Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và ứng dụng trong việc phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.71 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xuất phát từ tính cấp thiết, ý nghĩa thực tiễn của nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong
cuộc sống, đặc biệt ngày nay vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề vô cùng
nhức nhối và được mọi người quan tâm, em chọn “Phép biện chứng về mối liên hệ
phổ biến và ứng dụng trong việc phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với bảo vệ môi trường sinh thái” làm đề tài cho bài tiểu luận của mình.
Mục đích của tiểu luận là góp phần làm rõ lý thuyết và thực tiễn của phép biện chứng
về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái.
Để đạt được mục đích nói trên, nhiệm vụ của tiểu luận là:
1. Phân tích phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến.
2. Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh
thái.
Tiểu luận tập trung nghiên cứu các đối tượng: phép biện chứng, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến.
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm hai
phần:
Một là Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến.
Hai là Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
sinh thái.

PHẦN NỘI DUNG
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Biện chứng và phép biện chứng
1.1.
Biện chứng là gì?
Biện chứng là khái niệm chỉ sự liên hệ, vận động, chuyển hóa và phát triển của các sự
I.

vật, hiện tượng trong cuộc sống.
1




1.2. Phép biện chứng
1.2.1. Khái niệm:
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu biện chứng của tự nhiên, xã hội và tư duy,
khái quát thành hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù khoa học.
1.2.2. Các hình thức phép biện chứng:
Phép biện chứng gồm hai hình thức:
a, Phép biện chứng duy tâm: là học thuyết nghiên cứu biện chứng của thế giới tinh
thần với tư cách là cái có trước sinh ra biện chứng của thế giới vật chất, khái quát
thành hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù khoa học.
b, Phép biện chứng duy vật:


Khái niệm phép biện chứng duy vật: là học thuyết nghiên cứu biện chứng của thế giới
vật chất với tư cách là cái có trước sinh ra biện chứng của thế giới tinh thần, khái quát
thành hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù khoa học nhằm xác lập một hệ thống

các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
• Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau
đây:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện
chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc trưng
này, phép biện chứng duy vật không chỉ có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng
duy tâm cổ điểm Đức, đặc biệt là với phép biện chứng của Hêghen, mà còn có sự khác
biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử
triết học từ thời cổ đại.
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự thống nhất
giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy

vật, do đó nó khoong chỉ dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận
thức và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lí, quy luật trong phép biện chứng duy vật của
2


chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ là sự giải thích đúng đắn về tính biện chứng của thế
giới mà còn là phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và cải tạo thế giới.
2.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm
mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật,
hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên
hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của

-

phép biện chứng.
2.2. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế
giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và làm chuyển
hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của
nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể

-


nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thưc tiễn của mình.
Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào
tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trính khác. Đồng thời, cũng
không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trucsheej thống, bao
gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một
tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với

-

hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ
3


Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ khẳng định tính
khách quan, phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng
của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ:
các sự vật, hiện tượng và quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác
nhau, giữa vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác,
cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều kiện cụ
thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ
đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong nhưng điều kiện
không gian và thời gian cụ thể.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến rút ra quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần

phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động
qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ trên cơ sở đó
mới có thể nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả các vấn đề của
đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện,
siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
V.I.Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.

4


II. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN ĐỂ PHÂN
TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI.
1. Vấn đề tăng trưởng kinh tế
1.1. Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản lượng quốc dân (GNP) trong một thời gian nhất định. Nó thể hiện sự thay đổi
về số lượng, chất lượng, quy mô của một nền kinh tế theo chiều hướng đi lên. Tăng
trưởng kinh tế dài hạn là điều kiện tiên quyết tạo nên những tiến bộ về kinh tế - xã hội,
nhất là ở các nước đang phát triển. Chính vì vậy, tăng trưởng kinh tế đang được xem là
nhiệm vụ cấp thiết quan trọng nhất ở hầu hết các quốc gia.
1.2. Các hoạt động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, kể từ năm 1986, Việt Nam
bước vào công cuộc đổi mới. Nó được tiến hành toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung,
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Để đất nước có thể hội nhập với thế giới, chính
phủ đã và đang đẩy mạnh các chính sách như khuyến khích đầu tư trong nước và nước

ngoài, đầu tư phát triển khoa học công nghệ, chính sách thương mại tự do... Từ đó thu
được những thành quả không nhỏ cho công cuộc phát triển kinh tế.
2. Môi trường sinh thái
2.1. Khái niệm
Sinh thái được hiểu là nhà ở, nơi cư trú, sinh sống trong khi môi trường là một tổ
hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài của một hệ thống nào đó. Qua
đó có thể hiểu môi trường sinh thái là “bao gồm tất cả những điều kiện xung quanh có

