Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.5 KB, 16 trang )

Lời mở đầu
Công bằng xã hội không chỉ có tác động mạnh mẽ, tích cực trong lĩnh vực kinh tế, mà còn đóng
vai trò điều chỉnh quan hệ giữa con người với con người trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, đạo
đức... Do vậy, công bằng xã hội xuất phát từ sự tự nguyện,nó vừa tạo nên trạng thái ổn định của
xã hội, vừa tạo nên những điều kiện cần thiết thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. Bên
cạnh đó, công bằng xã hội còn là điều kiện để mỗi cá nhân có thể phát huy cao nhất khả năng của
bản thân trong quá trình hoạt động xã hội, giúp sự phát triển của mỗi người ngày càng toàn diện
hơn.
Chính vì vậy, công bằng xã hội là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ
thể với một hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất định, bao giờ cũng có thước đo của công bằng xã hội
tương ứng làm căn cứ để xác định một tỷ lệ tương ứng cụ thể giữa cống hiến và hư ởng thụ cho
mọi chủ thể cùng tham dự vào hoạt động của nền sản xuất xã hội.
Công bằng xã hội tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân phát huy tối đa khả năng của họ vào việc
tham gia cống hiến vào sự phát triển của xã hội cũng như quyền được hưởng thụ tương xứng với
những cống hiến đó. Do vậy, công bằng xã hội chính là nhân tố kích thích, động viên mọi người
ra sức tham gia cống hiến cho sự phát triển của xã hội một cách tự nguyện nhất. Với ý nghĩa đó,
công bằng xã hội trở thành động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng và sự tiến bộ xã
hội nói chung.
Khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta và Nhà nước đã nêu rõ chủ trương kết hợp ngay từ
đầu và trong từng bước giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Mục tiêu hàng đầu của nhà
nước ta là xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh”. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu: “Tăng trưởng kinh tế gắn
liền với công bằng xã hội phải được thực hiện ngay trong từng bước phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.”
Em quyết định chọn đề tài: “Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối
liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội” làm đề tài nghiên cứu. Qua đề tài, em
muốn phân tích và chứng minh mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội dưới
góc nhìn của phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến, từ đó liên hệ trực tiếp tới hiện
trạng tại Việt Nam hiện nay đồng thơi nêu lên quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề này
để có thể tìm được một hướng giải quyết cho những tồn tại hạn chế còn gặp phải.
Tiểu luận gồm có 3 phần chính:


-

Chương 1: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến.
Chương 2: Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội dưới góc nhìn của
phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến.
Chương 3: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tại Việt Nam hiện nay.
1


Chương I – Phép biện chứng về mối liên hệ phổ
biến
1.1.

Phép biện chứng.

1.1.1. Phép biện chứng là gì?
Trong chủ nghĩa Mac-Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác,
chuyển hóa và vận động, phát triển theo qui luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong giới
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, trong đó biện chứng khách
quan là biện chứng của thế giới vật chất; còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng
khách quan vào đời sống ý thức của con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn
biện chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là sự phản ánh sự chi phối, trong toàn
bộ giới tự nhiên…”
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các
nguyên lý, qui luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của
nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng
thời nó cũng đối lập với phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới
trong trạng thái cô lập và bất biến.

1.1.2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng.
Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba trình độ cơ bản: phép biện chứng chất phác
thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác – Leenin.
Phép biện chứng chất phác cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết
học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy
Lạp cổ đại. Trong phép biện chứng này, các nhà triết học cho rằng vạn vật trong thế giới đều có
quá trình hình thành và tiêu vong, đều không ngừng vận động, biến hoá và liên hệ chằng chịt
nhau. Đây là phép biện chứng mang tính sơ khai, mộc mạc vì khoa học thời kỳ này chưa phát
triển. Khi phác họa bức tranh chung về thế giới, các nhà triết học chỉ dựa trên những quan sát có
tính trực quan, cảm tính, nhưng về cơ bản là đúng.
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng trong triết
học của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã nghiên cứu
và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ lý luận sâu sắc
2


và có tính hệ thông chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển. Tuy nhiên, phép
biện chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được xây dựng trên lập trường
duy tâm (duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này chưa phản ánh đúng đắn bức tranh hiện
thực của các mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận
này, bản thân biện chứng của các quá trình trong giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản
chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang phát
triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản đã cung cấp thực tiễn cho Mác và Angghen
để có thể đúc kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện chứng. Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học
tự nhiên đi vào hệ thống hóa khoa học thực nghiệm ở cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỉ XIX, với tiền
đề lý luận là phép biện chứng duy tâm của Heghen, Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph.
Ăngghen sáng lập đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục những
hạn chế của các hình thức biện chứng khác trong lịch sử, đồng thời phát triển phép biện chứng

trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị trên lập
trường duy vật mới.
1.2. Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến.
1.2.1. Khái quát về mối quan hệ phổ biến.
Trong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng
có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
Trong lịch sử triết học, để trả lời câu hỏi đó, ta thấy có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau.
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng
tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc,
không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng
chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan
điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ với nhau
và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng
chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn giới vô cơ và giới hữu cơ không có mối liên hệ gì với nhau, tồn
tại độc lập không thâm nhập lẫn nhau; tổng số đơn giản của những con người riêng lẻ tạo thành
xã hội đứng yên không vận động...
Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng và các quá
trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng
hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó tác động đến mọi
sự vật, trong đó có con người; sự gia tăng về dân số sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội,
giáo dục y tế.v.v; môi trường ảnh hưởng to lớn đến con người không chỉ trong một nước mà trên
3


toàn thế giới và ngược lại, hoạt động của con người cũng tác động, ảnh hưởng làm biến đổi môi
trường.
Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trả lời câu hỏi thứ hai,
những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết định mối quan hệ, sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay do ý thức cảm giác

của con người. Đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan, Bécơli cho rằng cảm giác là nền tảng
của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan
lại vạch ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế
giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế
giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những dạng khác
nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng
không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau
theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng
mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế
giới .
Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự
tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông
qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự
vật, hiện tượng khác. Chúng ta chỉ có thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con
người cụ thể thông qua mối liên hệ, sự tác động của con người đó đối với người khác, đối với xã
hội và tự nhiên thông qua hoạt động của chính người ấy. Ngay tri thức của con người cũng chỉ có
giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và cải
biến chính con người.
Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định trước đó của triết học Mác-Lênin là khẳng định
tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các
sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song
chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất.
Engels đã nhấn mạnh điều này
“ Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh
không phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó
khăn của Triết học và khoa học tự nhiên”
Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác
động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy

vật biện chứng khẳng định rằng: “mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác

4


động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự
vật, của một hiện tượng trong thế giới.”
Ví dụ: mối liên hệ giữa điện tích âm và điện tích dương; mối liên hệ giữa vô cơ với hữu cơ; giữa
sinh vật với môi trường; giữa xã hội với tự nhiên; giữa cá nhân với cá nhân; giữa cá nhân với tập
thể, cộng đồng; giữa các quốc gia, dân tộc; giữa các mặt, các bộ phận của đời sống xã hội; giữa
tư duy với tồn tại; giữa các hình thức, giai đoạn nhận thức; giữa các hình thái ý thức xã hội…
1.2.2. Các tính chất của phép liên hệ phổ biến.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ phổ biến có ba tính chất cơ bản.

-

Tính khách quan
Tính phổ biến.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.

1.2.2.1. Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có
tính khách quan. Sự quy định lẫn nhau, tác động và chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện
tượng hoặc trong bản thân chúng là cái vốn có của nó, tồn tại không phụ thuộc vào ý chí con
người; con người chỉ có khả năng nhận thức được những mối liên hệ đó.
1.2.2.2. Tính phổ biến của mối liên hệ
Phép biện chứng duy vật khẳng định: Không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn
tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác mà trái lại
chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau. Không có
bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm các yếu tố cấu thành

với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống mở
tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Ph.Ăngghen chỉ rõ, tất cả thế giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống,
một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau.... Việc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau
đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau, và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
1.2.2.3. Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định mối liên hệ còn có tính phong phú, đa dạng.
Tính chất này được biểu hiện ở chỗ:
- Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ
vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó.
- Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở
những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có tính chất
5


và vai trò khác nhau. Do đó, không thể đồng nhất tính chất, vị trí vai trò cụ thể của các mối liên
hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định. Căn cứ vào tính chất, đặc trưng của từng mối liên hệ,
có thể phân loại thành các mối liên hệ sau:
- Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài.
- Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp.
- Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu.
- Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản.
- Mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung, mối liên hệ phổ biến.
Sự phân chia từng cặp mối quan hệ chỉ là tương đối, vì mỗi cặp mối liên hệ chỉ là một bộ phận,
một mắt xích của mối quan hệ phổ biến, tuy nhiên lại rất cần thiết vì mỗi loại có vai trò và vị trí
xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật.
Phép duy vật biện chứng là mối liên hệ phổ biến chi phối sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng.
1.2.3. Ý nghĩa của phương pháp luận.


Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của
thế giới. Trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ ở mọi sự vật, hiện
tượng của thế giới, đó là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ
định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng…
Trên thực tế, mối liên hệ biểu hiện rất phong phú, đa dạng; cùng một sự vật, hiện tượng có nhiều
mối liên hệ khác nhau chi phối. Đồng thời, có một mối liên hệ nào đó có thể chi phối được nhiều
sự vật, hiện tượng. Bên cạnh mối liên hệ phổ biến, căn cứ vào tính chất, đặc trưng của từng mối
liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên hệ sau: mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên
hệ trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ cơ bản và không cơ bản,
mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung… Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có vai trò khác nhau
đối với sự vận động và phát triển của sự vật; chẳng hạn, mối liên hệ bên trong là sự tác động qua
lại, sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt trong một sự
vật, hiện tượng. Mối liên hệ này giữa vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của sự
vật, hiện tượng đó. Còn mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau, không giữ vai tò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mới có thể tác động đối với sự tồn tại,
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể.
Điển hình như từ tính khách quan và tính phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
6


động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong
nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ
biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và sự
tác động qua lại giữ sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Trên cơ sở đó mới có
nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn.
Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và
thực tiễn. V.I.Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên

cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ giao tiếp” của sự vật đó”.
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn thì đồng thời phải kết hợp quan điểm toàn diện với quan điểm lịch sử - cụ thể. Quan điểm
lịch sử - cụ thể yêu cầu việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải
xét đến những tinh chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau
trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể trong những tình
huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn
đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục
quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy
biện.
Đây là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, chúng ta phải chú trọng tất cả các
mối liên hệ, đánh giá đúng vai trò mối liên hệ đang chi phối đối tượng. Qua hoạt động thực tiễn,
chúng ta sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện thích hợp để thúc đẩy mối quan hệ đó phát triển
một cách tích cực.

7


Chương II: Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội dưới góc nhìn của phép biện
chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định
(thường là một năm), biểu hiện ở sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI)
trong một thời gian nhất định.
Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều
hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia

tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện
vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu đo lường kết quả sản xuất và
dịch vụ của nến kinh tế (theo mô hình hạch toán thu nhập của hệ thống tài khoản quốc gia) và
được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người.
Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn, lao động và đất
đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu
tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính
trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả
đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
2.1.2. Khái niệm công bằng xã hội.

Công bằng xã hội là một giá trị cơ bản định hướng cho việc giải quyết hài hòa quan hệ giữa
người và người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc: cống hiến về vật chất và
tinh thần ngang nhau cho sự phát triển xã hội thì được hưởng thụ ngang nhau về những giá trị vật
chất, tinh thần do xã hội tạo ra, phù hợp với điều kiện và khả năng cung ứng của mỗi quốc gia ở
một thời kỳ, giai đoạn phát triển cụ thể.
Theo cách tiếp cận khác, công bằng xã hội là trạng thái mà mọi quyền lợi, nghĩa vụ của các
thành viên xã hội có và được thực hiện phù hợp với các giá trị xã hội nhằm khuyến khích tối đa
khả năng đóng góp và hạn chế ở mức tối thiểu khả năng gây hại của mỗi cá nhân cho xã hội; là
những điều kiện thuận lợi - cốt lõi là sự tôn trọng con người, sự bình đẳng và liên kết cộng đồng
- giúp cho cá nhân và cộng đồng đạt được những gì họ có quyền đạt tới.

8


Công bằng xã hội đòi hỏi nhận thức và giải quyết đúng hai mối quan hệ cơ bản: công hiến hưởng thụ, nghĩa vụ - quyền lợi. Công bằng xã hội không đồng nghĩa với cào bằng, không thực
hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều cho mọi người các nguồn lực và của cải do xã hội tạo ra mà
không tính đến chất lượng, hiệu quả lao động và sự đóng góp của mỗi cá nhân cho sự phát triển
của cộng đồng.
Công bằng xã hội cũng không đồng nhất với bình đẳng xã hội - được hiểu là sự ngang bằng nhau

