Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.76 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỉ thứ 21 đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của loài người trên nhiều
lĩnh vực, những phát minh, sáng chế, những bước ngoặt làm thay đổi toàn bộ thế giới.
Kinh tế các nước liên tục đi lên, xã hội ngày càng giàu có về của cải vật chất, hàng loạt
cơ hội được mở ra cho con người. Đến thời đại này, khi nhận thức đã tăng cao, khi các
nhu cầu thiết yếu đã được đáp ứng đầy đủ, chúng ta bắt đầu quan tâm tới một vấn đề
lớn hơn, cao hơn: chất lượng cuộc sống và sự văn minh của cộng đồng, của xã hội.
Sau cả thiên niên kỉ, sau hàng loạt hình thức xã hội luôn tồn tại sự thống trị lẫn
nhau giữa các giai cấp, giờ đây loài người đang hướng tới một hình ảnh lí tưởng: một
xã hội dân chủ, văn minh, bình đẳng. Sự phát triển kinh tế đã đảm bảo những nhu cầu
vật chất của con người, để con người tiến tới xây dựng những giá trị cao đẹp hơn. Tuy
nhiên, một thực trạng khác có thể nhận thấy rõ là cùng với sự phát triển kinh tế toàn
cầu, thì khoảng cách giàu nghèo giữa các cá nhân trong xã hội cũng ngày một tăng
cao. Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc năm 1996, nhóm 20% người giàu nhất đã
chiếm đến 85% thu nhập chung của thế giới. Vậy sự thực này có thể ảnh hưởng thế
nào tới việc thực hiện hình ảnh xã hội lí tưởng kia của loài người, trong hiện tại và cả
trong tương lai? Sự bất bình đẳng về thu nhập có quan hệ thế nào với bình đẳng trong
xã hội nói chung?
Do mong muốn có cái nhìn bao quát hơn về vấn đề và tìm ra câu trả lời cho câu
hỏi này, đồng thời cũng nhận thấy đây là vấn đề mang nhiều giá trị cả về lí luận lẫn
thực tiễn, em lựa chọn tìm hiểu đề tài Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận
dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội với mục
đích dựa vào cơ sở lí luận biện chứng để tìm ra bản chất mối liên hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội, cũng như có được những giải pháp tích cực cho vấn đề
này trong thực tiễn.
Với mục đích và nhiệm vụ như trên, tiểu luận được kết cấu gồm hai phần: Phần
I tìm hiểu về Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến, phần II vận dụng phân tích Mối
liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.

1



Do điều kiện có hạn, quãng thời gian dành để tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề
không dài, bản thân chưa thực sự có nhiều kinh nghiệm và kiến thức trong lĩnh vực
liên quan nên không tránh khỏi việc tiểu luận còn nhiều thiếu sót, khiếm khuyết, chưa
được đầy đủ và trọn vẹn như hướng đi và mục tiêu đã đặt ra. Bởi vậy, em rất mong
được thầy cô thông cảm và góp ý, chỉnh sửa để em có thể học hỏi thêm, mở rộng tầm
hiểu biết của mình cũng như rút ra được những bài học, kinh nghiệm đáng quý cho quá
trình học tập sau này. Em xin chân thành cảm ơn cô.

2


NỘI DUNG
I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1.1. Khái quát về phép biện chứng
1.1.1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng
Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, vận động, chuyển hóa và phát
triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan: biện chứng của thế giới vật chất
và biện chứng chủ quan: sự phản ánh biện chứng khách quan vào ý thức con người.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lí, quy luật, phạm trù khoa học, từ đó xây dựng hệ thống
các nguyên tắc phương pháp luận để chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người.
Phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan và đối lập với phép siêu hình
(phương pháp tư duy về sự vậy, hiện tượng trong trạng thái cô lập, bất biến).
b. Lịch sử phát triển và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Qua thời gian, cùng với sự phát triển của nhận thức, triết học nói riêng và sự
phát triển của xã hội, thế giới nói chung, phép biện chứng cũng thay đổi và phát triển

theo từng thời kì. Trong đó, phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức cơ bản:
phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, ứng với các trình độ nhận thức khác
nhau của con người.
Hình thức đầu tiên của phép biện chứng là phép biện chứng chát phác thời cổ
đại, xuất hiện trong hệ thống triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Có thể kể
đến “biến dịch luận”, “ngũ hành luận” bàn về những nguyên lý tương tác, quy luật phổ
biến trong vũ trụ, thuộc thuyết âm – dương của triết học Trung Quốc hay các phạm trù
3


