I. Cơ sở lý thuyết
1. Văn hóa và nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Người
đã khẳng định: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý
đến và phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Nói đến
dân tộc là nói đến văn hoá, bản sắc văn hoá và nói đến văn hoá là nói đến dân tộc, bản
sắc dân tộc. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động
,sáng tạo, giá trị vật chất tinh thần của con người tạo ra bằng lao động và hoạt động
thực tiễn trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã
hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố
xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc . Văn hoá là biểu hiện của trình độ phát triển
xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định .
Theo Từ điển tiếng Việt(1), thuật ngữ "bản sắc" dùng để chỉ tính chất, màu sắc
riêng tạo thành phẩm chất đặc biệt của một sự vật tức là nói tới sắc thái, đặc tính, đặc thù
riêng của sự vật đó. Trong thực tế, khi nói "bản sắc" thường là nói tới cái riêng, cái rất
riêng của một sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác trong thế giới khách quan. Quan
niệm này cũng gần với một phương pháp định nghĩa trong Lôgic học là định nghĩa "qua
giống gần gũi để chỉ ra sự khác biệt về loài". Cách định nghĩa này có phần nhấn mạnh cái
riêng, cái đặc thù, cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất sự vật. Bản sắc dân tộc bao
gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng
yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết
cá nhân –gia đình –làng xã-Tổ quốc. đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo
lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong
lối sống…Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc độc đáo. Có thể nói bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính
cách, khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh
3
tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống
nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển. Sức mạnh và sức
sáng tạo này có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi trường xã hội- tự
nhiên và với quá trình lịch sử mà dân tộc ta đã tồn tại.
Nói chung, bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân
tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh
tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển. Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng
tạo trong văn hóa, khoa học, văn học nghệ thuật…., nhưng được thể hiện sâu sắc nhất
là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì
nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lựa chọn trong
hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã
hội và sự vững vàng của chế độ. Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể
chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển
theo quá trình hội nhập kinh tế thế giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia
khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ
trương xây dựng và hoàn thiện các giá nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải
được thấm đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các
thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo…,sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt
động chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái
Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa nhân loại, song phải luôn luôn phát huy
những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao
lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc, gắn kết với mở rộng
giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân
tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu
văn hóa với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương
đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và và quốc tế.
4
Xây dựng văn hóa là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Có chính sách đầu tư thích
đáng cho văn hóa, văn nghệ. Phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ của Nhà
nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Cùng
với đó , giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong
phong tục, tập quán và lề thói cũ.
2. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc
Đảng ta xác định: "Văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn
hóa", vì vậy, "phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải
tạo xã hội" và "Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong"; đồng thời, đề ra
ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới: Dân tộc, đại chúng, khoa học. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, ba nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa mới đã trở thành ngọn
cờ cổ vũ, động viên, tập hợp đông đảo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá
cứu quốc và soi đường cho các hoạt động của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, tạo thành
sức mạnh tinh thần to lớn, động viên, cổ vũ nhân dân ta tiến hành cuộc Tổng khởi
nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa và Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu. Trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo đội ngũ
văn nghệ sĩ, trí thức quán triệt sâu sắc nguyên tắc tính dân tộc, tính đại chúng, tính
khoa học của Đề cương Văn hóa Việt Nam; kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua mấy nghìn năm dựng và giữ nước, đồng thời tiếp
thu chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại, sáng tạo ra những tác phẩm văn hóa nghệ
thuật kiệt xuất, phục vụ kịp thời cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sức
mạnh nội sinh của văn hóa đã được phát huy mạnh mẽ, tiếp thêm sức mạnh cho dân
tộc, trở thành niềm cổ vũ, động viên to lớn đối với quân và dân hai miền Nam - Bắc;
nâng cao tinh thần yêu nước, thôi thúc mạnh mẽ phong trào thi đua giữa tiền tuyến và
hậu phương, quyết tâm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ
cút, đánh cho ngụy nhào”, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện, Đảng đã chủ
trương đổi mới tư duy trên lĩnh vực văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị (Khóa
VI) đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW về lãnh đạo văn hóa - văn nghệ trong cơ
chế thị trường. Nghị quyết đã xác định những định hướng lớn chỉ đạo việc đổi mới và
5
nâng cao chất lượng phê bình văn học - nghệ thuật; công tác quản lý văn học - nghệ
thuật và một số nhiệm vụ văn hóa - văn nghệ Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng
Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm 1998, đã ra Nghị quyết chuyên đề về: "Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", xác định những quan điểm cơ bản:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm chỉ rõ vai trò to lớn của văn hóa
trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước. văn hóa không phải là kết quả
thụ động, yếu tố đứng bên ngoài, bên cạnh hoặc đi sau kinh tế, phụ thuộc hoàn toàn
vào trình độ phát triển kinh tế mà văn hóa vừa là mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy kinh
tế. “Văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng
gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan
hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp".
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân
tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu
tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con
người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lòng nhân
ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế
trong ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu
tranh chống giặc ngoại xâm …
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Đây là tư tưởng tiến bộ và nhân văn, phù hợp với thực
tiễn của cộng đồng 54 dân tộc đang sinh sống ở Việt Nam và xu thế chung của cộng
đồng quốc tế đang hướng tới xây dựng một công ước quốc tế về đa dạng văn hóa hiện
nay.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm xác định trách nhiệm
6
của mọi người dân Việt Nam đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa
nước nhà; công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, đồng thời là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân, giữ vai trò quan
trọng, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Năm là, văn hóa là một mặt trận. Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Quan điểm chỉ rõ: Cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa hiện nay
đang diễn ra hết sức nóng bỏng, quyết liệt, phức tạp. Văn hóa là một lĩnh vực hết sức
nhạy cảm và khác với các hoạt động kinh tế. Tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật
chất, nhưng các hoạt động văn hóa luôn mang ý nghĩa chính trị - xã hội, có tác động
sâu sắc đối với đời sống tư tưởng, tình cảm, tâm lý, tập quán cộng đồng. Vì vậy, cần
phải tiến hành một cách kiên trì, thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, duy ý chí; phát
huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong xây
dựng và phát triển văn hóa; đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động của xã
hội, vào từng con người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, cũng như mọi lĩnh
vực sinh hoạt và quan hệ con người trong xã hội.
