Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.5 KB, 18 trang )

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam được gọi là Ngôi sao đang lên của Châu Á . Từ một đất nước với nền
kinh tế nông nghiệp thô sơ , để có những bước tiến vượt bậc như thế có thể nói



nhờ những đường lối chính sách đứng đắn của đảng và nhà nước đề ra . Một trong
những định hướng đó là việc vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa,hiện đại hóa hiện nay với sự bùng nổ của cách
mạng khoa học kỹ thuật đã tạo nên nền sản xuất ngày càng hiện đại và đạt hiệu quả
cao.Việc nghiên cứu quy luật "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất" là một trong những nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới của nước
ta.Việc xây dưng XHCN thắng lợi phụ thuộc nhiều vào việc vận dụng tốt quy luật
này.Vì vậy em đã chọn đề tài: "Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay".
Bài tiểu luận này giúp ta có thêm phần hiểu biết về quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất.Từ đó áp dụng vào thực tiễn của
đất nước ta hiện nay,đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Tuy nhiên do trình độ nhận thức hiểu biết về mọi mặt còn hạn chế, nên không
tránh khỏi những sai sót.
Em rất mong thầy giáo góp ý để bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Trang | 1


PHẦN II: NỘI DUNG
A. QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ
PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT


I. Đôi nét về lực lượng sản xuất và quan hệ quản xuất
1. Khái niệm lực lượng sản xuất (LLSX)
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó
“lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ
năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác
động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực
lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do
con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức
mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố
động nhất của lực lượng sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi
biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh
phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự
phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực
tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “LLSX trực
tiếp”. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn chỉ là kinh nghiệm và
thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại
là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2.

Khái niệm quan hệ sản xuất (QHSX)
QHSX gồm ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ chức và

quản lý sản xuất; quan hệ về phân phối sản phẩm lao động xã hội.

Trang | 2



QHSX do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá
trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. QHSX là hình
thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo
thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không
ngừng của LLSX. Trong ba mặt của QHSX, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan
hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ
phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ về tổ chức
quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng có sự ảnh hưởng đến quan hệ sở
hữu
3.

Phương thức sản xuất
Sự tồn tại của một phương thức sản xuất được quy định bởi sự thống nhất biện

chứng giữa LLSX ở trình độ phát triển nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Sự
vận động phát triển của phương thức sản xuất bị quy định bởi sự tác động biện chứng
giữa LLSX và QHSX. Như vậy qua sự tác động biện chứng giữa QHSX và LLSX phù
hợp sẽ hình thành một phương thức sản xuất mới. Phương thức sản xuất chính là cách
thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã
hội loại người.
Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống
xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xă hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương
thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xă hội loài người từ thấp
đến cao.
4.

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản

xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là
Trang | 3


“hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của
quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó
có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động
với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng
của nó. Quan hệ sản xuất cũng có sự tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự tác động trở lại này là do:
Thứ nhất, QHSX có tính độc lập tương đối so với sự vận động không ngừng
của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, QHSX quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con
người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển
và ứng dụng khoa học và công nghệ…, và do đó tác động đến sự phát triển của LLSX.
Sự tác động này của quan hệ sản xuất diễn ra theo 2 hướng cơ bản: Nếu như
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển; ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một
cách hình thức so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
b.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong sự thống nhất,
chuyển hóa và có sự mâu thuẫn

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn thống nhất trong một phương

thức sản xuất. Tuy nhiên, đặc trưng của lực lượng sản xuất là luôn thay đổi và sự thay
đổi của lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ mới, điều này làm cho quan hệ sản
xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực
lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất
yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình
độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát
Trang | 4


triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là
phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã
viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất
của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay
các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản
xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay
thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương
lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.

5.