“vô ngã”, “vô thường”, nhận thức về vũ trụ trong triết học của đạo Phật Ấn Độ. Ở hình
thức này, tinh thần phép biện chứng được thể hiện sâu sắc nhất trong triết học Hy Lạp
cổ đại. Hêraclít cho rằng: “…mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi
vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát
sinh và tiêu vong”. Đây là cách nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới, tuy
nhiên còn chất phác, chưa được chứng minh bởi khoa học tự nhiên.
Hình thức thứ hai của phép biện chứng là phép biện chứng duy tâm cổ điển
Đức do Hêghen hoàn thiện. Trong đó, những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện
chứng duy tâm đã được trình bày rõ ràng với những hệ thống phạm trù, quy luật, có
tính logic chặt chẽ. Tuy nhiên, đây là phép biện chứng theo tư tưởng duy tâm, cho rằng
“tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao
chép của ý niệm”. Theo đó, Hêghen coi biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của
“ý niệm tuyệt đối” và biện chứng chủ quan là cơ sở cho biện chứng khách quan. Có
thể thấy, ở Hêghen, phép biện chứng đã được trình bày một cách bao quát, đồng thời
đã có những hình thái vận động chung nhất định, nhưng lại bị “lộn ngược” do đi theo
chủ nghĩa duy tâm. Đây là hạn chế còn tồn tại trong triết học Hêghen nói riêng và triết
học cổ điển Đức nói chung cần phải vượt qua.
Bằng việc khắc phục hạn chế nói trên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo nên
hình thức thứ ba của phép biện chứng: phép biện chứng duy vật. Đây là giai đoạn phát

triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, kế thừa những tinh hoa và
khắc phục những hạn chế của phép biện chứng cổ điển Đức.
1.1.2. Phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm và nội dung phép biện chứng duy vật
Ph. Ăngghen định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật như sau: “Phép
biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát
triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. Bên cạnh đó, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng có một số cách định nghĩa khác về phép biện
chứng duy vật: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” (Ph. Ăngghen),
“Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển” (V.I.Lênin).
4


Qua đó, có thể thấy phép biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên lí, phạm
trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng và lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Nội
dung phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển), ba quy luật (quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập; quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại; quy luật phủ định của phủ định) và sáu cặp phạm trù (cái
riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình
thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực).
b. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản.
Thứ nhất, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện
chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Do đó, phép
biện chứng duy vật có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
và có sự khác biệt về trình độ so với tư tưởng biện chứng của triết học cổ đại.
Thứ hai, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự thống nhất
giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy
vật. Phép biện chứng duy vật, nhờ vậy, không chỉ dùng để giải thích thế giới mà còn

trở thành công cụ cơ bản, trở thành nền tảng để con người dựa vào đó nhận thức và
cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát những quy luật, mối liên hệ phổ biến, khái quát
nhất của sự vật, hiện tượng trên thế giới, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác
– Lênin cung cấp cho những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho quá trình
nhận thức và cải tạo thế giới, khiến nó trở thành công cụ khoa học vĩ đại cho giai cấp
cách mạng.
Nhờ các đặc trưng nói trên, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin được
xem như hình thức phát triển cao nhất của phép biện chứng trong triết học. Đây là một
nội dung đặc biệt quan trọng, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác
– Lênin, đồng thời là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động
sáng tạo và thực tiễn.