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) đã tiến thêm một
bước về khẳng định vai trò của văn hóa: "Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng
nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba
lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền
vững của đất nước".Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục nhấn
mạnh, phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao chất lượng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; quan tâm chăm lo xây dựng, hoàn
thiện những phẩm giá nhân cách tốt đẹp của con người Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, để chủ động đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa
và ngăn chặn "luồng văn hóa độc hại" xâm nhập vào nước ta từ nhiều con đường khác
nhau, Bộ Chính trị (khóa X) đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TƯ “Về tiếp
7
tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, định hướng cho
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo vệ "bản sắc văn hoá dân tộc”
trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Bộ Chính trị yêu cầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận,
đoàn thể các cấp và đội ngũ đảng viên, cán bộ tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa và chung tay góp sức, kiên quyết ngăn ngừa, phòng, chống sự xâm
nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống và đạo
đức xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 25 năm đổi mới, lĩnh vực văn hóa đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng. Tư tưởng, đạo đức và lối sống của cán bộ,
đảng viên và nhân dân đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều giá trị mới về văn
hóa, chuẩn mực đạo đức được khẳng định và nhân rộng trong xã hội. Phong trào
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" và Cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào thi đua yêu nước ngày càng
được mở rộng và từng bước đi vào thực chất trong đời sống xã hội. Công cuộc bảo tồn
và phát huy các di sản văn hoá của dân tộc đã đạt được nhiều tiến bộ. Nhiều di sản văn
hoá vật thể, phi vật thể được bảo vệ và phát huy giá trị. công tác xã hội hoá đã thu hút
được đông đảo các tổ chức và cá nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hoá, góp phần tích cực gìn giữ bản sắc văn hóa, phát huy những giá trị truyền thống
tốt đẹp trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc, dần loại bỏ những sự lỗi thời, lạc hậu.
3. Tầm quan trọng của xây dựng văn hóa trong môi trường đại học
Riêng về văn hóa giáo dục, văn hóa học đường là một trong những tiêu chí quan
trọng để đánh giá sự phát triển của một nền giáo dục. Trong môi trường này tất cả các
chủ thể tham gia từ người học đến nhà quản lý, giáo viên, nhân viên đều phải tuân thủ
pháp luật, quy định, rèn chuẩn mực, thầy không ra thầy, trò không ra trò thì nhà
trường không thể giữ được chức năng truyền tải, giáo dục văn hóa. Mặt khác, văn hóa
học đường là môi trường để giáo dục và rèn luyện nhân cách con người, đặc biệt là thế
hệ trẻ. Nếu môi trường học đường bị ô nhiễm thì nhà trường không thực hiện được
chức năng truyền tải tri thức, các giá trị, chuẩn mực văn hóa đến thế hệ trẻ. Xây dựng
truyền thông, văn hóa giáo dục là yếu tố then chốt đối với việc định vị thương hiệu, uy
tín của cơ sở đào tạo. Trong môi trường đại học hiện nay, đa số các chủ thể tham gia
vào quá trình giáo dục vẫn giữ được giá trị, nét đẹp của nền giáo dục truyền thống.
Đặc biệt, chuẩn mực đạo đức yêu trò, kinh thầy vẫn là tư tưởng chủ đạo. Bên cạnh đó,
8
trước những tác động của kinh tế thị trường, sự bùng nổ của công nghệ thông tin,
những năm vừa qua, môi trường giáo dục Việt Nam có những biểu hiện tiêu cực. Tuy
nhiên, có một điểm đáng lưu ý là sự vi phạm văn hóa học đường không chỉ xuất hiện
từ phía người học mà không ít trường hợp đến từ thầy cô, những người đáng lẽ là
khuôn mẫu đạo đức, văn hóa trong môi trường giáo dục.
Việt Nam, với sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vào những năm gần đây, văn hoá tổ chức đã được nhận diện như một tiêu chí
khi xây dựng hoạt động của các tổ chức mang tính chuyên nghiệp. Điều đó chứng tỏ
khái niệm văn hoá tổ chức tuy còn mới mẻ đối với Việt nam nhưng các tổ chức đã ý
thức được tầm quan trọng của văn hoá tổ chức. Và hơn bất cứ tổ chức nào hết trong xã
hội, Nhà trường phải là tổ chức có “hàm lượng” văn hoá cao nhất; là nơi hội tụ, kết
tinh văn hoá để đào tạo ra những chuẩn mực văn hoá cho xã hội.
-
Về góc độ tổ chức, văn hóa được coi như một mẫu thức cơ bản, tạo ra một
môi trường quản lý ổn định, giúp cho Nhà trường thích nghi với môi trường
bên ngoài, tạo ra sự hoà hợp môi trường bên trong. Một tổ chức có nền văn
hóa mạnh sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. Văn hóa sẽ giúp cho
Nhà trường thực sự trở thành một trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi hội tụ
sức mạnh của trí tuệ và lòng nhân ái trong xã hội, góp phần quan trọng tạo
nên sản phẩm giáo dục toàn diện.
-
Đối với đội ngũ Cán bộ giáo viên Nhà trường, văn hóa thúc đẩy sự sáng tạo
cá nhân, tạo nên tình thương yêu chân thành giữa các thành viên và đảm
bảo cho sự hợp tác vì mục tiêu chung. Thầy cô giáo là người trực tiếp tham
gia hoạt động dạy học. Và hơn ai hết, chính Nhân cách Nhà giáo sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới nhân cách học trò. Vì vậy, chúng ta rất cần những Nhà
giáo ngoài kiến thức chuyên môn, phải hiểu biết rộng về cuộc sống, có kiến
thức sâu sắc về văn hóa xã hội.
-
Đối với học sinh sinh viên, văn hóa tạo nên giá trị đạo đức và có vai trò điều
chỉnh hành vi. Khi được giáo dục trong một môi trường văn hóa và thấm
nhuần hệ giá trị văn hóa, học trò không những hình thành được những hành
vi chuẩn mực mà quan trọng hơn là ẩn chứa trong tiềm thức các em là niềm
tin nội tâm sâu sắc vào những điều tốt đẹp, từ đó, khao khát cuộc sống
9
hướng thiện và sống có lý tưởng. Đồng thời, Văn hóa Nhà trường còn giúp
các em về khả năng thích nghi với xã hội. Một con người có văn hóa thì
trong con người đó luôn hội tụ đầy đủ những giá trị đạo đức căn bản, đó là
đức tính khiêm tốn, lễ độ, thương yêu con người, sống có trách nhiệm với
bản thân và xã hội... Do vậy, khi gặp những tình huống xã hội phát sinh, dù
là những tình huống mà các em chưa từng trải nhưng nhờ vận dụng năng
lực văn hóa để điều tiết hành vi một cách hài hòa, các em có thể tự điều
chỉnh mình phù hợp với hoàn cảnh, ứng xử hợp lẽ, hợp với lòng người và
cuộc sống xung quanh.