5


liên quan đến sự sống”. Đối với con người, môi trường sinh thái là toàn bộ các điều
kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ, có mối liên hệ tới sự sống của con người,
sự tồn tại và phát triển của xã hội.
2.2. Tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường sinh thái
Môi trường cung cấp cho ta không gian để sống, nguồn tài nguyên để sản xuất
và cũng chính là nơi chứa đựng rác thải. Vì vậy, bảo vệ môi trường cũng là bảo vệ
sự sống của chúng ta. Bảo vệ môi trường sinh thái là giữ cho môi trường luôn
trong lành, sạch đẹp, đảm bảo cân bằng sinh thái, cải thiện môi trường, đồng thời
ngăn chặn, khắc phục hậu quả xấu do con người và thiên nhiên tạo ra, khai thác và
sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên. Đây chính là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách của
mỗi quốc gia, là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của bất kì tổ chức, cá nhân
nào. Có bảo vệ tốt thì cuộc sống chúng ta mới phát triển tốt đẹp bền vững và lâu dài.
3. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái thông qua
phép biện chứng
3.1. Mối liên hệ
Giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường luôn có mối quan hệ tác động qua lại
lẫn nhau, đó chính là mối quan hệ biện chứng bao gồm hai mặt thống nhất và mâu
thuẫn.
Tăng trưởng kinh tế được sinh ra, tồn tại và phát triển hoàn toàn phụ thuộc vào con

người nên nó là cái tồn tại chủ quan. Trong khi đó, môi trường sống sinh ra và tồn tại
trong tự nhiên, tồn tại một cách khách quan độc lập với ý thức của con người. Tuy
nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái lại phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người,
con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm môi trường tốt lên hay xấu đi.
Môi trường chịu tác động của con người, tăng trưởng kinh tế cũng phụ thuộc vào con
người, do đó có thể nói môi trường chịu tác động của tăng trưởng kinh tế và ngược lại.
6


Hai yếu tố này thống nhất với nhau về mục đích trong quá trình phát triển một chỉnh
thể là tự nhiên - xã hội. Điều đó được thể hiện qua một số khía cạnh như sau:
• Về tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên: nước giàu và nghèo có sự chênh lệch
về việc nhìn nhận mức độ tiêu dùng nguồn tài nguyên. Cụ thể, đối với nước giàu thì sự
phát triển kinh tế bền vững phải gắn với cắt giảm đáng kể mức độ tiêu dùng lãng phí
về năng lượng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong khi nước nghèo chỉ chú tâm
vào việc khai thác để xuất thô một cách cạn kiệt. Phát triển kinh tế giúp nâng cao đời
sống người dân đồng thời cũng nâng cao nhận thức con người, ý thức bảo vệ môi
trường tăng lên.
• Về bầu khí quyển: tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho con người tạo nên những
máy móc, công cụ sản xuất ít gây ảnh hưởng đến môi trường. Các khu công nghiệp
đang cố gắng giảm thiểu lượng khí thải bay vào bầu khí quyển. Nhiều nhà máy, khu
xử lí rác thải được xây dựng cũng góp phần không nhỏ vào công cuộc bảo vệ môi
trường.
• Về môi trường nước: kinh tế càng phát triển, hệ thống xử lí nước sạch càng hiện đại,
máy móc xử lí rác thải giúp giảm lượng rác đổ ra biển, hồ, sông…Kinh tế phát triển,
nguồn nước cũng được bảo vệ an toàn. Như vậy, xét về một khía cạnh nào đó thì phát
triển kinh tế đã tác động tích cực đến bảo vệ môi trường.
Ngược lại, môi trường sinh thái trong lành, ổn định cũng là điều kiện, cơ sở và động
lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế vì: Môi trường sinh thái trong lành giúp con
người cảm thấy thoải mái, hưng phấn trong cuộc sống, đảm bảo sức khoẻ tốt cũng là

cách để làm việc hiệu quả. Bảo vệ môi trường sinh thái tạo nên môi trường sống ổn