5


1.2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
1.2.1. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự phụ thuộc, quy định, tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi
sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật, hiện tượng của thế giới. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất,
khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, v.v.
1.2.2. Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lí cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Đây là nguyên lí đóng vai trò quan trọng trong nội dung của phép
biện chứng duy vật, mà để nhấn mạnh vai trò này, Ph. Ăngghen đã định nghĩa: “Phép
biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”.
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến cho rằng các sự vật, hiện tượng hoặc các
mặt, yếu tố của mỗi sự vật hiện tượng vừa tồn tại tách biệt nhau và tồn tại khách quan,

ngoài ý muốn chủ quan của con người; lại vừa có sự liên hệ qua lại, phụ thuộc, tác
động và chuyển hóa lẫn nhau. Giữa các sự vật, hiện tượng vừa tồn tại mối liên hệ đặc
thù, vừa tồn tại mối liên hệ phổ biến ở phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại mối
liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện của mối liên
hệ phổ biến trong một số điều kiện nhất định.
Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đã tạo nên tính thống nhất trong
tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của mối liên hệ trong tự
nhiên, xã hội và tư duy.
Các mối liên hệ có những tính chất cơ bản là tính khách quan, tính phổ biến và
tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan của các mối liên hệ thể hiện rất rõ quan điểm biện chứng duy
vật. Theo đó, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt, yếu tố của
một sự vật, hiện tượng có tính khách quan, là cái vốn có, tồn tại độc lập và không phụ
6


thuộc vào ý chí của con người. Con người chỉ nhận thức và vận dụng các mối liên hệ
này cho hoạt động thực tiễn của con người.
Tính phổ biến của các mối liên hệ góp phần thể hiện sự khác biệt về trình độ
nhận thức giữa quan điểm biện chứng của triết học Mác – Lênin và tư tưởng biện
chứng của triết học cổ đại. Nếu như triết học Hy Lạp cổ chưa có được sự phân tích
giới tự nhiên, vẫn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và xem xét chỉnh thể ấy
một cách toàn bộ; thì ở đây, ta thấy được giới tự nhiên vốn bao gồm nhiều yếu tố riêng
biệt, thế giới được tạo thành từ rất nhiều sự vật, hiện tượng cùng tồn tại. Hơn nữa,
không một sự vật, hiện tượng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, biệt lập với các sự vật, hiện
tượng khác. Mối liên hệ tồn tại phổ biến ở mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Mỗi
sự vật, hiện tượng đều là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành và
những mối liên hệ bên trong của nó, đồng thời tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống
khác, tương tác và chuyển hóa lẫn nhau.
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật,

hiện tượng, quá trình khác nhau có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị
trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó. Mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhưng trong những giai đoạn vận động khác nhau, trong điều kiện khác nhau thì tính
chất, vai trò và vị trí của mối liên hệ đó cũng khác nhau. Bên cạnh đó, trong mỗi sự
vật, hiện tượng, quá trình cụ thể, trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể, các
mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong sự vật, hiện tượng cũng có sự thể
hiện phong phú, đa dạng khác nhau.
Như vậy, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong điều kiện nhất định, không
thể đồng nhất tính chất, vị trí, vai trò của các mối liên hệ khác nhau đối với sự vật,
hiện tượng đó; mà phải phân loại các mối liên hệ một cách cụ thể. Căn cứ vào tính
chất, phạm vi, trình độ, có thể có những loại mối liên hệ sau: chung và riêng, cơ bản và
không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian,
v.v.. Sự phân loại này là tương đối, vì mối liên hệ chỉ là một bộ phận, một mặt trong
toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung. Quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ
đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác nhau
có thể chuyển hoá cho nhau. Sự chuyển hoá có thể diễn ra khi thay đổi phạm vi xem
xét, nghiên cứu hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật, hiện tượng ấy.
7


1.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ đòi hỏi ta cần có quan
điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Điều đó có nghĩa là khi nhận
thức và xử lí các tình huống thực tiễn, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan
hệ biện chứng qua lại giữa các yếu tố, các mặt của chính sự vật, hiện tượng đó; cũng
như trong mối quan hệ biện chứng, qua lại của sự vật, hiện tượng đó với các sự vật,
hiện tượng khác.
Thứ hai, tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ đòi hỏi ta phải có quan điểm
lịch sử - cụ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Điều đó có nghĩa là khi nhận
thức và xử lí các tình huống thực tiễn, cần xét đến những tính chất đặc thù của đối

tượng nhận thức, xác định vai trò, vị trí của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình
huống cụ thể, từ đó có giải pháp đúng đắn và hiệu quả trong xử lí các vấn đề thực tiễn.