II. Thực trạng áp dụng quan điểm về văn hóa trong môi trường đại học
1. Về giao tiếp và ứng xử giữa sinh viên với nhau
Sinh viên là một thế hệ trẻ, một thế hệ tri thức thế nên các vấn đề về kỹ năng mềm
của sinh viên là vô cùng cần thiết trong đó có văn hóa giao tiếp ứng xử. Hầu hết sinh
viên Việt Nam hiện nay khá khôn khéo trong việc giao tiếp của mình, mặc dù vậy
cũng còn một số người chưa thực sự chú ý và phạm phải những sai lầm ngoài mong
muốn trong văn hóa ứng xử hàng ngày.
Để trở thành người lao động có trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng ứng
xử trong công việc nói riêng và trong cuộc sống nói chung, mỗi sinh viên không chỉ
bồi dưỡng cho mình về kiến thức chuyên môn mà cả về khả năng giao tiếp, ứng xử.
Có thể nói văn hóa ứng xử góp phần không nhỏ trong sự thành đạt của mỗi người.
Hiện nay, đa số sinh viên biết ứng xử trong quan hệ giao tiếp nhưng cũng không ít
sinh viên còn lúng túng, thiếu tinh tế về vấn đề này.
Hiện nay, số lượng sinh viên đại học ngày càng tăng. Với lứa tuổi đôi mươi, phong
cách sống trẻ trung, năng động, có hiểu biết, các em đã góp phần làm đẹp cho xã hội.
Những hành động cao cả, đầy nghĩa khí của sinh viên như quên mình cứu người, giúp
đỡ quan tâm động viên những bạn sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, kính trọng thầy
cô giáo, biết thương yêu cha mẹ, anh chị em, có thái độ phản kháng với những ứng xử
không đẹp mắt của bạn bè và những người khác đang ngày càng được xã hội ghi nhận.
Hiện nay, cả nước có khoảng 2,2 triệu sinh viên, chiếm một phần khá lớn trong cơ cấu
dân số nước ta. Với số lượng đông đảo như vậy đã hình thành nên cộng đồng sinh
viên, mang lối sống riêng biệt với những đặc điểm có tính đặc thù tiêu biểu. Sinh viên
10
lại là tương lai, là niềm hi vọng của đất nước, ấy vậy mà hiện nay các phương tiện
truyền thông liên tục đưa tin phản ánh: Một bộ phận sinh viên có những biểu hiện
chưa tốt, làm trái với chuẩn mực đạo đức truyền thống, có những lối sống, hành vi
lệch lạc.
Ứng xử của sinh viên với bạn bè cũng là một nội dung quan trọng trong văn hóa
học đường. Sinh viên thường có tinh thần nghĩa hiệp. Khi bạn bè gặp khó khăn sẵn
sàng chia sẻ, động viên. Một lời cảm ơn, xin lỗi nhẹ nhàng chân thành có thể để lại
một ấn tượng tốt, có thể giải tỏa được những vướng mắc tạo nên mâu thuẫn không
đáng có. Nhưng một số sinh viên thường có thái độ quá khích, thiếu bình tĩnh khi bạn
bè làm mình không hài lòng. Vì vậy, chỉ một cái nhìn “không bình thường”, chỉ một
va chạm nhẹ, một mâu thuẫn nhỏ là có thể có những lời nói thô tục, khiếm nhã, thậm
chí gây gổ, đánh nhau. Trong giao tiếp ứng xử sinh viên với sinh viên hiện nay đã có
nhiều sự thay đổi. Trong suy nghĩ của các bạn sinh viên, bạn bè với nhau không cần
quá câu nệ, chuẩn mực trong lời nói. Trên thực tế thì đúng là như vậy, nhưng việc
không quá cầu kỳ trong lời ăn tiếng nói không có nghĩa là thay vào đó những câu nói
tục, chửi bậy, chửi thề, những từ đệm thêm vô nghĩa... Điều đó rõ ràng chẳng thể làm
vốn từ ngữ tiếng Việt của các bạn giàu có thêm, phong phú thêm, độc đáo thêm mà
còn làm mất đi vẻ đẹp, vẻ thuần túy trong tiếng Việt của chúng ta. Đặc biệt trong môi
trường học đường, nơi học tập nghiên cứu, tiếp nhận tri thức quý báu, thì những lời
nói không hay đó thật là không phù hợp đúng không nào?
2. Về trang phục và cách ăn mặc của sinh viên hiện nay
Không như học sinh phổ thông thường mặc theo mẫu đồng phục, khi lên đại học,
sinh viên được thoải mái hơn, nhưng không vì thế mà coi thường phép lịch sự và tính
thẩm mỹ trong cách ăn mặc.
Trước đây, Bộ Giáo dục & Đào tạo chưa có quy định về trang phục của học sinh,
sinh viên, những mốt thời trang mới nhất được nhiều sinh viên ở thành thị chưng diện
khi lên giảng đường. Không phủ nhận những trang phục đó là đẹp với tuổi trẻ, nhưng
e rằng làm mất đi tính văn hóa trong môi trường sư phạm. Nếu ở bậc học THPT, hầu
như các trường đều bắt học sinh mặc đồng phục khi đến trường thì lên Đại học, như
một sự giải phóng khỏi khuôn khổ do nhà trường quy định, sinh viên có thể thoải mái
mặc những gì mình thích. Nhưng đôi khi, chính sự thoải mái trong môi trường Đại
11
học, khiến nhiều sinh viên ăn mặc theo phong cách thái quá, vượt qua giới hạn về văn
hóa ăn mặc trong môi trường sư phạm. Tuy nhiên không phải vì thế mà sinh viên chỉ
quan tâm đến cá tính trong ăn mặc của mình mà bỏ quên các giá trị về thẩm mỹ, lịch
sự. Chính vì sự thả lỏng trong nội quy của các trường đại học mà một bộ phận các bạn
sinh viên hình thành suy nghĩ mang tính cá nhân là mặc những trang phục mình thích
chứ không quan tâm rằng nó có phù hợp hay không. Điều này khiến một số bạn trở
nên quá phóng túng trong việc ăn mặc. Không khó để bắt gặp các kiểu trang phục như
váy quá ngắn, áo khoét cổ sâu, mỏng, quần rách rưới. Một số lại quá xuề xòa trong
cách phục sức như mặc quần đùi, đi dép tông đến trường. Những điều này vô hình
chung làm trang phục trong các trường đại học trở nên lộn xộn thậm chí nhiều khi trở
thành phản cảm, nhố nhăng. Đối diện với “trường phái” cá tính, không ít bạn trẻ cho
rằng lên đại học, không nhất thiết phải ăn mặc quá cầu kì mới thể hiện được cái “tôi”
của mình, bởi kiến thức mới là thứ đáng lưu tâm nhất và nên chọn trang phục sao cho
phù hợp với môi trường sư phạm. Có rất nhiều bạn sinh viên có lối ăn mặc giản dị,
gọn gàng nhưng vẫn đẹp và không hề lỗi. Nhiều trường đại học, cao đẳng vẫn có hoạt
động mặc áo đồng phục hay áo đoàn vào một số ngày đặc biệt. Nhiều bạn cũng phải
công nhận rằng, nhiều khi không phải quá cầu kỳ trau chuốt mà chỉ cần sạch sẽ, gọn
gàng cũng đã làm cho chủ nhân khoác lên mình những trang phục đó trở nên lịch sự,
bắt mắt. Cũng chính một phần bởi vì nét đẹp xuất phát từ những gì bình dị, đơn giản
và thời trang không nằm ngoài xu hướng đó.