Ý nghĩa của phương pháp luận
Vì LLSX quyết định QHSX đối với quá trình sản xuất xã hội, cho nên trong

hoạt động thực tiễn cần coi trọng vị trí, vai trò của LLSX đối với QHSX. Muốn thúc

đẩy quá trình sản xuất xã hội cần phải phát huy vai trò của LLSX; cần phải ưu tiên, mở
đường cho LLSX phát triển tối đa.
Vì QHSX có sự tác động tích cực trở lại đối với LLSX (thể hiện thông qua sự
phù hợp và không phù hợp với trình độ LLSX) trong quá trình sản xuất xã hội, cho
nên không được xem thường, bỏ qua vai trò này và cần phải biết phát huy vai trò của
QHSX nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho LLSX phát triển.
Vì giữa LLSX và QHSX tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa đấu
tranh lẫn nhau, cho nên cần phải tôn trọng quy luật này. Việc tôn trọng quy luật giúp
chúng ta chủ động trong việc giải quyết mối quan hệ cũng như có những biện pháp
phù hợp nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển.

Trang | 5


II. Quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
1. LLSX quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của QHSX.
LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách
rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù
hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX – quy luật cơ bản nhất của sự vận
động, phát triển xã hội. Khái niệm "phù hợp" được hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt,
mới hợp qui luật, không phù hợp là không tốt, là trái qui luật. Có nhiều vấn đề mà
nhiều lĩnh vực đặt ra với từ "phù hợp" này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm
nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng QHSX
và dạng những LLSX từ đó hình thành những mối liên hệ chủ yếu cơ bản là mối liên
hệ giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Khuynh hướng chung của sản xuất
vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là sự biến đổi và phát
triển của LLSX, trước hết là công cụ lao động. Trình độ LLSX trong từng giai đoạn
lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
Trình độ của LLSX biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm

và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội,
trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Gắn liền với trình độ của LLSX là tính chất
của LLSX. Trong lịch sử xã hội, LLSX đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên
tính chất xã hội hoá.
- Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển
thì LLSX chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại,
phân công lao động phát triển thì LLSX có tính chất xã hội hoá.
Sự vận động và phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho
phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó QHSX phù hợp với
Trang | 6


trình độ phát triển của LLSX. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX
là một trạng thái mà trong đó QHSX là hình thức phát triển của LLSX. Trong trạng
thái đó, tất cả các mặt của QHSX đều tạo địa bàn đầy đủ cho LLSX phát triển. Điều
đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao
động với tư liệu sản xuất và do đó LLSX có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở
thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX. Khi đó, QHSX trở thành xiềng xích
của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển LLSX tất
yếu dẫn đến sự thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển
mới của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. Thay thế QHSX cũ bằng QHSX
mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra
đời thay thế. C.Mác cũng đã từng viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các LLSX vật chất của xã hội mâu thuẫn với những QHSX hiện có… trong đó
từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của
LLSX, những quan hệ ấy trở thành “xiềng xích” của LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại
một cuộc cách mạng xã hội”.

2.


Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
QHSX khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với LLSX và trở thành

những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với
LLSX., thường lạc hậu so với LLSX và nếu QHSX phù hợp với trình độ, tính chất của
LLSX thì nó thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Ngược lại, nếu lạc hậu so với LLSX dù
tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi QHSX kìm hãm sự phát triển
của LLSX thì theo quy luật chung, QHSX cũ sẽ được thay thế bằng QHSX mới phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX để thúc đẩy LLSX phát triển. Tuy nhiên, việc
Trang | 7


giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX không phải là giản đơn. Nó phải thông qua
nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải
thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. Sở dĩ QHSX có thể tác
động mạnh mẽ trở lại đối với LLSX nó qui định mục đích của sản xuất, qui định hệ
thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và
phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái
độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế
sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp
tác phân công lao động quốc tế.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến
tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự thay thế, phát triển của quy
luật lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế
độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến chế độ cộng sản tương lai là do sự tác
động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất.

B. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

ĐẤT NƯỚC
I. Quá trình vân dụng trong thực tế của nước ta trước năm 1986
Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá
nặng nề nên nền kinh tế lại càng rơi vào kiệt quệ. Đảng và Nhà nước đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra được những chính sách nhằm khôi phục kinh tế và
hàn gắn

vết

thương

chiến

tranh,

phát

triển

văn

hóa





hội…

Sau cuộc cải cách ruộng đất, kinh tế nước ta đã có bước chuyển biến đáng

kể, đời sống nhân dân được cải thiện, ăn đủ no, mặc đủ ấm, quan trọng nhất là
chúng ta đã xây dựng được một nền công nghiệp nặng vô cùng hùng hậu làm nền
Trang | 8


tảng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như: Xí nghiệp gang
thép Thái Nguyên, nhà máy xe đạp Hà Nội, nhà máy Pin Văn Điển…
Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chính trị tư tưởng đê xóa bỏ nhanh chế độ
tư hữu chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể, lúc đó được
coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hóa sản xuất cũng như
sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội oẳ nước ta. Song trong thực tế cách làm này không
mang lại kết quả như mong muốn vì nó trái với quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, và nó đã để lại những hậu quả
xấu

đối

với

những

người

sản

xuất



nền


kinh

tế

quốc

doanh.

Đây cũng là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người
có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền, đặc lợi.
Nền kinh tế thủ công phổ biến, mới bắt đầu xuất hiện một số ngành sản xuất
tự động. Tuy vậy, nền kinh tế vẫn trong trình độ rất thấp. Vì thế cần tìm mọi cách
để đưa lực lượng sản xuất đi lên, nên cần công nghiệp hóa nền kinh tế nước ta.
II.

Quá trình vân dụng trong thực tế của nước ta sau năm 1986 tới nay
Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra chính sách phát triển kinh tế cũng như

xác định con đường chính trị của nước ta. Nước ta tiếp tục đi theo con đường của
Liên Xô (cũ) là tiến lên chế độ Cộng sản chủ nghĩa mà thời đoạn đầu tiên là tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng vì nước ta vừa thoát khỏi chiến tranh, nền kinh tế vốn
đã nghèo nàn lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nên lực lượng sản xuất thì yếu
kém, quan hệ sản xuất thì lỗi thời lạc hậu, nền kinh tế nước ta đứng sau rất xa so với
thế giới. chính vì thế, Đảng ta chủ trương chính sách “đi tắt đón đầu” để nhanh
chóng theo kịp các nước khác trên thế giới cùng tiến lên Cộng sản chủ nghĩa như nước
ta thời




đó.

Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần là rất đúng đắn, bởi đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất
Trang | 9


của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp, vừa không đồng đều nên không thể
nóng vội mà nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên cơ sở chế
độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước Đại hội VI. Làm như
vậy là đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ lực lượng sản xuất. Mở ra
nền kinh tế nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng
lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc
đẩy sản

xuất

phát

triển.

Ngay trong nội hàm nền kinh tế nhiều thành phần đã chứa đựng nhiều
mâu thuẫn như có những thành phần kinh tế vì lợi ích của mình có thể hoạt động
theo hướng tư bản chủ nghĩa; nền kinh tế quốc doanh, tập thể mang tính chất xã
hội chủ nghĩa nhưng chưa thích nghi được với cơ chế thị trường nên làm ăn kém
hiệu quả, vì vậy ở đây diễn ra cuộc đấu tranh “định hướng” gay gắt. bởi thế, để
thực hiện sự định hướng Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành
phần thì sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước giữ vai trò quyết định.
Để thực hiện chính sách phát triển đất nước bằng con đường “đi tắt đón
đầu”, nước ta đã đề ra và phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hóa – hiện đại

hóa, mà trong thời kì hiện nay thì mục tiêu cụ thể là nước ta trở thành một nước
công nghiệp

hiện

đại

vào

năm

2020.