8


II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
2.1. Định nghĩa
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa một cách phổ quát theo quan điểm kinh tế
học là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian (thường được tính
qua từng năm). Tăng trưởng kinh tế theo nghĩa này thường được đo lường bằng sự gia
tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP), tổng thu
nhập quốc gia (NNI) (một số trường hợp có thể chia trung bình theo đầu người). Nói
cách khác, tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện sự gia tăng về mặt số lượng, quy mô của
nền kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là một trong những điều kiện tiên quyết, là cơ sở để tạo nên
sự phát triển và tiến bộ xã hội. Do đó, tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ quan trọng đối
với nhiều quốc gia.
2.1.2. Công bằng xã hội
Nếu như khái niệm tăng trưởng kinh tế được định nghĩa và thừa nhận rộng rãi,
phổ biến; có cơ sở và có thể được định lượng bằng những chỉ số cụ thể, thì khái niệm
công bằng xã hội, cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thực sự mang tính chuẩn
mực và hoàn toàn thống nhất. Tùy theo quan điểm và cách nhìn nhận của mỗi cá nhân
hoặc tổ chức mà khái niệm công bằng xã hội được hiểu và diễn giải theo nhiều cách
khác nhau.
Ví dụ, trong kinh tế học, có hai khái niệm khác nhau về bình đẳng/công bằng:
công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang
nghĩa là đối xử như nhau với những người có mức đóng góp như nhau. Công bằng
theo chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau với những người có điều kiện sống khác

nhau hoặc những người có sự khác biệt mang tính bẩm sinh. Công bằng theo chiều
ngang có thể được thực hiện bởi cơ chế thị trường, trong khi công bằng theo chiều dọc
cần có sự tác động và điều hướng từ chính phủ. Theo lý thuyết, công bằng thực sự và
toàn diện có thể có được khi kết hợp cả hai khái niệm công bằng trên.
9


Ngoài quan điểm kinh tế học, có một số quan điểm khác về việc thế nào là công
bằng xã hội. Ngân hàng Thế giới định nghĩa công bằng xã hội là “công bằng trong
những cơ hội cho mọi người”. Quan điểm khác nhận định công bằng xã hội “là các giá
trị định hướng cho quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng về vật chất và tinh
thần”.
Sự đa dạng các quan điểm khi nhận định về công bằng xã hội thể hiện đây là
một khái niệm rất rộng, bao gồm trong nó cả các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và
văn hoá. Nhìn một cách tổng quan, có thể hiểu công bằng xã hội theo nghĩa chung
nhất như sau: đó là sự ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa người với người, dựa
trên nguyên tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ.
Từng thành viên trong xã hội gắn bó với cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, thông qua sự cống hiến bằng khả năng trí tuệ, sức lực của
mình cho sự phát triển xã hội và được xã hội bù đắp trở lại một cách tương xứng.
Với cách hiểu công bằng xã hội như vậy, việc xác định mức độ thực hiện công
bằng xã hội chỉ có thể mang tính tương đối, không thể đo lường một cách tuyệt đối
chính xác. Trên thế giới, mức độ này thường được đánh giá trước hết qua chỉ số thu
nhập. Ngoài ra, một số loại chỉ số khác cũng được sử dụng như chỉ số thể hiện mức độ
thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người, mức tối thiểu về dinh dưỡng, sức khỏe, mức
sống, nhà ở và các điều kiện khác đảm bảo sự phát triển cá nhân.
Năm 1990, Chỉ số phát triển con người (HDI – Human Development Index)
được hai nhà kinh tế Mahbub ul Haq (Pakistan) và Amartya Sen (Ấn Độ) giới thiệu.
Chỉ số này thường được tính toán trên toàn cầu bởi UNDP (United Nations
Development Programme - Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc), sử dụng để đánh

giá sự phát triển của một đất nước. Đây là chỉ số được tính toán dựa trên 3 tiêu chí bao
quát, thể hiện được những yếu tố quan trọng với phát triển con người: tuổi thọ, trí tuệ
và mức sống. Qua đây, có thể thấy công bằng xã hội không chỉ phản ánh các quan hệ
chính trị - xã hội và mức độ nhân văn của xã hội, mà còn phần nào phản ánh cả xu
hướng ổn định, bền vững của một nền kinh tế cũng như trật tự xã hội.