Phải chăng càng học lên cao, văn hóa ăn mặc của một số sinh viên lại càng đi
xuống thấp? Mặc như thế nào khi lên giảng đường cũng chính là thể hiện thái độ của
sinh viên đối với thầy cô giáo của mình. Đôi khi, văn hóa mặc của sinh viên cũng làm
cho nhiều thầy cô không thoải mái mỗi khi lên lớp giảng dạy. Thừa nhận, những người
trẻ là người đón đầu trào lưu mới. Và văn hóa ăn mặc du nhập từ nước ngoài cũng
được sinh viên tiếp nhận nhanh chóng là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, chúng
ta phải biết mặc ở đúng nơi, đúng chỗ, đúng hoàn cảnh. Tự do ăn mặc là điều tất yếu,
song bạn phải tôn trọng những nơi mà bạn đến để có trang phục phù hợp. Đừng biến
giảng đường đại học thành một sân khấu thời trang cho mình phô trương. Thay vào
đó, hãy thể hiện trình độ văn hóa mặc của bạn ngay chính tại giảng đường.
12
Cũng chính từ vấn đề nên ăn mặc thế nào khi lên giảng đường, thay vì để sinh
viên ăn mặc theo sở thích cá nhân, một số trường như Đại học Ngoại Ngữ – Đại học
Quốc Gia Hà Nội, Đại học Ngoại Giao thậm chí đã ra nội quy yêu cầu sinh viên phải
mặc đồng phục hay mặc áo có cổ, quần tây, đi dép có quai khi lên lớp vào một số ngày
nhất định trong tuần. Tuy nhiên, những quy định trên không tránh khỏi việc vấp phải
sự phản đối của một bộ phận sinh viên hay các nhà quản lý giáo dục khác bởi họ lo
ngại đánh mất sự tự do, cá tính của mình.Sinh viên là lớp người được xã hội coi là có
học thức (tuy mới chỉ là bước đầu), cho nên cần thể hiện rõ tính văn hóa trong phép
ứng xử cũng như cách ăn mặc, nhất là khi đến giảng đường. Nhiều khi mặc đơn giản
mà vẫn đẹp và lịch sự. Ngược lại, ăn mặc cầu kỳ một cách lố lăng hoặc quá “đơn
giản” theo kiểu “thiếu vải” thì dễ gây phản cảm cho mọi người, nhất là không biết tôn
trọng thầy cô giáo. Có lẽ, để có môi trường giảng dạy nghiêm túc, đứng đắn, một quy
định chung trong trang phục là cần thiết. Tuy nhiên quy định đó sẽ không cần thiết
phải đặt ra khi sinh viên có thể tự ý thức đối với các chuẩn mực đạo đức, văn hóa ăn
mặc. Trong xu thế toàn cầu hóa, giới trẻ tiếp thu nhanh chóng các văn hóa mới về thời
trang và giảng viên cũng đã thoải mái hơn trong tư tưởng về trang phục, vậy nên để
không làm mất đi nét đẹp văn hóa, thuần phong mỹ tục truyền thống lâu đời, mỗi nhà
trường cũng cần quan tâm hơn về vấn đề này.
3. Về vấn đề ứng xử với môi trường cảnh quan
Môi trường là tài nguyên chung của mọi người và tài nguyên này đang bị ô nhiễm
trầm trọng. Hiện nay, bất cứ môi trường nào cũng có hiện tượng ô nhiễm ngay cả khu
vực nơi trường học nơi để giáo dục con người chúng ta có ý thức hơn.
Vấn đề rác thải là vấn đề nan giải của toàn xã hội, trong đó khu vực giảng đường,
nơi tập trung rất đông những bạn trẻ được xem là chủ nhân tương lai của đất nước.
Việc bảo vệ môi trường là vấn đề rất bức thiết trong cuộc sống của chúng ta hiện nay.
Trong môi trường học đường thì lâu nay sự “ô nhiễm” vẫn tồn tại nhưng lại bị mọi
người bỏ quên, và chính học sinh, sinh viên những người được xem là chủ nhân tương
lai của đất nước cũng thể hiện ra ý thức rất kém trong việc giữ gìn vệ sinh trong môi
trường lớp học. Nhưng điều đáng buồn là, ở bất cứ trường học nào thì cảnh tượng sinh
viên vẫn thản nhiên xả rác bừa bãi, vẫn vô tư làm bẩn môi trường xung quanh của
chính họ. Vẫn còn đó những hiện tượng vứt giấy, rác vỏ của bao bì đựng quà vặt, bã
13
kẹo cao su… Chính các việc làm thiếu ý thức này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cảnh quan khuôn viên trường học và làm ô nhiễm bầu không khí học tập và giảng dạy,
sinh học, vui chơi của chính các bạn sinh viên và những người xung quanh. Không chỉ
là hành động xả rác bừa bãi, nhiều bạn còn vẽ bậy trên bàn học, trên tường và có
nhiều hành động vô ý thức khác. Nguyên nhân chính của việc thiếu ý thức trong việc
giữ gìn và bảo vệ môi trường học đường chủ yếu là do thói quen lười biếng và lối
sống ích kỷ chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân của mình. Trong suy nghĩ của họ, những
nói công cộng như trường học, lớp học, công viên,… những nơi mà không phải nhà
trường thì không cần phải mất công gìn giữ vì đã có đội lao công dọn dẹp được thuê
để họ làm những công việc đó. Bên cạnh đó việc xả rác bừa bãi đã là thói quen đã có
từ lâu, khó sửa đổi khi ở các lớp học. Mặc dù được giảng viên và các bạn cán sự luôn
thường xuyên nhắc nhở nhưng vẫn không thể nào giữ cho lớp học sạch đẹp.
Việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong các nhà trường chưa được chú trọng
đúng mức. Ý thức bảo vệ môi trường chưa được hình thành rõ nét trong các tầng lớp
học sinh, sinh viên và thậm chí là cả ở một số giáo viên. Việc này được thể hiện rõ qua
các hoạt động trong khuôn viên trường học, tình trạng ít cây xanh hoặc không có cây
xanh vẫn còn phổ biến, học sinh, sinh viên vứt rác bừa bãi, hút thuốc lá khi đến trường
vẫn còn diễn ra hàng ngày. Trong khuôn viên trường học có những thùng rác lớn để
chứa rác được bố trí khắp nơi nhưng rác vẫn được vứt chỏng chơ trên sân trường. Bên
cạnh đó, tình trạng sử dụng điện nước, lãng phí cũng trở nên “quen thuộc” trong các
nhà trường. Dường như tâm lý “dùng của chùa” vẫn còn tồn tại nên ở nhiều trường
học, phòng học thì quạt, điều hòa nhiệt độ, các thiết bị chiếu sáng được sử dụng một
cách lãng phí.
4. Nguyên nhân của thực trạng
Văn hóa đang là vấn đề đáng báo động với sinh viên Việt Nam nói riêng và toàn xã
hội nói chung do các hành vi thiếu ý thức cùng lối suy nghĩ chưa đúng chuẩn mực xã
hội trong một bộ phận không nhỏ sinh viên Việt Nam hiện nay. Qua quá trình tìm hiểu
thực trạng, nhóm nghiên cứu đã phân tích và tổng hợp nên những nguyên nhân như
sau:
Đầu tiên, về thực trạng ứng xử thiếu ý thức đối với môi trường sống, chúng tôi
nêu ra những nguyên nhân như sau. Đầu tiên lý do khiến sinh viên chưa có thái
14
độ đúng đắn trước môi trường sống do thiếu sự hiểu biết về tầm quan trọng của
môi trường cảnh quan. Điều này chủ yếu là do công tác tuyên truyền, giáo dục
của ta chưa nhấn mạnh và thực hiện thiếu hiệu quả cần thiết về vấn đề này.
Thêm vào đó, chế tài xử phạt những hành vi chưa chuẩn mực đối với cảnh
quan còn quá nhẹ hoặc thiếu sót nên tính răn đe không cao đối với tầng lớp
người trẻ. Do đó, hiện trạng này ngày một xấu đi và trở thành nếp văn hóa
không đẹp trong một bộ phận không nhỏ sinh viên Việt Nam.
Thứ hai, về trang phục và cách ăn mặc. Theo khảo sát của Bộ Văn hóa –
Truyền thông và Du lịch năm 2018, gần 40,9% sinh viên có xu hướng tiếp thu
thời trang thế giới, theo đuổi mốt của các thần tượng và ngôi sao thời trang. Vì
vậy, việc sinh viên định hình phong cách ăn mặc chưa phù hợp một phần do xu
hướng độ tuổi nhưng quan trọng hơn là do cơ chế quản lý truyền thông của các
bộ, ban, ngành còn chưa thật sát sao, nghiêm khắc trong sai phạm về phục
trang của giới trẻ nói riêng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Từ đó,
sinh viên có hành vi ăn mặc không phù hợp, theo quan niệm cá nhân mà không
định hình chuẩn theo văn hóa cộng đồng, làm phai nhạt bản sắc dân tộc và
thiếu thẩm mỹ.
Cuối cùng, trong giao tiếp giữa các sinh viên: một vấn đề thường xảy ra phổ
biến trong hầu hết các trường là sinh viên giao tiếp với nhau, thường sử dụng
những câu tục để nhấn mạnh điều mình muốn nói như một thói quen. Điều này
do ảnh hưởng của văn hóa bạo lực, thiếu lành mạnh chưa được quản lý kịp thời
đúng mức, dẫn đến thâm nhập sâu vào tầng lớp sinh viên thành một thói quen
khó sửa đổi. Thêm vào đó, quan niệm sai lệch, nhận thức thiếu sót về tầm quan
trọng của ngôn từ khiến sinh viên dễ dãi, buông lỏng trong lời nói và cử chỉ,
gây nên sự mất mỹ quan và ảnh hưởng đến không gian công cộng. Nguyên
nhân của thực trạng này sâu sa do chính sách giáo dục của ta hiện nay, trước
đây chưa có sự chú trọng đúng mực trong việc định hướng lời nói, hành động
của các em học sinh, đồng thời việc tuyên truyền, phổ biến lời nói, văn hóa
công cộng của các cấp chính quyền, các cơ quan đoàn thể cũng là một phần
nguyên nhân của hiện trạng trên.
Trước những biểu hiện ngày một xấu đi về văn hóa của sinh viên Việt Nam
trong thời gian gần đây, chúng em đã phân tích, chỉ ra những nguyên nhân từ phía
15
sinh viên như thiếu nhận thức, chạy theo trào lưu, chưa ý thức hậu quả hành vi thiếu
văn hóa cũng như những nguyên nhân khách quan từ môi trường và xã hội như sự
thiếu quản lý của các cấp có thẩm quyền, công tác giáo dục, định hướng văn hóa còn
hạn chế…Từ việc tìm hiểu những nguyên nhân trên chúng em nhằm mục đích tìm ra
được giải pháp hiệu quả để nâng cao văn hóa trong tầng lớp sinh viên nói riêng và
toàn xã hội nói chung.
III.
Giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc trong môi trường đại học
1. Đối với nhà trường
Những giải pháp của nhà trường để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường đại học:
-
Nhà trường cần xây dựng một môi trường văn hóa đẹp, văn minh, dân chủ, đề
cao các chuẩn mực xã hội cho giảng viên và sinh viên nói chung để từ đó mỗi
người là một nhân tố có thể lan tỏa ra cả xã hội về những nét ứng xử đẹp. Văn
hoá nhà trường là hệ thống niềm tin, giá trị, chuẩn mực, thói quen và truyền
thống hình thành trong quá trình phát triển của nhà trường, được các thành viên
trong nhà trường thừa nhận, làm theo và được thể hiện trong các hình thái vật
chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc riêng cho mỗi tổ chức sư phạm.Văn hoá
nhà trường có đầy đủ đặc tính của văn hoá tổ chức song nó có những đặc trưng
riêng. Văn hoá nhà trường liên quan đến toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần
của một nhà trường. Nó biểu hiện trước hết trong tầm nhìn, sứ mạng, triết lý,
mục tiêu, các giá trị, phong cách lãnh đạo, quản lý... bầu không khí tâm lý. Thể
hiện thành hệ thống các chuẩn mực, các giá trị, niềm tin, quy tắc ứng xử... được
xem là tốt đẹp và được mỗi người trong nhà trường chấp nhận.