giữa người và người về một phương diện nào đấy, hoặc trên tất cả các phương diện của đời sống
xã hội. Công bằng xã hội chỉ là một dạng xác định của bình đẳng xã hội phản ánh quan hệ giữa
nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc nghĩa vụ, cống hiến ngang nhau
thì quyền lợi, hưởng thụ ngang nhau.
Công bằng xã hội được thực hiện chủ yếu thông qua phân phối nguồn lực, của cải xã hội; công
bằng trong giáo dục, trong y tế theo nguyên tắc: mọi người đều có quyền được học tập, học tập
suốt đời; được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh, điều kiện, khả năng cụ thể của các cá nhân, cộng đồng trong xã hội rất
khác nhau, nhất là những cá nhân, cộng đồng có nhiều khó khăn, yếu thế, dễ bị tổn thương, nên
việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội tiếp cận công bằng các cơ hội phát triển, các
nguồn lực phát triển, các dịch vụ cơ bản về việc làm, điện, nước sạch, nhà ở, giáo dục, y tế,
thông tin,... mang tính an sinh xã hội có vai trò rất quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội.
2.2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.

Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa là
tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của tiến bộ và công bằng xã hội;
tiến bộ, công bằng xã hội là nhân tố động lực để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tiến bộ,
công bằng xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,
công bằng xã hội không phải là những yếu tố đối lập mà có quan hệ nhân quả với nhau.
Một số bài học kinh nghiệm trên thế giới cho thấy nếu thúc đẩy nền kinh tế tăng nhanh bằng mọi
giá nhiều hậu quả trong trung và dài hạn là cái giá quá đắt cho mục tiêu này. Tăng trưởng nóng
thường dẫn đến gia tăng khoảng cách giàu nghèo, nảy sinh nhiều mâu thuẫn giai cấp và đây
chính là nguồn gốc của những cuộc cách mạng xã hội đòi hỏi sự công bằng, bình đẳng trong
phân phối thu nhập Việc dồn mọi nguồn lực xã hội cho tăng trưởng cũng có nghĩa là phải hy sinh
một số mục tiêu xã hội, bỏ rơi người nghèo, phát sinh xu thế làm giàu của một số cá nhân và cuối
cùng là nguy cơ khủng hoảng xã hội.
Mặc dù phát triển kinh tế làm nâng dần chất lượng cuộc sống của dân cư ở các quốc gia, nhưng
người nghèo vẫn còn hiện diện khắp nơi. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng
xã hội là mục tiêu "kép" của sự phát triển bền vững mà nhiều quốc gia trên thế giới đều mong

muốn đạt tới. Làm sao để có được một nền kinh tế tăng trưởng nhưng phải gắn liền với công
bằng xã hội không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia nữa mà nó mang tính toàn cầu. Nhưng
trên thực tế, đây là bài toán khó mà không phải nước nào cũng có thể đưa ra lời giải thỏa đáng.
9


Giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn luôn là yêu cầu đặt
ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các nước. Bài toán đặt ra hiện nay đối với các
quốc gia là thực hiện tăng trưởng kinh tế trước, sau đó mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
hay đặt tiến bộ và công bằng xã hội lên trước, sau đó mới chú trọng cho việc tăng trưởng kinh tế
hay giải quyết hài hòa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội? Thực tế ở nhiều quốc gia
cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay công bằng xã hội trước nếu như không bảo đảm nền
kinh tế tăng trưởng cao, liên tục theo hướng phát triển bền vững. Mặt khác, nếu sự tăng trưởng
kinh tế không bảo đảm thực hiện hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội thì sự tăng trưởng này
cũng không có ý nghĩa. Những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm gia tăng tình
trạng bất bình đẳng. Mặt khác, những chính sách dựa trên ưu tiên mục tiêu tiến bộ và công bằng
xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế, kết cục cả mục tiêu xã hội và
mục tiêu kinh tế đều không thực hiện được.

10


Chương III – Tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội tại Việt Nam hiện nay.
3.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Trong báo cáo "Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2019", Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá: Triển vọng kinh tế trong nước lạc quan, kế thừa và
tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của năm 2017.
Trong 6 tháng đầu năm, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,08% so với cùng kỳ năm trước,
là mức tăng cao nhất của 6 tháng kể từ năm 2011 trở về đây. Quy mô GDP theo giá hiện hành cả