10


2.2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Nội dung phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến đã chỉ ra rằng giữa các sự
vật, hiện tượng cũng như giữa các mặt của cùng một sự vật, hiện tượng luôn tồn tại
các mối liên hệ - nghĩa là có sự liên hệ qua lại, phụ thuộc, tác động và chuyển hóa lẫn
nhau. Nguyên lí này chính xác khi ta vận dụng để xem xét và nghiên cứu mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai khái niệm, hiện tượng tồn tại
độc lập với nhau nhưng lại có mối liên hệ biện chứng rất chặt chẽ. Tăng trưởng kinh tế
thể hiện sự gia tăng, hay nói khái quát hơn là sự thay đổi về mặt lượng của nền kinh tế.
Khi mặt lượng thay đổi tới một giới hạn nhất định (điểm nút), cùng với các điều kiện
nhất định về mặt lịch sử, xã hội…, tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất: nền kinh tế
sẽ chứng kiến một bước nhảy, có sự phát triển về kinh tế. Sự phát triển kinh tế được
xem là tiền đề, là cơ sở, là điều kiện không thể thiếu dẫn đến sự phát triển chung của
con người và xã hội, trong đó có khía cạnh công bằng và bình đẳng xã hội.
Hơn nữa, mặc dù khái niệm công bằng xã hội được định nghĩa theo nhiều cách
và nhìn nhận trên nhiều quan điểm khác nhau, nhưng như đã nói ở trên, sự đa dạng này
đã thể hiện rằng công bằng xã hội là một khái niệm mang nội hàm rất rộng. Bản thân
nó đã bao hàm trong mình các yếu tố thuộc hầu hết lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
v.v; nghĩa là bản thân khái niệm công bằng xã hội cũng đã tích hợp ở đó vấn đề tăng
trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là yếu tố không thể không xét đến khi ta xem xét
và nghiên cứu sự công bằng xã hội.

Ngược lại, công bằng xã hội cũng có sự ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến
tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội được đảm bảo và thực hiện một cách đúng đắn
sẽ nâng cao đời sống con người, nâng cao chất lượng sống cũng như tiêu chuẩn, trình
độ của xã hội, góp phần xây dựng một cộng đồng và môi trường văn minh, tiến bộ, tạo
ra ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng.
Ngược lại, công bằng xã hội không được đảm bảo, sự bất công và bất bình đẳng còn
tồn tại nhức nhối trong xã hội sẽ đem đến tác động xấu cho nền kinh tế, có thể dẫn đến
kìm hãm tăng trưởng kinh tế hoặc tăng trưởng theo hướng thiếu lành mạnh. Có thể nói,
công bằng xã hội là một trong những nhân tố then chốt và thiết yếu để đánh giá xem sự
11