-
Trong mỗi nhà trường, văn hóa tồn tại một cách tự nhiên, khách quan. Do vậy,
nhà trường nào cũng có văn hóa của riêng mình, chỉ có điều bản chất của thứ
văn hóa đó là gì? Các giá trị của nó ra sao? Văn hóa đó được hình thành tự phát
hay là kết quả của cả một quá trình xây dựng có chủ đích rõ ràng của quản lý
nhà trường cũng như sự thống nhất của tập thể sư phạm? Còn nữa, nhà trường
đó có ý thức rõ những điểm mạnh để phát huy và điểm chưa mạnh để khắc
phục hay không? Phát triển văn hóa nhà trường không phải
16
chuyện ngày một ngày hai mà cần có những bước đi phù hợp. Có nhiều mô
hình được các nhà nghiên cứu đề xuất.
Dưới đây, chúng tôi xin đề xuất mô hình xây dựng văn hóa nhà trường dựa trên cơ sở
mô hình xây dựng văn hóa tổ chức gồm 11 bước cụ thể do hai tác giả Julie Heifetz &
Richard Hagberg đề xuất.
Đầu tiên cần tìm hiểu môi trường và các yếu tố ảnh hưởng tới chiến lược phát
triển của nhà trường trong tương lai xem những yếu tố nào có ảnh hưởng nhất
làm thay đổi chiến lược phát triển của tổ chức nhà trường.
Tiếp đó là xác định đâu là giá trị cốt lõi làm cơ sở cho thành công. Đây là bước
cơ bản nhất. Các giá trị cốt lõi phải là các giá trị không phai nhòa theo thời gian
và là trái tim và linh hồn của nhà trường. Xây dựng tầm nhìn – một bức tranh
lý tưởng trong tương lai – mà nhà trường sẽ vươn tới. Đây là định hướng để
xây dựng văn hóa nhà trường, thậm chí có thể tạo lập một nền văn hóa trường
lai cho nhà trường khác hẳn trạng thái hiện tại.
Bên cạnh đó đánh giá văn hóa hiện tại và xác định những yếu tố văn hóa nào
cần thay đổi. Văn hóa thường tiềm ẩn, khó thấy nên việc đánh giá là cực kỳ khó
khăn, dẽ gây nhầm lẫn vì các chủ thể văn hóa vốn đã hòa mình vào nền văn hóa
đương đại, khó nhìn nhận một cách khách quan sự tồn tại của những hạn chế và
những mặt trái, mặt tiêu cực cần thay đổi. Tập trung nghiên cứu, đề xuất giải
pháp làm gì và làm thế nào để thu hẹp khoảng cách của những giá trị văn hóa
hiện có và văn hóa tương lai của nhà trường.
Tiếp theo, xác định vai trò của lãnh đạo trong việc dẫn dắt thay đổi và phát
triển văn hóa nhà trường. Lãnh đạo phải thực hiện vai trò người đề xướng,
người hướng dẫn các nỗ lực thay đổi. Lãnh đạo lại có vai trò hoạch định tầm
nhìn, truyền bá cho mọi thành viên nhận thức đúng tầm nhìn đó, có sự tin tưởng
và cũng nỗ lực thực hiện; cũng như chính lãnh đạo là người có vai trò xua đi
những đám mây ngờ vực, lo âu của các thành viên trong tổ chức nhà trường.
Soạn thảo một kế hoạch, một phương án hành động cụ thể, chi tiết tới từng
việc, từng người, phù hợp với các điều kiện thời gian và nguồn lực khác để có
thể thực thi được kế hoạch đó.
17
Thêm vào đó cần phổ biến nhu cầu thay đổi, viễn cảnh tương lai để mọi người
cùng chia sẻ, từ đó, động viên tinh thần, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ giáo
viên trong nhà trường có sự đồng thuận, hiểu rõ vai trò, vị trí, quyền lợi và
trách nhiệm của mình trong việc nỗ lực tham gia xây dựng, phát triển văn hóa
mới cho nhà trường. Giúp cho mọi người, mọi bộ phận nhận rõ những trở ngại
của sự thay đổi một cách cụ thể, từ đó, động viên, khích lệ các cá nhân mạnh
dạn từ bỏ thói quen cũ không tốt, chấp nhận vất vả để có sự thay đổi tích cực
hơn.
Thể chế hóa, mô hình hóa và củng cố, cải thiện liên tục sự thay đổi văn hóa; coi
trọng việc xây dựng và động viên mọi người noi theo các hình mẫu lý tưởng
phù hợp với mô hình văn hóa nhà trường đang hướng tới. Sự khích lệ kèm theo
một cơ chế khen thưởng có sức động viên thiết thực là rất cần thiết.
Biện pháp tiếp theo là thường xuyên đánh giá văn hóa nhà trường và thiết lập
các chuẩn mực mới, những giá trị mới mang tính thời đại; đặc biệt là các giá trị
học tập không ngừng và thay đổi thường xuyên. Việc truyền bá các giá trị mới
cho mọi thành viên trong nhà trường cần được coi trọng song song với việc duy
trì những giá trị, chuẩn mực tốt đã xây dựng được là lọc bỏ những chuẩn mực,
giá trị cũ lỗi thời hoặc gây ra ảnh hưởng tiêu cực cho tiến trình phát triển của
văn hóa nhà trường.
Thêm vào đó, có thể học tập theo cách thức phát triển văn hoá nhà trường
(Theo kinh nghiệm của các nhà QLGD Singapo): Chia sẻ tầm nhìn, sứ mệnh
của trường với CB/GV.
Xây dựng bầu không khí dân chủ: cởi mở, hợp tác, cùng chia sẻ hỗ trợ lẫn
nhau; mọi người đều được tôn trọng, luôn được coi trọng và có cơ hội thể hiện,
phát triển các khả năng của mình. Giữ vai trò dẫn dắt (bằng các định hướng,
chiến lược, mục tiêu), thể hiện uy tín.
Khuyến khích và tích cực ủng hộ sự đổi mới, sự sáng tạo để giáo viên phát
triển tối đa khả năng của họ. Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn để
không ngừng phát triển đội ngũ. Tạo điều kiện để mỗi học sinh đều có cơ hội
thể hiện khả năng/ năng lực. Khuyến khích tinh thần hợp tác và kỹ năng làm
việc nhóm. Xây dựng cơ chế giám sát, đánh giá, khen thưởng hợp lý thúc đẩy
18
mọi người nỗ lực làm việc. Mỗi cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong
trường đều có bản mô tả công việc, rõ trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ;
Ban giám hiệu thường xuyên trau dồi kỹ năng giao tiếp; lắng nghe tất cả mọi
người. Khuyến khích phụ huynh học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục
của trường và làm cho phụ huynh hiểu rõ vai trò của họ; Ban giám hiệu luôn
suy nghĩ để học hỏi, để đổi mới và nâng cao uy tín của mình trong nhà trường.