7


định, phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng chính là phát triển nền
kinh tế lâu dài.
Từ đó, có thể thấy sự phát triển kinh tế xã hội một cách tiến bộ khi có sự kết hợp hài
hoà giữa hai mục tiêu là phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Mặc dù vậy,
thực trạng đang dần chứng tỏ mặt mâu thuẫn trong mối liên hệ của hai vấn đề trên.
Trên thế giới, nền kinh tế đang phát triển chóng mặt, chính điều đó kéo theo nhiều hệ
luỵ xấu và mối hiểm hoạ đến môi trường. Tài nguyên không phải là vô hạn, nếu chỉ
tăng trưởng kinh tế mà không cải tạo môi trường thì sẽ đến lúc tăng trưởng phải dừng
lại do sự suy thoái của môi trường. Đó cũng là lúc con người phải gánh chịu hậu quả
do chính họ gây ra. Ngược lại nếu tăng trưởng kinh tế đồng hành với bảo vệ môi
trường thì không những đời sống con người ngày càng được cải thiện mà chính môi
trường cũng được cải thiện do khi nền kinh tế phát triển ngân sách cho những dự án
bảo vệ sinh thái tăng lên, nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ dần được thay thế bằng
những nguồn tài nguyên mới do con người tự tạo nên.
3.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường
Hiện nay, môi trường đang là vấn đề nóng của toàn nhân loại. Thực trạng cho
thấy, khí hậu ngày càng khắc nghiệt, khó đoán, mưa bão lũ quét thất thường.
Con người đã tác động quá nhiều đến môi trường sinh thái. Thiên nhiên ban tặng
cho con người nhiều thứ nhưng bản thân chúng ta không biết giữ gìn mà đang tự
tay huỷ hoại chúng. Những số liệu càng chứng minh tính thuận chiều của tăng trường
kinh tế và suy thoái môi trường:
¬ Trong gần 20 năm thực hiện chủ trương chính sách đổi mới, Việt Nam gặt hái không
ít thành tựu kinh tế: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trung bình hơn 7%/năm.
Trong công nghiệp, tăng trưởng công nghiệp từ xuất phát điểm chỉ có 0,6% năm 1980
8



tăng lên đến 6,07% năm 1990 và giai đoạn 1991-2000 tăng lên trung bình 12,9%/năm,
trong đó thời kỳ 1991-1995 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 17%/năm. Tỷ trọng
công nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từ mức 22,7%
GDP năm 1991 tăng lên 36,6% năm 2000.
¬ Chất thải rắn của nền công nghiệp là một mối đe dọa lớn với môi trường.Trong quá
trình sản xuất và chế biến các loại kim loại như đồng, niken, kẽm, bạc, vàng…, các
kim loại nặng như chì, asen, crom, đồng và kẽm bị thải ra môi trường. Việc quản lí
chất thải rắn lại gặp nhiều khó khăn, do không có đủ kho chứa đủ tiêu chuẩn để lưu
giữ

các

chất thải độc hại trước khi xử lí, không có nhà máy xử lí chất độc. Ngoài ra, quá trình
công nghiệp còn thải ra một lượng nước thải khá lớn. Khu công nghiệp Thái Nguyên
thải nước, biến sông Cầu thành màu đen, mặt nước sủi bọt trên chiều dài hàng chục
cây số. Khu công nghiệp Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn mét khối nước thải của nhà
máy hoá chất, thuốc trừ sâu, giấy, dệt…xuống sông Hồng làm nước bị nhiễm bẩn đáng
kể. Như ở Trung Quốc, gần đây, ngày 13/1/2005, vụ nổ nhà máy hóa dầu ở thành phố
Cát Lâm (Trung Quốc) gây ô nhiễm sông Tùng Hoa với chất benzen, mức độ ô nhiễm
dầu gấp 50 lần mức độ cho phép. Không chỉ nước thải, khí thải là nhân tố không nhỏ
gây ô nhiễm môi trường. Những khí thải như CO 2, NOx, CH4, CFC,… ngày càng làm
ô nhiễm không khí. Ví dụ ở nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nồng độ bụi trung bình tại các
điểm đo đều vượt mức tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 6 lần. Tại nhà máy nhiệt điện
Uông Bí, nồng độ bụi đo được trong 1h từ 4 đến 4,7 mg/m3 , gấp 13 đến 16 lần trị số
cho phép. Nồng độ chất độc hại trong không khí xung quanh các nhà máy và khu công

9



nghiệp

đều

vượt

tiêu

chuẩn

cho

phép

1,5

đến

2,5

lần.