tăng trưởng kinh tế nói riêng và phát triển kinh tế nói chung có thực sự bền vững và
lâu dài hay không.
Tăng trưởng kinh tế là một hiện tượng, phạm trù do con người tác động và chi
phối, đồng thời cũng tác động ngược trở lại tới con người. Tương tự như vậy, mức độ
công bằng xã hội được thực hiện cũng phụ thuộc vào con người, và chính nó cũng sẽ
ảnh hưởng tới đời sống của từng cá nhân trong xã hội. Với nhân tố chung là con người,
hai khái niệm tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội thực sự có mối liên hệ biện
chứng rất chặt chẽ với nhau.
Cụ thể hơn, khi xem xét và nghiên cứu về mối quan hệ và sự tác động, phụ
thuộc, ảnh hưởng thực tiễn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, có rất nhiều
quan điểm, giả thuyết, góc nhìn khác nhau, đưa ra những đánh giá và nhận định đa
dạng, phong phú.
Một số cho rằng tăng trưởng kinh tế dẫn đến bất bình đẳng, nghĩa là tăng
trưởng kinh tế đối nghịch với công bằng xã hội và đây là hai mặt đối lập, mâu thuẫn,
đấu tranh lẫn nhau. Theo đó, tăng trưởng kinh tế được cho rằng được đảm bảo bằng sự
bất bình đẳng trong phân phối vật chất (một trong những khía cạnh đánh giá công bằng
xã hội), và việc kinh tế tiếp tục tăng trưởng sẽ chỉ gia tăng thêm sự bất bình đẳng này.
Tầng lớp thu nhập cao là giai cấp có khả năng tích lũy vật chất lớn nhất và đây cũng là

nguồn gốc chủ yếu dẫn đến tăng trưởng, do đó bất kì sự phân phối nào làm giảm sự tập
trung của cải này đều ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng kinh tế. Lập luận này có cơ sở
thực tiễn lịch sử từ sự hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản: quá trình tích tụ và
tập trung tư bản, cộng với sự bần cùng, vô sản hóa một giai cấp trong xã hội đã tạo
động lực lớn. Mác cũng giải thích tương tự về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, tuy
nhiên ông chỉ ra rằng quá trình này đã dẫn đến sự bất bình đẳng quá lớn trong xã hội,
trở thành lực cản cho sự vận động và phát triển tiếp theo. Ở đây, có thể thấy mối liên
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mối liên hệ phổ biến giữa hai mặt
đối lập.
Mặt khác, một số lại đưa ra quan điểm tăng trưởng kinh tế đi liền với công
bằng xã hội. Khi xem xét sự phát triển kinh tế - xã hội qua những giai đoạn lịch sử,
người ta nhận thấy những hạn chế của việc chú ý quá mức đến riêng mình sự tăng
12


trưởng hoặc công bằng, hay nói cách khác là những hạn chế khi chỉ tập trung vào một
mặt, một khía cạnh, trong khi đây vốn là hai yếu tố có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau. Để đảm bảo được cả hai yếu tố, hai mô hình hành động được đưa ra bao gồm
giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người hoặc tái phân phối cùng với tăng trưởng.
Quan điểm tăng trưởng đi liền với công bằng là lí luận được đưa ra dựa trên cơ
sở một giả thuyết quan trọng: công bằng xã hội không đối lập với tăng trưởng kinh tế,
ngược lại còn là một nhân tố góp phần thúc đẩy nó. Năm 1968, nhà kinh tế học người
Thụy Điển Gunnar Myrdal lần đầu tiên khẳng định rằng bất bình đẳng ở mức thấp có
thể kích thích tăng trưởng kinh tế. Hartmut Elsenhans (nhà chính trị học và khoa học
người Đức) lập luận khá đầy đủ về tác động của công bằng xã hội đối với tăng trưởng.
Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đưa ra các công trình nghiên cứu minh chứng cho giả
thuyết trên.
Qua đây, có thể thấy mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
khá phức tạp, cần rất nhiều sự nghiên cứu, vận dụng cả lí luận lẫn thực tiễn để có thể
có được cái nhìn tổng quan nhất, và luôn cần đảm bảo cả quan điểm toàn diện lẫn quan

điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét vấn đề. Mỗi quan điểm, giả thuyết nói trên đều có
những cơ sở và mức độ đúng đắn nhất định, dù chưa thể hoàn toàn công nhận nhưng ta
cũng không thể phủ nhận quan điểm, giả thuyết nào mà đều cần học hỏi, kế thừa và
phát huy những điểm mạnh của chúng. Nhìn chung lại, tất cả đều chứng minh cho ta
thấy mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt của một quá
trình phát triển biện chứng, vừa mâu thuẫn, vừa tác động lẫn nhau, liên hệ chặt chẽ, cái
này là tiền đề cho cái kia, cùng vận động và phát triển không ngừng theo chiều hướng
đi lên.