Như vậy, môi trường mà nhà trường tạo ra là vô cùng quan trọng trong quá trình
hình thành những nét văn hóa đẹp trong xã hội hiện nay.
2. Đối với bản thân sinh viên
Bản sắc văn hóa dân tộc đã được Đảng cộng sản Việt Nam coi như là một trong
những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là giá trị cốt lõi nhất của nền văn
hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối
các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Chính vì
vậy, việc phát huy vai trò của thanh niên trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lại càng trở thành yêu cầu cấp thiết, đặc biệt là
việc giữ gìn những giá trị tinh hoa cốt lõi của dân tộc đã được hun đúc qua hàng ngàn
năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những
giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp
nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Ðó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết
cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong
lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang
tính dân tộc độc đáo” .
Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh
diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý…của một dân tộc, được thường xuyên
hun đúc, bổ sung và tỏa sáng trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc,
tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng, để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với
dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc về thực chất
19
là hoạt động tự giác của các chủ thể để bảo vệ, giữ vững, bổ sung, phát triển và quảng
bá những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp thu một cách
chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm tăng cường sức nội lực, tích cực xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong thời gian qua, thanh niên chúng ta đã phát huy được vai trò của mình
trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tích cực, chủ động làm tốt công tác tuyên
truyền, vận động mọi quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt, ở những vùng
sâu, vùng xa, những nơi khó khăn còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán, hủ tục lạc
hậu thì thanh niên, sinh viên tình nguyện là những người đã bám sát địa bàn, đi vào
tận nhà dân để phân tích, chứng minh, giải thích cho bà con hiểu rõ hơn về giá trị của
những lễ hội truyền thống, về phong tục, lối sống, cốt cách của con người Việt Nam,
từ đó bà con hiểu rõ hơn, nghiêm chỉnh chấp hành và tích cực thực hiện. Không chỉ có
vậy, thanh niên còn phát huy được vai trò của mình trên mặt trận văn hóa, thực sự trở
thành chiến sĩ văn hóa trong cuộc đấu tranh chống lại các sản phẩm xấu độc, lai căng
làm phương hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Và chính họ đã cùng nhân dân
làm cho âm mưu diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc bị thất bại, góp phần quan
trọng làm rạng rỡ nền văn hóa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, khiến nó đã thực
sự trở thành mục tiêu, động lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Báo cáo của BCH T.Ư Hội Sinh viên Việt Nam khóa VIII tại Đại hội Sinh viên
toàn quốc lần thứ IX:
“Công tác nắm bắt tình hình sinh viên có nơi, có lúc chưa kịp thời. Nội dung, phương
thức và hiệu quả giáo dục của tổ chức hội đối với sinh viên trước những hiện tượng
tiêu cực, tệ nạn xã hội và những tác động tiêu cực xã hội khác thể hiện chưa rõ nét.
Cuộc vận động "Sinh viên 5 tốt" ở một số đơn vị triển khai chưa tích cực, công tác
truyền thông chưa sâu rộng, nhiều đơn vị lúng túng trong thực hiện các giải pháp tạo
động lực cho "sinh viên 5 tốt"...
Trước bối cảnh hội nhập quốc tế, tác động của mặt trái cơ chế thị trường, văn
hóa phương Tây và văn hóa phương Đông du nhập vào nước ta một cách tràn lan, bên
20
cạnh văn hóa trong sạch, lành mạnh thì sản phẩm xấu độc cũng nhanh chóng thâm
nhập, len lỏi vào mọi ngõ ngách, tâm hồn, đời sống của con người Việt Nam trong đó
có thanh niên. Thanh niên là đối tượng tiếp thu và đón nhận văn hóa đó một cách nồng
nhiệt và nhanh chóng nhất. Hiện tượng thanh niên ăn mặc theo phong cách Hàn Quốc,
Nhật Bản xuất hiện rất nhanh, với những chiếc quần xước nửa tây, nửa ta, tóc thì
nhuộm cho giống với phong cách thần tượng của mình. Có một bộ phận không nhỏ
thanh niên đi tham gia vào những lễ hội truyền thống chỉ với mục đích đi giải trí là
chính, họ đến với lễ hội truyền thống không phải với thái độ thành tâm hướng về cội
nguồn, hiện tượng đùa cợt trong lễ hội, xem bói, xem quẻ xuất hiện ngày càng trở nên
phổ biến… Đây là những hiện tượng cần được chú ý trong quá trình giáo dục thanh
niên hiện nay.
Để phát huy vai trò của thanh niên trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, cần
phải thực hiện có hiệu quả một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, sinh viên phải nhận thức rõ ý nghĩa tầm quan trọng của việc giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, bởi chỉ có trên cơ sở
nhận thức đúng thì mới giúp sinh viên có những hành động đúng trong việc đề ra
chương trình, kế hoạch hành động có hiệu quả nhất. Không chỉ có vậy, nó còn là cơ
sở, động lực cho sinh viên tích cực nghiên cứu, tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc,
tham gia vào các lễ hội với một thái độ nghiêm túc, cầu thị và biết tiếp thu chọn lọc có
phê phán tinh hoa văn hóa dân tộc và thế giới, thấy được cái hay, cái tiến bộ cần phải
trân trọng giữ gìn, quảng bá.
Thứ hai, phải đề ra chương trình, kế hoạch hành động cụ thể thiết thực để giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Sau khi đã có nhận thức đúng thì thanh niên phải xây
dựng kế hoạch, đề ra những biện pháp cụ thể hữu ích để làm cho những di tích lịch sử,
những lễ hội truyền thống của dân tộc như lễ hội Đền Hùng ở Phú Thọ, lễ hội chùa
Hương ở Hà Nội…. được thăng hoa có ý nghĩa quan trọng về mặt tinh thần. Thông
qua công tác tuyên truyền vận động, giáo dục, thanh niên cần ý thức và giúp người
dân biết giữ gìn những gì đã có, hiểu rõ đâu là cái cần phải giữ gìn, bảo vệ không
những cho hôm nay mà còn cho mãi mãi về sau và cái gì cần phê phán, loại bỏ ra khỏi
đời sống xã hội. Ở những cuộc thi, những chương trình, những lễ hội là dịp tốt nhất để
cho thanh niên phát huy hết vai trò, sở trường, năng lực của bản thân góp phần định
21
hướng những giá trị về đạo đức, lối sống có văn hóa cho thanh niên và các tầng lớp
khác.
