở cấp độ doanh
nghiệp, ko nghiên cứu ở cấp độ ngành hay quốc gia. Mục đích của xây dựng
quy trình quản trị rủi ro là nhằm đảm bảo phát triển bền vững doanh nghiệp,
các mục tiêu khác như lợi nhuận, thị phần, sự hài lòng của nhân viên/khách
hàng được coi là mục tiêu tham chiếu cho mục tiêu chính là đảm bảo an ninh
doanh nghiệp.
Phạm vi không gian: tại Công ty Cổ phần Nội thất thông minh Xhome
Việt Nam.
Phạm vi thời gian: nghiên cứu thực trạng của Xhome trong giai đoạn
2015-2017, dữ liệu khảo sát vào năm 2018, giải pháp tới năm 2021 và định
hướng tới năm 2030.
6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
6.1.1. Thu thập dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp được thu thập chủ yếu bằng phương pháp desk data
(thu thập dữ liệu tại bàn). Các nguồn dữ liệu này bao gồm:

(1) Các lý thuyết nền tảng liên quan đến chủ đề nghiên cứu như hoàn thiện quy

trình, QTRR, rủi ro trong thiết kế và thi công nội thất…;
16


(2) Các nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế về chủ đề này
(3) Các bài báo, tài liệu hội thảo trong và ngoài nước.

Việc nghiên cứu dữ liệu thứ cấp sẽ giúp học viên hoàn thiện được mô
hình nghiên cứu và phát triển được các giả thuyết nghiên cứu về hoàn thiện
quy trình, quản trị rủi ro, rủi ro trong doanh nghiệp thiết kế và thi công nội
thất (xây dựng), làm căn cứ cho việc kiểm định tại chương thực trạng và đề
xuất các giải pháp.
6.1.2. Thu thập dữ liệu sơ cấp
a/ Bằng phiếu khảo sát
Để kiểm định các giả thuyết nêu ra từ mô hình nghiên cứu, tác giả sẽ
thiết kế và phát một phiếu hỏi định lượng tới các đối tượng khảo sát. Phiếu
khảo sát sẽ bao gồm các thông tin chung về nghiên cứu, các câu hỏi xoay
quanh vấn đề hoàn thiện quy trình quản trị rủi ro nhằm đảm bảo an ninh
doanh nghiệp theo những căn cứ nghiên cứu đã đề xuất, và những nội dung
thu thập thêm từ người trả lời.
Thang đo: Thang Likert từ 1 đến 5 sẽ được sử dụng cho đa số các câu
hỏi trong phiếu hỏi định lượng với 5 tương ứng với mức “cao nhất” và 1
tương ứng với mức “thấp nhất”.

Đối tượng khảo sát: sẽ là ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Xhome.
Số lượng phiếu dự kiến sẽ phát ra tầm 150 phiếu và thu về từ 70-100 phiếu
với tỷ lệ phiếu hợp lệ tầm 50-80 phiếu.
Thiết kế phiếu điều tra: Phiếu điều tra được thiết kế cho phù hợp với
các mục tiêu của luận văn và khung lý thuyết một cách ngắn gọn, rõ ràng.
Quy trình thiết kế như sau:
-

Dựa vào mục tiêu và khung lý thuyết nghiên cứu để xác định các thông tin
cần: các nhân tố, biến số và các thước đo;

-

Xác định loại câu hỏi;

-

Xác định nội dung của từng câu hỏi;

17


-

Xác định từ ngữ sử dụng cho từng câu hỏi;

-

Xác định tính logic cho các câu hỏi;


-

Dự thảo phiếu điều tra;

-

Tổ chức seminar tại bộ môn về bảng hỏi để chỉnh sửa;

-

Nộp phiếu điều tra cho giảng viên hướng dẫn;

-

Giảng viên hướng dẫn kiểm tra, chuẩn chỉnh lại và đồng ý cho triển khai điều
tra;
Nội dung cơ bản của phiếu điều tra:

-

Giới thiệu về đề tài: tên tác giả, tên đề tài, nội dung chính cần khảo sát.

-

Giải thích từ ngữ cần thiết cho điều tra: hoàn thiện quy trình; rủi ro, quản trị
rủi ro, quản trị rủi ro xây dựng.

-

Đánh giá rủi ro và ảnh hưởng của từng loại rủi ro đang tồn tại trong Xhome

theo 02 tiêu chí khả năng xảy ra và tác động.