¬ Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng phát triển thì nhu cầu khai thác các
thành phần môi trường để làm nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất ngày càng
tăng. Quá trình này thể hiện mối liên hệ cơ bản giữa phát triển và môi trường đồng
thời cũng là một vấn đề nan giải. Việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến sự hao kiệt về tài nguyên, mất cân bằng sinh thái và suy giảm
chất lượng môi trường. Nạn khai thác gỗ trái phép gây ra sự suy nghiêm trọng độ che
phủ của rừng. Nếu như năm 1945 độ che phủ nước ta đạt 43% thì tính đến tháng 12

năm 2000 độ che phủ rừng chỉ còn 29,8% và đang ngày càng bị thu hẹp.
¬ Đối với nông nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn dựa vào
chủ yếu tài nguyên, nông sản và hàng sơ chế. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông lâm
thuỷ sản chiếm tới 63% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên đi đôi với sự gia tăng
này của các hoạt động sản xuất là khả năng gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường ngày
càng lớn. Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng từ nguồn tài nguyên không tái tạo được
và việc khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên có thể tái tạo nhằm phục vụ xuất khẩu
có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta trong tương lai. Mặt khác, các ngành
nông
nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi cũng có nhiều cơ hội để thâm canh, gia tăng sản lượng
dẫn đến việc phá huỷ tài nguyên thiên nhiên do khai thác, trồng trọt và chăn nuôi
không hợp lí. Để tăng sản lượng các loại rau, củ, quả… người nông dân thường phun
các loại chất kích thích, phân bón, thuốc trừ sâu… gây ô nhiễm nghiêm trọng đất và
nguồn nước ngầm.
10


¬ Trung Quốc hiện có 16 trong 20 đô thị ô nhiễm nhất trên thế giới; 4 đô thị tệ nhất
nằm ở vùng Đông Bắc giàu than đá (70% nhu cầu năng lượng của Trung Quốc lấy từ
than đá). Mưa acid chứa sunphur dioxide từ các nhà máy điện than đá thải ra rơi trên
1/4 lãnh thổ Trung Quốc, làm giảm năng suất mùa màng và xói mòn mọi công trình
xây dựng. Đất đai Trung Quốc cũng tàn lụi vì phát triển.
¬ Đối với ngành du lịch, năm 2001 toàn ngành du lịch nước ta đón hơn 2,3 triệu lượt
khách quốc tế, tăng gần 9% so với năm 2000, vượt kế hoạch 6%. Du lịch phát triển tạo
nhiều công ăn việc làm cho người dân đồng thời tăng thu nhập quốc gia. Tuy nhiên, nó
cũng kéo theo sự tác động đến môi trường về nhiều mặt. Nhiều diện tích đất đai bị
khai phá để xây dựng cơ sở hạ tầng như làm đường giao thông khách sạn, các khu thể
thao, các khu vui chơi giải trí. Điều đó gây phá hoại hoặc tổn thất tới cảnh quan thiên
nhiên, các hệ sinh thái. Sự phát triển du lịch còn tạo nên mối đe doạ như phá những
khu


rừng

ngập mặn để xây dựng khu du lịch, làm mất hoặc chia cắt nơi cư trú của các loài sinh
vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng, biển để sản xuất các sản phẩm phục vụ
khách du lịch như tiêu bản các loại thú rừng, hoa lan rừng, tắc kè, đồi mồi, san hô…
tại nhiều điểm du lịch của nước ta.Ngoài ra việc khai thác hải sản biển cũng đang ở
mức báo động. Đánh cá ven bờ giảm một cách đáng kể và số thuyền đánh cá đó tăng
lên một cách nhanh chóng do có sự khuyến khích của chính phủ. Việc khai thác dầu
không hợp lí cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm biển. Hậu quả để lại
đằng sau những con số trên quả thực không nhỏ, tạo hồi chuông cảnh tỉnh ý thức của
con người trong việc bảo vệ môi trường sinh thái cũng là bảo vệ cuộc sống của chính

11


mình. Trong nhiều thập kỉ qua, hiện tượng Trái Đất nóng lên đã mang lại nhiều tác
động tiêu cực: gây nên sự gia tăng mực nước biển, băng lùi về hai cực, những đợt bão,
lụt, hạn hán bất thường…Trận song thần ở Ấn Độ Dương năm 2004 cướp đi sinh
mạng 225000 người của 11 quốc gia, cơn bão Catrina đổ bộ vào Mỹ năm 2005 gây
thiệt hại hàng ngàn mạng người và ước tính 25 tỷ USD. Siêu bão đổ bộ vào Myanmar
năm 2008 là một thảm hoạ thiên nhiên tàn khốc với 220000 người thiệt mạng, thiệt hại
khoảng 200 tỷ USD và hàng triệu người rơi vào cảnh không nhà cửa. Một nghiên cứu
cho thấy sẽ có hơn 3 tỷ người thiếu lương thực năm 2100 do tình trạng nóng lên của
Trái Đất. Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường làm sức khoẻ con người xuống cấp trầm
trọng, phát sinh nhiều bệnh dịch nghiêm trọng. Theo dự tính của WHO, mỗi năm
có khoảng 865000 trường hợp

tử vong do ô nhiễm không khí.


Đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại giới hạn của sự tăng trưởng để biết dừng đúng
lúc,
đúng chỗ để giảm thiểu tối đa mối đe doạ đến chính cuộc sống của mình.
4. Giải pháp cho vấn đề cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Đảm bảo một sự cân bằng giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế với đòi hỏi bảo vệ các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và tái tạo môi trường, vừa đáp ứng được nhu cầu
sử dụng của thế hệ hiện tại trong tăng trưởng và phát triển, vừa không làm hại gì đến
nhu cầu và khả năng ứng dụng các nguồn tài nguyên của các thế hệ tương lai là một
yêu cầu bức thiết. Thực hiện sự phát triển “bình đẳng và cân đối” về tăng trưởng kinh
tế và bảo vệ môi trường sẽ chấm dứt tình trạng đi kèm với lợi nhuận tăng cao là cái giá
phải trả bằng tính mệnh của người dân bị đe doạ do ô nhiễm môi trường từ tăng trưởng

12


kinh

tế.

Thứ nhất, thay đổi nhận thức của các chủ thể kinh tế theo định hướng mới cần thiết về
phát triển kinh tế (cả cấp vĩ mô và vi mô) trong việc ngăn cản sự chuyển biến nhanh
những nhận thức về sinh thái trong hoạt động kinh tế, chấm dứt cách tư duy: một nền
kinh tế hài hòa với môi trường sẽ làm thiệt hại đến mục tiêu lợi nhuận, tăng trưởng
kinh tế thật cao là vấn đề trọng tâm cần làm trước còn việc bảo vệ môi trường thì sẽ
thực hiện sau.
Thứ hai, việc đưa các vấn đề môi trường vào trong quá trình lập kế hoạch phát triển
quốc gia nói chung, trong phát triển kinh tế nói riêng phải được coi là một trong những
giải pháp quan trọng để vượt qua thách thức về môi trường; cần sớm đưa bảo vệ môi
trường thành một ngành kinh tế, thành chính sách kinh tế điều tiết hoạt động phát
triển. Đó vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền

vững.
Thứ ba, giảm thiểu giới hạn mâu thuẫn giữa hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái
thông qua việc thích ứng mục tiêu kinh tế và cách thức tác động nó vào nhu cầu sinh
thái. Khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên trong hệ thống tự nhiên, hệ sinh thái
sử dụng trên nguyên tắc bảo vệ và phát triển bền vững. Phát hiện và khuyến khích mục
tiêu hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường bằng cách sử dụng công
nghệ mới, thực hiện chuyển giao công nghệ, thực hiện công nghệ “xanh và sạch”…
trong hoạt động kinh tế. Cụ thể, nhất là đối với những nước đang phát triển, chúng ta
cần có nhiều biện pháp thắt chặt quản lí và thực hiện nghiêm túc luật môi trường trong
13


hoạt

động kinh

14

tế.


PHẦN KẾT LUẬN
Từ những vấn đề đưa ra nghiên cứu ở trên, chúng ta đã nhận ra được tính cấp bách của
vấn đề cân bằng tăng trưởng kinh tế với việc bảo vệ môi trường, để từ đó có những
nhận thức và hành động đúng đắn điều chỉnh nền kinh tế đi đúng hướng nhằm phát
triển bền vững lâu dài. Và hướng đi đó xuất phát từ chính mối liên hệ thống nhất giữa
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Chúng ta bảo vệ môi trường không nhằm
mục đích hạn chế sự tăng trưởng của nền kinh tế mà là tạo nên một tương lai tốt đẹp
hơn cho đất nước, cho những thế hệ mai sau.
Hy vọng trong tương lai gần thế giới sẽ có sự quan tâm đúng mực đến môi

trường, cùng những chính sách tiến bộ và biện pháp đúng đắn. Chất lượng cuộc sống
con người chắc chắn sẽ được cải thiện tốt đẹp lên nếu biết kết hợp hài hoà hai yếu
tố môi trường và kinh tế.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử ĐCSVN: www.cpv.org.vn
2. Giáo trình “Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin”. (NXB
Chính Trị Quốc Gia năm 2016)
3. Tạp chí Cộng Sản online: www.tapchicongsan.org.vn
4. Tạp chí online:

16



×