năm ước đạt khoảng 5.555 nghìn tỷ đồng, quy USD đạt khoảng 240,5 tỷ USD. GDP bình quân
đầu người đạt khoảng 2.540 USD/người, tăng 6,3%.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI những tháng đầu năm cơ bản biến động sát với điều hành của Chính
phủ. 8 tháng năm 2018, CPI bình quân được kiểm soát ở mức tăng 3,52% so với cùng kỳ năm
2017. Lạm phát cơ bản bình quân 8 tháng tăng 1,38% so với cùng kỳ.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả năm đạt 475 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2017.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 238 tỷ USD, tăng 11,2%, kim ngạch hàng hóa
nhập khẩu cả năm ước đạt 237 tỷ USD, tăng 12,3%. Cả năm ước xuất siêu khoảng 1 tỷ USD,
bằng 0,4%, vượt mục tiêu Quốc hội giao nhập siêu dưới 3%.
Tính chung 8 tháng, cả nước có 87.448 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng
ký là 878,6 nghìn tỷ đồng, so với cùng kỳ năm 2017, tăng 2,4% về số doanh nghiệp (cùng kỳ
tăng 16,3%) và tăng 6,9% về số vốn đăng ký.
Bên cạnh đó, có 20.942 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm
2017, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
trong 8 tháng đầu năm lên gần 108,4 nghìn doanh nghiệp.
3.2. Thực trạng công bằng xã hội tại Việt Nam.
Tháng 12 năm1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ
sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc phân phối công
bằng, Đảng và Nhà nước ta vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước để có thể có sự công
bằng trong xã hội, đó là trên các lĩnh vực sau: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, lao động, ….
Nhiều năm qua chúng ta đã cố gắng ban hành và thực thi nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện
cho mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế phát huy năng lực sản xuất, kinh doanh. Tuy
nhiên, những nỗ lực này chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Trước tiên phải kể đến sự bất
bình đẳng trong việc tiếp cận tư liệu sản xuất. Vẫn còn phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh
11


tế: “Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ, môi trường kinh doanh chưa thật sự
đảm bảo cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”

Do đó, các tiềm năng kinh tế chưa được phát huy một cách tương xứng, làm triệt tiêu động lực
phát triển kinh tế, xã hội.
Trong quá trình triển khai thực hiện phân phối thu nhập còn nhiều hạn chế, chưa giải quyết hài
hòa vấn đề lợi ích, chưa trở thành phương thức đem lại hiệu quả cao trong việc thực hiện CBXN.
Điều này được phản ánh rõ nhất qua chính sách tiền lương. Tiền lương chưa phản ánh đúng giá
trị sức lao động, còn nhiều bất cập.
Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm trọng, trở nên phổ
biến. Nó xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình phân phối và bóp méo kết quả phân phối ở
nước ta.
Bên cạnh đó, những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục đang diễn ra cản trở việc thực hiện công
bằng trong giáo dục, đào tạo. Đầu tư cho giáo dục, đào 102 tạo còn dàn trải, chưa có trọng tâm,
trọng điểm. Tính dàn trải biểu hiện rõ nhất qua việc số lượng các trường đại học, cao đẳng tăng
quá nhanh, mở rộng nhiều hình thức đào tạo như đào tạo theo tín chỉ, đào tạo từ xa, vừa học vừa
làm... nhưng quản lý nhà nước không chặt chẽ, cho nên hiện tượng học giả nhưng vẫn nhận bằng
thật không phải là hiếm. Bằng cấp không phản ánh đúng thực chất trình độ của người có bằng.
Xu thế thương mại hóa giáo dục, đào tạo và bằng cấp đang tiếp tục làm suy giảm chất lượng giáo
dục, đào tạo. Những bất công trong giáo dục, đào tạo đang từng ngày, từng giờ cản trở sự phát
triển sự phát triển trí lực của con người Việt Nam.
Hiện nay, việc tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành viên trong xã hội được tiếp cận, hưởng thụ
các giá trị văn hóa vẫn chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn. Sự phân hóa trong thu nhập
giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân cư đã kéo theo sự phân hóa trong đời sống văn hóa. Các
nhóm xã hội có thu nhập, trình độ học vấn khác nhau có nhu cầu hưởng thụ văn hóa, lối sống,
định hướng giá khác nhau, hình thành các nhóm văn hóa trung lưu, văn hóa người giàu, văn hóa
người nghèo. Khảo sát thực tế cho thấy, những gia đình có mức sống thấp hầu như không có điều
kiện đầu tư cho nhu cầu tinh thần. Đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc cư trú,
các sinh hoạt văn hóa còn nghèo nàn, từ đó khiến họ khó tiếp cận được với các thông tin, tri
thức, tiếp cận các cơ hội nguồn lực giúp họ cải thiện đời sống.
3.3. Quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
tại Việt Nam.
Thực hiện công bằng xã hội là một chủ trương lớn của Đảng, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế

độ ta từ khi giành được độc lập cho tới ngày nay. Đại hội VI của Đảng lần đầu tiên tạo sự chuyển
biến trong quan điểm nhận thức về vấn đề chính sách xã hội, quan điểm về công bằng xã hội
chính thức đưa vào báo cáo chính trị. Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Chính sách xã hội đúng
đắn, công bằng là động lực mạnh mẽ, phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” . Tiếp theo đó, các Đại hội,hội nghị Trung ương các khóa,
Quốc hội, Chính phủ đã từng bước cụ thể hóa các đường lối chính sách về việc giải quyết mối
12


quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
khóa VII (6/1993) về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền nông nghiệp hay Nghị quyết hội nghị
Trung ương 7 khóa VII (7/1994) về kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội VIII của Đảng đánh dấu bước phát triển mới trong chỉ đạo về vấn đề này. Đại hội khẳng
định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp
lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều
có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội,Hội nghị
Trung ương 4 khóa VIII nhấn mạnh, phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã
hội, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa nông thôn với nông thôn, giữa thành
thị với thành thị, giữa các tầng lớp xã hội. Quan điểm nàytiếp tục được khẳng định tại Đại hội
IX: “...phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường”. Đến Đại hội X, vấn đề trên được Đảng ta bổ sung
và phát triển một bước quan trọng, cụ thể là: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã
hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở
phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và
bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội”.
Theo quan điểm của Đảng, thực chất của bảo đảm công bằng xã hội là giải quyết hài hòa giữa
phát triển kinh tếvới thực hiện chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no, hạnh

phúc cho nhân dân; phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của con người, trên tinh thần tất cả
vì con người, cho con người.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội có ý
nghĩa quan trọng, nhằm khắc phục bản chất cố hữu của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh, là
mạnh thắng, yếu thua;bảo đảmtính định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở sự công bằng nên cần
phải được quán triệt sâu sắc, triển khai có hiệu quả trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở kết quả đạt được qua 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã đề ra hệ thống giải
pháp cơ bản, tổng thể và toàn diện để thực hiện vấn đề này. Việc nhận thức đúng quan điểm đó sẽ
là cơ sở cho triển khai thực hiện hiệu quả, góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống,
đảm bảo cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực. Để đạt được công
bằng tạo đà thúc đẩy sự phát triển xã hội cần chú trọng những điểm sau:
Thứ nhất, tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, xây dựng khung thể chế phân phối các nguồn lực xã hội một cách khoa học.
Thứ ba, xây dựng chính sách an sinh xã hội nhằm giảm thiểu phân tầng xã hội và phân hóa giàu
nghèo.
Thứ tư, giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập, bảo đảm chất lượng đời sống dân cư.
Thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Đại hội XII của Đảng đã định hướng nội dung, phương
hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam trong
tình hình mới. Điều đó phản ánh sâu sắc tư duy mới của Đảng về thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội hiện nay, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, cần được nhận thức đúng đắn, triển khai
thực hiện có hiệu quả.
13


Kết luận
14



Tiểu luận với đề tài “Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội” đã nêu lên những kiến thức cơ bản về phép biện
chứng và mối liên hệ phổ biến, các tính chất và vai trò thiết yếu của chúng trong cuộc sống.
Cũng từ đó, chúng ta biết được mối liên hệ giữa công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế, đó là
tiền đề, là điều kiện của nhau. Đây không phải mối quan hệ đối lập mà là quan hệ nhân quả. Vì
vậy, tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế
cao và bền vững là thước đo của tiến bộ và công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã hội là nhân
tố động lực để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tiến bộ, công bằng xã hội là biểu hiện của
tăng trưởng kinh tế.
Cũng từ đó, áp vào thực trạng hiện tại tại Việt Nam, chúng ta thấy được thực trạng tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội có tác động lẫn nhau, có những thành tựu và cũng tồn tại rất nhiều
mặt hạn chế cần khắc phục. Quan điểm của Đảng và nhà nước vẫn luôn là “Tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình
phát triển.”, và đang từng bước để thực hiện các chính sách để có thể phát huy mối liên hệ giữa
hai nhân tố này vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.”

Tài liệu tham khảo
15


1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội,
2016, tr. 80, 104, 135-139.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.79, 66.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.113.
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
tr.88-89.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,

tr.101.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.79, 66.
8. Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm – Tổng cục thống kê.

16



×