Trong thời kỳ quá độ đi lên Xã hội chủ nghĩa, nước ta vẫn đnag là một
nước đang phát triển và kém khá xa so với những thành tựu mà thế giới đạt được.
Tuy nhiên, nhờ chính sách phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước, việc áp
dụng khá tốt các thành tựu khoa học – công nghệ và ứng dụng những thành tựu của
thế giới trong công cuộc thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng cơ sở
hạ tầng thì nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng kể.
Ở nước ta hiện nay phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính là
lực lượng sản xuất của doanh nghiệp Nhà nước và lực lượng sản xuất ngoài
quốc doanh.
Trang | 10


Kiểu quan hệ sản xuất – quan hệ sở hữu này hay quan hệ sở hữu khác
tùy thuộc vào tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện nay có trình
độ lực lượng sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, các vùng. Do vậy,
tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xóa ngay mọi hình thức bóc lột. chỉ đến khi trình độ xã

hội hóa sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, thì khi ấy mới có điều kiện chin muồi thực hiện cuộc cách mạng xây dựng xã hội
không còn bóc lột. Chúng ta không thể thủ tiêu chế độ sở hữu ngay lập tức mà chỉ có
thể thực hiện dần dần,và chỉ khi nào đã tạo được một lực lượng sản xuất hiện đại, xã
hội hóa cao với năng xuất lao động rất cao thì khi đó mới xóa bỏ được chế độ tư hữu.
Điểm nổi bật lên là nền kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, vì vậy
khâu trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội. Đồng thời phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều
hình thức sở hữu đan xen nhau) là phù hợp với yêu cầu phát triển mạnh mẽ cảu
lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay. Cùng với đó là không ngừng đổi mới
chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao đời sống tinh
thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo. thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

III.
Những thành tựu và hạn chế
1. Thành tựu
Vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa LLSX và QHSX, sau 20 năm đổi
mới,

nền

kinh

tế

Việt


Nam



nhiều

thành

tựu

to

lớn:

- Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ ngày càng cao. Đầu thập kỉ 90,
nền kinh tế liên tục tăng trưởng ổn định và đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995.
Đặc biệt trong kế hoạch 5 năm (1991-1995), ta đã hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu
Trang | 11


chủ yếu đưa nước ta thực sự thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời
kì đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Toàn bộ các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 19962000 và chiến lược 10 năm đều đạt và vượt kế hoạch. GDP trong 10 năm này tăng
bình quân 7,56%/năm đến GDP 2000 gấp 2,07% lần năm 1990. Đến năm 2000-2002
tốc độ tăng trưởng đạt ổn định 6,7%; 6,8% và 7,0%. Nông nghiệp phát triển toàn diện
cả trồng trọt và chăn nuôi: Sản lượng lương thực tăng nhanh từ 21,5 triệu tấn (1990)
lên 27,5 triệu tấn (1995) và 34,5 triệu tấn (2000), gần 36 triệu tấn (2002), bình quân
mỗi năm tăng 1,4 triệu tấn. Tốc độ tăng lương thực bình quân 5%, cao hơn tốc độ tăng
dân số (1,8%) nên sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 304 kg (1985)
lên 364 kg (1995); 444,8 kg (2000) & 450 kg (2002). Việt Nam từ nước thiếu lương
thực, đến 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Trong 10 năm 1991 2000,

bình quân mỗi năm xuất khẩu gạo tăng 7,6%, cao su tăng 12,4%; cà phê tăng 17,7%;
rau quả tăng 10,8%; hạt tiêu 24,8%; hạt điều tăng 37,5%. Tổng giá trị nông sản xuất
khẩu chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Một nền nông nghiệp hàng hoá hình
thành gắn với thị trường quốc tế. Công nghiệp tăng liên tục, bình quân trong thời kì
1991-1995 tăng 13,7%; 1996-2000 tăng 13,2%. Công nghiệp tăng nhanh là do đầu tư
lớn của nhà nước trong những năm trước đây cho một số ngành quan trọng như dầu
khí, điện, xi măng, thép, giấy, đường… nhưng quan trọng hơn cả là sự đổi mới cơ
chế, chính sách quản lý của nhà nước, xoá bỏ bao cấp, nhận vốn đầu tư nước
ngoài… Hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nâng cấp
trên khắp mọi miền tổ quốc: quốc lộ 1A, 5, 18, sân bay, bến cảng được nâng cấp


xây

dựng.

Thương

mại



dịch

vụ



nhiều


khởi

sắc.