Thứ ba, phát huy tính tích cực, chủ động của thanh niên trong giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc. Điều kiện bên ngoài có thuận lợi bao nhiêu chăng nữa, nhưng nếu
bản thân mỗi thanh niên không tích cực nghiên cứu, tìm hiểu thì sẽ không bao giờ
phát huy được vai trò của bản thân mình. Không ai hết mà chính thanh niên phải là
người chiến sĩ xung phong trên mặt trận văn hóa như Hồ Chí Minh đã từng nói: Mỗi
người phải là một chiến sĩ trong cuộc đấu tranh chống lại văn hóa lai căng, xấu độc từ
bên ngoài. Thấy được vai trò của mình, có những bạn sinh viên đã vượt qua chặng
đường hàng mấy trăm cây số để lên vùng cao đem cái chữ đến với đồng bào, góp phần
xóa mù chữ, giúp đồng bào biết được ánh sáng của sự văn minh tiến bộ và tích cực
ủng hộ những chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ tư, thanh niên phải tích cực đấu tranh chống lại âm mưu chống phá của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Hiện nay chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng cuộc đấu tranh trên mặt
trận văn hóa và chúng coi đây là mũi nhọn xung kích làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng
của thanh niên. Những biểu hiện xấu của văn hóa phương Tây với lối sống thực dụng,
sống chỉ có biết hôm nay, không biết đến có ngày mai; những hành vi đi ngược lại với
lợi ích của quốc gia, dân tộc; sự thích thú những bộ phim nước ngoài với nội dung
chém giết, võ thuật và nhiều tệ nạn trong thanh niên hiện nay chính là những phản văn
hóa, những việc làm và hành động tác động rất mạnh đến tâm lý của thanh niên. Sự
tác động xấu đó dễ làm cho một bộ phận thanh niên chúng ta quay lưng lại với lịch sử
dân tộc, với phong tục tập quán của con người Việt Nam, với văn hóa Việt Nam.
Thanh niên là những người hàng ngày hàng giờ phải đối mặt, phải tiếp xúc với văn
hóa đó nhiều nhất cho nên phải chủ động kế thừa những cái tiến bộ và lọc bỏ những
cái không phù hợp, đi ngược lại với văn hóa của dân tộc. Thanh niên phải nhận thức
rõ văn hóa Việt Nam là thành quả của sự kết tinh văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới,
phải trang bị cho mình một hệ thống tri thức vững vàng, đầy đủ để không bị động bất
ngờ, thường xuyên tìm hiểu văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới để tạo hành trang tri
thức, góp phần xây dựng đất nước.
22
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp đòi
hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng của cả hệ thống chính trị. Trong quá trình hội nhập mở
cửa, chúng ta phải luôn coi trọng việc bảo tồn, giữ gìn những tinh hoa văn hóa của dân
tộc. Có như vậy, chúng ta mới không đánh mất mình, hòa nhập nhưng không hòa tan
và giữ được lối sống cốt cách tâm hồn của con người Việt Nam. Văn hóa còn thì đất
nước còn, mất văn hóa thì mất tất. Câu nói đó không chỉ có ý nghĩa trong hiện tại,
tương lai mà còn mãi mãi về sau. Nó luôn nhắc nhở thế hệ ngày hôm nay, trong đó có
thanh niên chúng ta, hãy biết giữ gìn, trân trọng nền văn hóa của dân tộc đồng thời
phải không ngừng bổ sung, phát triển, quảng bá cho văn hóa tương lai của dân tộc.
C. KẾT LUẬN
Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến một đất nước kiên cường và anh dũng, một đất
nước có một quá khứ hào hùng dựng nước và giữ nước, nhắc đến một nền văn hóa
nhuốm màu lịch sử. Văn hóa Việt Nam được hình thành và phát triển theo chiều dài
lịch sử và chiều dọc đất nước. Cho dù ở đâu, thời đại nào thì văn hóa Việt vẫn mang
những nét riêng biệt rất Việt Nam. Ngày này xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức
sôi động và phức tạp. Việt Nam đang hòa mình vào dòng chảy của xã hội kéo theo đó
nền văn hóa cũng đang xoay quanh guồng quay của xu thế hội nhập. Việt Nam đứng
trước những cơ hội và thách thức. Hơn lúc nào hết, tất cả mọi người dân Việt Nam với
bản lĩnh nghị lực và sự sáng tạo của mình nắm bắt cơ hội, biến thách thức thành động
lực để phát triển. Phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc dựa trên
sự kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống và các giá trị hiện đại, bảo tồn bản sắc dân
tộc, giữ lấy những tinh hoa, loại bỏ dần các yếu tố lỗi thời, tăng cường học hỏi bên
ngoài, khơi dậy được vai trò động lực của các giá trị truyền thống và xu thế thời đại để
phát triên đất nước cả về kinh tế và văn hóa xã hội và từng bước khẳng định vị thế bản
lĩnh của dân tộc mình trước cộng đồng.
Như vậy, văn hóa có vai trò trong mọi mặt của đời sống xã hội. Việc áp dụng xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường đại học là vô
cùng cần thiết bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới một thế hệ trẻ của đất nước. Ai cũng biết
thế hệ trẻ chuẩn bị hành trang vào đời cần phải tích lũy các kiến thức khoa học công
nghệ, ngoại ngữ, tin học…nhưng nếu chỉ dừng ở đó thôi mà không lưu tâm hoặc bỏ
23
qua việc trau dồi phẩm chất chính trị đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử, văn hóa giao
tiếp, ý thức pháp luật thì sẽ dẫn đến sự phát triển lệch lạc, phiến diện.
Đó là con đường dẫn đến sự thiếu hụt những giá trị nhân văn trên con đường hình
thành nhân cách con người. Sự thiếu hụt đó là nguy cơ làm suy thoái thậm chí biến
dạng quá trình phát triển của cá nhân và cộng đồng. Đã đến lúc chúng ta phải ý thức
được mối quan hệ giữa văn hóa và giáo dục,nó hình thành và phát triển hài hòa, toàn
diện nhân cách của con người nhằm đáp ứng cho nhu cầu của sự nghiệp đổi mới. Từ
đó con người sẽ có ý thức trách nhiệm hơn, dám vì mình, vì mọi người và vì những
giá trị đích thực.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình "Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam" nhà xuất bản
chính trị quốc gia-sự thật Hà Nội 2012.
2. Giáo trình "Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lenin"
3. />4. />5. />6. Kỷ yếu Hội thảo Văn hoá học đường, Đại học Sư phạm
7. Chuyên đề xây dựng văn hóa nhà trường PGS TS Nguyễn Thị Hường
8. Tạp chí VHNT số 382, tháng 4-2016
9. “Bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam”- GS Minh Chi
24