-

Thông tin cá nhân của khách hàng: giới tính, tuổi, nghề nghiệp, thu nhập bình
quân/tháng
b/ Khảo sát thử và tư vấn chuyên gia
Trước khi được phát rộng rãi tới mẫu khảo sát, tác giả sẽ phát phiếu tới
05 người trả lời phiếu, để đánh giá sơ bộ xem các câu hỏi đặt ra có dễ hiểu
không, cần bổ sung hoặc loại bổ những câu hỏi nào. Đồng thời tác giả cũng sẽ
gửi phiếu hỏi cho các chuyên gia, giảng viên về quản trị để tham vấn và hoàn
thiện phiếu khảo sát.
6.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
Phương pháp định lượng: Tác giả sẽ sử dụng phần mềm excel để phân
tích các dữ liệu đã thu thập được. Mục đích của phân tích định lượng là xác
định được khả năng xảy ra và tác động của từng rủi ro trong công ty. Từ đó,
căn cứ vào mô hình để lựa chọn quy trình quản trị rủi ro để tác giả đưa ra đề
xuất phù hợp cho công tác quản trị rủi ro của Xhome
Phương pháp định tính: song song với phương pháp định lượng, luận
18


văn cũng sử dụng những phương pháp định tính như so sánh, phân tích, đánh
giá nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục; phần nội
dung của luận văn được chia thành 03 chương:
-

Chương 1: Lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tại doanh nghiệp.


Chương 2: Thực trạng công tác quản trị rủi ro tại Công ty Cổ phần Nội thất
thông minh Xhome Việt Nam.

-

Chương 3: Đề xuất hoàn thiện quy trình quản trị rủi ro cho Công ty Cổ phần
Nội thất thông minh Xhome Việt Nam.

19


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI
DOANH NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Rủi ro và Quản trị rủi ro
1.1.1.1. Rủi ro
Đối với một cá nhân thì rủi ro được hiểu là bất kỳ một sự kiện, hành
động, hay tác động nào có thể ảnh hưởng hay ngăn cản cá nhân đạt được các
mong muốn hợp lệ.
Đối với một tổ chức hay doanh nghiệp thì rủi ro được hiểu là bất kỳ sự
kiện hay hành động nào có thể tác động hoặc ngăn cản doanh nghiệp trong
việc đạt được các mục tiêu đã đề ra (Hoàng Đình Phi, 2016).
Rủi ro theo trường phái tiêu cực:
Rủi ro được coi là sự không may, sự tổn thất, mất mát, nguy hiểm.
Thuộc trường phái này, ta có thể thấy các định nghĩa:
Theo Từ điển Tiếng Việt do trung tâm từ điển học Hà Nội xuất bản năm
1995: “Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến”.
Theo cố GS. Nguyễn Lân: “Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không
may”. (Từ điển và ngữ Việt Nam, năm 1998, tr. 1540).

Theo từ điển Oxford: “Rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm, hoặc bị đau
đớn, thiệt hại…”
Khác số từ điển khác lại đề cập tương tự: “Rủi ro là sự bất trắc, gây ra
mất mát, hư hại”, “Rủi ro là yếu tố liên quan đến nguy hiểm, sự khó khăn
hoặc điều không chắc chắn”.
Trong lĩnh vực kinh doanh: “Rủi ro là sự tổn thất về tài sản hay là sự
giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến”. “Rủi ro là những bất trắc
ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp,
tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp”.
20


Tóm lại, theo cách nghĩ truyền thống: “Rủi ro là những thiệt hại, mất
mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều
không chắc chắn có thể xảy ra cho con người”.
Thực tế cho thấy: Chúng ta đang sống trong một thế giới mà rủi ro luôn
tiềm ẩn và ngày càng tăng theo nhiều hướng khác nhau. Xã hội loài người
càng phát triển, hoạt động của con người ngày càng đa dạng, phong phú và
phức tạp thì rủi ro cho con người ngày càng nhiều và đa dạng hơn. Mỗi ngày
qua lại xuất hiện thêm những loại rủi ro mới, chưa từng có trong quá khứ.
Con người cũng quan tâm đến việc nghiên cứu rủi ro, nhận dạng rủi ro và tìm
các biện pháp quản trị rủi ro. Trong quá trình nghiên cứu đó, nhận thức của
con người về rủi ro cũng thay đổi, trở nên khoan dung, trung hòa hơn.
Rủi ro theo trường phái trung hòa:
Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được” (Frank Knight).
Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến việc xuất hiện những biến cố
không mong đợi” (Allan Willett).
“Rủi ro là một tổng hợp những ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng
xác suất” (Irving Prefect).
“Rủi ro là giá trị và kết quả mà hiện thời chưa biết đến”.