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ: chuyển từ khu vực I
(Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản) sang khu vực II (công nghiệp - xây
dựng) và khu vực III (dịch vụ), chuyển từ khu vực quốc doanh, hợp tác xã sang đa
thành phần và chuyển theo hướng hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền
Trang | 12


Bắc-

Trung-

Nam.

- Đẩy lùi lạm phát: 1986: 774,7%; 1990: 67,4%; 1995: 12,7%; 1997:
3,7%;

1999:

0,1%.

- Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh: kim ngạch xuất khẩu 1996: 882,9
triệu USD; 2001: 15,027 tỉ USD; Nhập khẩu: 2,16 tỉ USD (1986); 16,162 tỉ
USD

(2001).
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank) ra ngày 15/11/2007,


trong phần về Việt Nam nhận định: tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2007 vẫn
vững chắc chủ yếu nhờ nguồn thu từ xuất khẩu phi dầu khí, đầu tư và tiêu dùng
tư nhân. GDP tăng 8,3% trong 9 tháng đầu năm 2007, trong đó ngành chế tạo và
công nghiệp tăng tương ứng 12,5% và 10,2%. Tăng trưởng nông nghiệp đạt
mức 3%, trong đó ngành thủy sản tăng trưởng kỷ lục ở mức 9%. Ngành dịch vụ
đạt tỷ lệ tăng trưởng cao trong 9 tháng qua (ở mức 8,5%) nhờ sự phát triển
mạnh của ngành bán lẻ, du lịch, giao thông và dịch vụ tài chính. Báo cáo cũng
cho biết: cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng lên 10,2 tỉ đô la năm
2006 và 9,6 tỉ đô la trong 9 tháng đầu năm 2007, tăng 38% so với năm ngoái.
Cam kết FDI đã tăng nhanh sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tỷ lệ giải ngân
FDI

tăng

20%

đến

tháng

9/2007,

chiếm

khoảng

6,8%

GDP.


- Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt: lao
động có việc tăng tăng nhanh, mỗi năm tạo 1,3 triệu việc làm mới, thu nhập
bình quân đầu người đạt gần 400 USD/năm . Số hộ giàu tăng > 10%; số hộ
nghèo

giảm

55%

(1989)

còn

11,4%

(2000).

Những thành tựu tăng trưởng và ổn định hoá kinh tế, tình hình xã hội đã
được cải thiện rất nhiều. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm mỗi năm 1‰ và giữ
mức bình quân 2,1%/ năm, giảm so với thời kỳ trước (2,3%) nhưng vẫn cao hơn
mục tiêu đề ra (1,9%). Số người đi học bình quân tính trên 1 vạn dân, tăng từ
Trang | 13


1834

người

(1990)


tăng

lên

2171

người

(1995).

Tỉ trọng chi cho các lĩnh vực xã hội chiếm từ 24,4 - 28,4% tổng ngân sách
nhà nước và có xu hướng tăng lên. Hệ thống y tế được cải thiện, đặc biệt là hệ thống
bảo

hiểm

y

tế.

Tình hình nông thôn được cải thiện thêm một bước. Có khoảng 60,2% số
xã có điện; 86,4% số xã có đường ô tô, 91,6% số xã có trường phổ thông cơ sở.
Những thành tựu đạt được là kết quả của con đường đổi mới do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
2. Hạn chế
Do nền kinh tế nước ta chủ yếu vẫn là nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ
bé, kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật chưa hoàn toàn tiên tiến.
Mặc dù cơ cấu các ngành trong GDP có chuyển dịch rõ rệt nhưng cơ cấu lao động

chậm biến đổi. Hiện nay hơn 70% dân số vẫn sống ở nông thôn, lao động trong nông
nghiệp vẫn chiếm hơn 60% tổng số lao động xã hội. Nền kinh tế có mức tăng trưởng
khá nhưng năng suất, chất lượng, hiệu quả còn thấp. Việt Nam vẫn là một trong những
nước kém phát triển. Đây là thách thức cực kì to lớn cần phát huy mọi tiềm năng để
giải quyết. Vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội còn yếu: khả
năng kiềm chế lạm phát còn chưa vững chắc. Ngân sách thu không đủ chi, tỉ lệ bội chi
ngân

sách

còn

cao.

Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỉ cương vẫn còn
xảy ra. Nạn buôn lậu và tệ quan liêu được coi là quốc nạn, được đưa vào chương trình
nghị sự quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Song hiện nay vẫn chưa chống được, thậm
chí

còn



phần

nghiêm

trọng

hơn.


Ngoài ra, sự thiếu hụt nguồn lực tài nguyên và nạn ô nhiễm môi trường cũng
gây khó khăn cho quá trình CNH-HĐH ở nước ta. Hạn chế trong nền kinh tế xã hội
Trang | 14


nước ta còn nhiều. Nguyên nhân của những yếu kém đó là do hậu quả của nhiều năm
trước để lại khi không hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất, sự phù hợp mang tính tất yếu của chúng, đồng thời những bất lợi của
tình hình thế giới hiện nay và những khuyết điểm còn mang tính chủ quan duy ý chí
trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Trang | 15


PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đảng ta đã vận
dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta đang từng bước điều
chỉnh quan hệ sản xuất cả tầm vĩ mô và quy mô, đồng thời coi trọng việc đẩy
mạnh phát triển lực lượng sản xuất.
Xu hướng của SX vật chất là không ngừng biến đổi phát triển, sự biến đổi phát
triển đó bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi phát triển của LLSX. Trước hết là công cụ
lao động, công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với QHSX hiện có,
đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ QHSX cũ thay thế bằng QHSX mới Quy luật QHSX
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy luật chung phổ biến đối
với sự phát triển của xã hội, chính quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua 5
phương thức: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, CNTB và XHCN.
Nó chi phối toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử. Trong đó LLSX là nội dung, là
quá trình sản xuất. QHSX là hình thức của quá trình sản xuất, hình thức của sản xuất

bao giờ cũng ổn định hơn. Song sự ổn định đó chỉ có tính chất tạm thời sớm muộn nó
cũng thay đổi cho phù hợp. QHSX ra đời từ LLSX, nhưng khi ra đời nó có vai trò tác
động trở lại rất tích cực theo hai khuynh hướng. Nếu QHSX phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX, nó thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh. Nếu ngược lại nó sẽ kìm
hãm sự phát triển của sản xuất. Khi ra đời QHSX quy định mục đích tính chất, khuynh
hướng phát triển của sản xuất, quy định hệ thống quản lí SX, quản lí phân phối và quy
định phân phối ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Việc vận dụng quy luật
QHSX phù hợp với LLSX chính là cơ sở cho việc hoạch định các đường lối đúng và
phê phán các chủ trương, những việc làm sai lầm trong việc xây dựng phương thức
sản xuất mới XHCN ở Việt Nam trong thời kì quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ
Trang | 16


TBCN. Để xây dựng phương thức sản xuất XHCN chúng ta chủ trương xây dựng một
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường với sự quản lí của nhà
nước nhằm phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh LLSX để
xây dựng cơ sở kinh tế của CNXH. Tóm lại chúng ta không chủ trương gạt bỏ cái cũ
để có cái mới mà thực hiện sự chuyển hoá cái cũ thành cái mới.

Trang | 17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giào dục và Đào tạo, giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin”,
NXB.

Chính

trị


Quốc

gia,

2009

2. Bộ giáo dục đào tạo, Giáo trình “Triết học Mác – Lê-nin”, NXB. Chính trị quốc gia, 2004
3. PGS. TS. Trần Văn Phòng – PGS. TS. An Như Hải – PGS. TS. Đỗ Thị Thạch, “Hỏi – đáp
Môn
Đại

Những

nguyên
học





quốc

bản

của
gia

chủ


nghĩa


Mác



Lê-nin”,

Nội,

NXB.
2011

4. Bạch Đăng Minh, “Những nội dung cơ bản của triết học Mác – Lê-nin”, NXB. Chính trị
quốc

gia,

1997

5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh “ hỏi – đáp về Triết học”, Hà Nội – 1995

Trang | 18



×