2.3. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tại Việt Nam
Tại Việt Nam, mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đóng
vai trò quan trọng, cốt yếu cho sự phát triển đất nước, được Đảng và Nhà nước đặc
biệt coi trọng. Trong những năm đổi mới, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước đã thể hiện quan điểm mới, sâu sắc và toàn diện trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Điều này được phản ánh một cách

13


nhất quán trong các văn kiện lớn của Đảng cũng như chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước thời kì đổi mới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định rõ: "Tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho
mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình".
Đến Đại hội lần thứ X, vấn đề trên được bổ sung cụ thể: "Kết hợp các mục tiêu
kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và

nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát
triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc.". Bên cạnh
đó, chính sách kinh tế - xã hội năm 2006 - 2010 cũng nhấn mạnh: "Phải gắn tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân
chủ, tiến bộ và công bằng xã hội... Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các
vùng".
Có thể khái quát lại các tư tưởng, chính sách của Đảng và Nhà nước về mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế
chứ không phải là nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế .
Tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề xã
hội. Không thể có công bằng xã hội trên cơ sở nền kinh tế kém phát triển, cũng không
thể có được nền kinh tế tăng trưởng hiệu quả và bền vững trong một xã hội thiếu công
bằng, một bộ phận đáng kể người dân còn thất nghiệp, nghèo đói. Ngay cả trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội cũng là một đòi hỏi khách quan, tất yếu.
14


Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt
Nam phải tính đến mục tiêu phát triển kinh tế. Để công bằng xã hội được thực chất và
có thể tạo động lực kinh tế, cần từ bỏ phương thức phân phối bình quân, bao cấp; khắc
phục tâm lý ỷ lại, xoá bỏ lối quản lý xin - cho... Ví dụ như trong chiến lược xóa đói
giảm nghèo ở nước ta, ngoài việc tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã
hội, còn rất cần các hoạt động định hướng giúp người dân thoát nghèo bền vững.
Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ,
cống hiến với hưởng thụ.

Công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và
hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Nói cách khác, xã hội đối đãi ngang nhau với
những người có đóng góp như nhau. Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định
dựa trên mức độ cống hiến của con người. Việc này sẽ tránh lặp lại lối phân phối bình
quân chủ nghĩa (thực chất là cào bằng) đã xuất hiện ở nước ta thời kì trước đổi mới;
đồng thời tạo động lực thúc đẩy phát triển xã hội.
Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm
vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã cụ thể hóa quan điểm này trên từng lĩnh
vực. Về kinh tế: chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân làm giàu theo
luật pháp, hộ nghèo thoát nghèo một cách bền vững, cải thiện chính sách tiền lương.
Về y tế: tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, xây dựng các
chính sách trợ cấp, bảo hiểm y tế; chú trọng triển khai dịch vụ y tế công nghệ cao,
khuyến khích dịch vụ y tế ngoài công lập... Về giải quyết vấn đề xã hội: đa dạng hóa
các loại hình cứu trợ xã hội, bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, đổi mới quản lý và
cung ứng dịch vụ công cộng... Trên từng lĩnh vực, cần chủ động đề ra giải pháp cụ thể
phù hợp với tình hình thực tế của từng vùng, miền.
Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy
nhân tố con người.
15


Con người là động lực và cũng là nguồn lực phát triển xã hội mới. Muốn tăng
trưởng kinh tế phải giải quyết vấn đề công bằng xã hội, tạo điều kiện cho con người
phát huy năng lực và hưởng thụ thành quả của mình một cách xứng đáng. Tại Đại hội
lần thứ X, Đảng nhấn mạnh việc thực hiện chỉ tiêu GDP phải gắn với chỉ tiêu HDI,
nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết vấn đề xã hội hiệu quả,
thiết thực.