Diễn giả một cách đầy đủ hơn về rủi ro và nguy cơ rủi ro, trong cuốn
“Risk management and insurance”, các tác giả C. Arthur William, Jr. Micheal,
L. Smith đã viết: “Rủi ro là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả. Rủi ro có
thể xuất hiện trong hầu hết mọi hoạt động của con người. Khi có rủi ro, người
ta không thể dự đoán được chính xác kết quả. Sự hiện diện của rủi ro gây nên
sự bất định. Nguy cơ rủi ro phát sinh bất cứ khi nào một hành động dẫn đến
khả năng được hoặc mất không thể đoán trước”.
Theo David Apgar: “Rủi ro là bất cứ điều gì không chắc chắn có thể
ảnh hưởng tới các kết quả của chúng ta so với những gì chúng ta mong đợi”
(Risk Intelligence: Learning to Manage What We Don’t Know, 2006).
21


Như vậy, theo trường phái trung hòa, rủi ro là sự bất trắc có thể đo
lường được. Rủi ro có tính 2 mặt: vừa tích cực, vừa tiêu cực. Rủi ro có thể
gây ra những tổn thất, mất mát, nguy hiểm, … Nhưng chính rủi ro có thể
mang đến cho con người những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, nhận
dạng, đo lường rủi ro, quản trị rủi ro, người ta không chỉ tìm ra được những
biện pháp phòng ngừa, né tránh mà còn có thể “lật ngược tình thế”, biến thủ
thành công, biến bại thành thắng, biến thách thức thành những cơ hội, mang
lại kết quả tốt đẹp trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả nghiêng về trường phái
trung hòa“Rủi ro là những sự kiện ngoài mong đợi, tuy nhiên, con người
có thể biến rủi ro thành cơ may”.
Cũng theo tác giả Hoàng Đình Phi (2016), rủi ro có thể phân thành
những loại như sau:
(1) Phân loại theo lĩnh vực:
- Chính trị, chính sách, luật pháp, kinh tế, văn hóa, kinh doanh, tài
chính, ngân hàng…
- Các rủi ro từ môi trường thiên nhiên…

(2) Phân loại theo cấp độ: Rủi ro mức độ từ thấp đến cao.
- Có thể phân loại và thể hiện theo màu sắc: từ màu vàng đến màu cam
và màu đỏ. Thang màu sử dụng: Trung bình (màu vàng); Cao (màu cam); Rất
cao (màu đỏ)
- Có thể đánh giá theo thang điểm từ thấp đến cao: 1-10
(3) Phân loại theo các chức năng quản trị của tổ chức hay doanh nghiệp:
- Các rủi ro về chiến lược, nguồn nhân lực, tài chính, công nghệ, sản
xuất, marketing, bán hàng…
- Các rủi ro từ nội bộ, các rủi ro từ ngành công nghiệp, từ môi trường
bên ngoài…
1.1.1.2. Rủi ro trong doanh nghiệp thiết kế và thi công nội thất
22


Theo Cooke and Williams (2004) rủi ro trong xây dựng thường cao nhất ở
giai đoạn đầu của dự án khi bắt đầu quá trình mua sắm. Có rất nhiều tuyến mua
sắm mà các doanh nghiệp xây dựng sử dụng với những sự cân bằng về rủi ro đối
với khách hàng hay nhà thầu khác nhau. Ví dụ như thiết kế và xây dựng dựa theo
yêu cầu khách hàng sẽ coi trọng rủi ro từ phía khách hàng và giai đoạn thiết kế;
trong khi vấn đề tài chính của nhà thầu hoặc PFI (Private finance initiative Sáng kiến tài chính tư nhân trong Hợp tác công-tư) thì thường coi trọng rủi ro
của nhà thầu thông qua các giai đoạn thiết kế và xây dựng.
Các loại rủi ro thường có đối với những doanh nghiệp xây dựng:
Rủi ro của khách hàng
Rủi ro của khách hàng là thường xoay quanh vấn đề thời gian, chi phí
và chất lượng. Các cân nhắc về quản lý rủi ro cho khách hàng có thể bao gồm:
-

Rủi ro trong tính khả thi - quyết định tiếp tục ủng hộ một điển hình kinh
doanh, xem xét các lựa chọn và đưa ra giải pháp ưu tiên.


-

Rủi ro thiết kế - quyết định mức độ kiểm soát để việc tiếp tục phải thiết kế
theo yêu cầu khách hàng.

-

Rủi ro kinh phí - đảm bảo có đủ tiền để trả cho nhà thầu và tránh nguy cơ mất
khả năng thanh toán của nhà thầu.

-

Rủi ro thương mại - ảnh hưởng đến thu nhập và lợi nhuận nếu tài sản mới (tòa
nhà) không bán được theo thời gian, do chi phí hoặc do chất lượng.
Rủi ro của chủ đầu tư
Rủi ro của nhà thầu sẽ là việc không lựa chọn đúng chủ đầu tư có năng
lực, có uy tín; có thể gây ra ảnh hưởng tới chất lượng, tiến độ thực hiện của
các công trình, dự án. Mối quan hệ giữa chủ đầu tư và nhà thầu luôn được
quản lý chặt chẽ bởi hợp đồng, điều này phần nào hạn chế được rủi ro cho nhà
thầu. Nhưng cũng có nguy cơ liên quan tới việc đội giá khi giá nguyên vật
liệu đầu vào tăng cao. Rủi ro này có thể được ngăn ngừa bằng việc tạm ứng
một tỷ lệ phù hợp để nhà thầu có thể dự trữ được nguyên nhiên vật liệu sản
23


xuất phòng ngừa tăng giá, đồng thời đẩy nguy cơ đội giá sang phía chủ đầu
tư. Ngược lại, nếu chủ đầu tư tạm ứng quá ít mà thời gian thi công kéo dài thì
việc đội giá là không thể tránh khỏi do giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng
quá nhiều khiến cho nhà thầu không thể đảm bảo được chất lượng và tiến độ
nếu không được trợ giá từ chủ đầu tư. Bên cạnh đó, bằng kinh nghiệm và thực

tế làm việc, nhà thầu sẽ có được những lựa chọn chủ đầu tư phù hợp, có năng
lực vốn tốt, có uy tín để đảm bảo những rủi ro về đội giá sẽ được hạn chế ở
mức tối thiểu.
Về phía các nhà thầu thi công, rủi ro lớn nhất là ở giai đoạn đấu thầu
khi có cam kết về giá và thời gian. Tiền bảo lãnh có thể bị mất nếu số lượng
không chính xác. Nhà thầu phụ không chịu nổi do báo giá và công việc có thể
đắt hơn ước tính nếu lựa chọn phương pháp xây dựng không phù hợp hoặc do
biến động giá theo thời gian.
Rủi ro về Sức khoẻ và An toàn
Thống kê cho thấy trung bình hai người chết mỗi tuần trên các công
trình, nhưng 90% số người chết có thể tránh được (Cooke & Williams, 2004,
p83). Rủi ro về sức khoẻ và an toàn được quản lý thông qua các quy định
pháp luật trực tiếp và gián tiếp liên quan đến xây dựng (Quy chế Quản lý và
thiết kế, 1994; Quy chế xây dựng - Y tế, An toàn và Phúc lợi - năm 1996).
Một kế hoạch về vấn đề sức khoẻ và an toàn là cần thiết và là phương tiện
truyền thông vô cùng quan trọng cho tất cả các dự án (trừ một số dự án rất
nhỏ). Bộ luật Các quy tắc thực hiện được thông qua (HSE, 2001) đưa ra
hướng dẫn liên quan đến nội dung của kế hoạch an toàn và sức khoẻ và giải
thích trách nhiệm của những người có các nghĩa vụ theo quy định.
Rủi ro cháy nổ trong các dự án xây dựng
Nguy cơ cháy nổ luôn luôn xuất hiện trên các công trình xây dựng và
các quy định về Xây dựng (Y tế, An toàn và Phúc lợi) năm 1996 yêu cầu các
nhà thầu áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa nguy cơ thương tích do hỏa
24


hoạn, cung cấp và duy trì các thiết bị phòng cháy và hướng dẫn người sử dụng
thiết bị. Hợp đồng cung cấp bảo hiểm cho các công trình trong quá trình xây
dựng bao gồm cả hỏa hoạn. Một Bộ luật Thực hành Chung, Phòng Cháy Cứu
hỏa trên các địa điểm xây dựng quy định rằng một nhà thầu chính phải xây

dựng một kế hoạch an toàn hỏa hoạn. Tuân thủ quy định là điều khoản trong
một số hợp đồng tiêu chuẩn được sử dụng trong ngành xây dựng.
1.1.1.3. Quản trị rủi ro
Theo tác giả Hoàng Đình Phi (2015), Quản trị rủi ro của tổ chức và DN
là các quy trình mà ở đó những người có trách nhiệm tiến hành mọi hoạt động
và sử dụng mọi công cụ có thể để nghiên cứu, dự báo, hoạch định và thực thi
các chiến lược và các kế hoạch để phòng ngừa các rủi ro và ứng phó với các
khủng hoảng để đảm bảo duy trì được khả năng cạnh tranh bền vững hay sự
phát triển bền vững của tổ chức hay doanh nghiệp.
Cùng với quản trị rủi ro thì quản trị khủng hoảng của tổ chức và doanh
nghiệp là các quy trình mà ở đó những người có trách nhiệm xây dựng và
thực thi các kế hoạch để ứng phó với các khủng hoảng để đảm bảo doanh
nghiệp có thể vượt qua được khủng hoảng.
Bên cạnh đó, khái niệm về Quản trị công ty (corporate governance) hay
năng lực quản trị công ty là tổng hợp các khả năng/năng lực của các cổ đông
trong việc phát triển bền vững DN. Quản trị công ty tốt hay không tốt phụ
thuộc vào các quy trình và năng lực của tất cả các thành viên hội đồng quản
trị do các cổ đông bầu ra theo nhiệm kỳ.

25


×