Thứ năm, phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
xã hội là nhân tố cơ bản đảm bảo kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế tác động đến việc phân phối lợi ích, công bằng xã hội qua
những khâu trung gian; trong đó phải kể đến cơ chế kinh tế và chính sách xã hội của
nhà nước. Thị trường chỉ góp phần thực hiện công bằng xã hội bằng cách phân phối lợi
nhuận theo quy luật thị trường. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số lĩnh vực chưa thể
thực hiện được quy luật thị trường. Do đó, trong điều kiện kinh tế hiện nay, sự điều tiết
của “bàn tay hữu hình” - Nhà nước là rất cần thiết để đảm bảo tất cả mọi người đều
được hưởng tương xứng với mức độ đóng góp xã hội của mình. Tăng cường vai trò
của nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là biện pháp
đặc biệt quan trọng.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước độc lập, thống nhất,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó, tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội là hai trong những tiêu chí cơ bản cần phải đạt tới. Thực tế
cho thấy, tăng trưởng kinh tế có thể tạo cơ sở cho công bằng xã hội nhưng cũng có thể
ảnh hưởng xấu tới công bằng xã hội. Tương tự như vậy, việc thực hiện công bằng xã
hội có thể đóng vai trò thúc đẩy lẫn kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội là quan hệ không đồng thuận và có tính tự phát.
Việc hiệu quả của mối quan hệ này ở Việt Nam hiện nay thế nào, được phát huy ra sao
không chỉ phụ thuộc vào tính tất yếu khách quan của nền kinh tế, mà còn phụ thuộc
vào tư tưởng, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như mức độ hiện thực hóa các
quan điểm đó trong thực tiễn đời sống.

16


KẾT LUẬN
Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu trên đây, có thể thấy mối liên hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa có tính chất của một mối liên hệ biện
chứng phổ biến, vừa có sự phức tạp nhất định mà cần phải có những sự nghiên cứu

chuyên sâu, bám sát thực tiễn, đồng thời xét tới đầy đủ những điều kiện lịch sử, xã hội
liên quan mới có thể đánh giá được chính xác. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội là hai mặt của một quá trình phát triển biện chứng, vừa mâu thuẫn,
vừa tác động lẫn nhau, liên hệ chặt chẽ, cái này là tiền đề cho cái kia, cùng vận động
và không ngừng phát triển, đi lên.
Vận dụng vào Việt Nam, có thể thấy từ khi đổi mới cho tới nay, Đảng và Nhà
nước đang ngày càng quan tâm, chú trọng đúng cách vào mối liên hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội. Hiện tại, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, tư
tưởng, chỉ đạo sâu sắc và toàn điện trong việc giải quyết mối liên hệ trên nhằm đảm
bảo tăng trưởng kinh tế lành mạnh và thực hiện đầy đủ công bằng xã hội.
Để tiếp tục tìm hiểu về vấn đề này, theo em, cần có sự soi chiếu vào vấn đề một
cách sâu sắc hơn, mở rộng phạm vi nghiên cứu cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, xem xét
mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở các quốc gia trên thế giới,
qua các thời kì lịch sử khác nhau. Bên cạnh đó, cũng cần bám sát vào tình hình thực
tiễn, các báo cáo, khảo sát trong thời gian gần đây để nắm được sâu sát nhất thực trạng
của vấn đề, đồng thời kiểm chứng khả năng hiện thực hóa và mức độ hiệu quả của các
chính sách, giải pháp đã và đang được đưa vào thực tiễn. Từ đó, ta mới có thể đưa ra
các giải pháp thực sự hiệu quả và toàn diện để giải quyết mối liên hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội nói trên.

17


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa – Phạm Xuân Nam, Tạp chí Triết học, số 2 (200), 2008
/>
2. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị
quốc gia – Sự thật, 2016
3. Human Development Index, Wikipedia

/>
4. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay - Những
quan điểm cơ bản của Đảng – TS. Nguyễn Thị Nga, Tạp chí Triết học, số 9 (184), 9 2006
/>
5. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội - TS. Bùi Đại Dũng, ThS. Phạm Thu
Phương, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25, 2009
/>
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2006
/>Hop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000715&articleId=10038386

7. Về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trong văn kiện Đại hội XII
của Đảng – PGS.TS Ngô Trí Long, Báo Nhân dân Điện tử, 2016
/>18



×