Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận môn đường lối đề tài WTO và bước NGOẶT của KINH tế VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.56 KB, 25 trang )

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC VIỆT NAM THAM GIA WTO
1. Khái quát về WTO
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization) .
WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều chỉnh thương
mại quốc tế của khung khổ tiền thân là GATT - Hiệp định chung về Thuế quan Thương
mại. GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà trào lưu hình thành hàng
loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi nổi,
điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, thường được biết đến như là
Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày nay.
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại
quốc tế nhằm điều chỉnh các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng hóa, khắc
phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập
GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm và dự
thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư
cách là một tổ chức chuyên môn về thương mại quốc tế của Liên Hiệp Quốc. Đồng
thời, các nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý
những biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ
đầu thập niên 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa thương mại, mở đường cho kinh
tế và thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của
nhân dân các nước thành viên.
Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được
thỏa thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở Havana từ
11/1947 đến 23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên
việc hình thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện được.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được
ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên
tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng thương mại thế giới, 23 nước sáng
lập đã cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính
thức có hiệu lực vào 1/1948.
Từ đó tới 1995, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy
nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ sau vòng Uruguay(1986-1994) do thương mại quốc




tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ
về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình thành các chuẩn mực, luật
chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ,
các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng
dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với phạm vi của hệ thống thương mại đa
biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn
chỉ là một thỏa thuận có nội dung hạn chế và tập trung ở thương mại hàng hóa đã tỏ ra
không còn thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết
thúc hiệp định thành lập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát
triển sự nghiệp GATT. WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên Hợp
Quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995.
2. Tầm quan trọng của việc hội nhập WTO đối với Việt Nam
Một nền kinh tế muốn phát triển xuất khẩu các sản phẩm chế biến thay vì nguyên liệu
và tận dụng các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDIs) trên thực tế không có lựa
chọn nào khác ngoài việc tham gia hệ thống thương mại của WTO. Lý do nằm ở chỗ
“con dấu gia nhập WTO” được cộng đồng doanh nghiệp quốc tế coi là một dấu hiệu về
sự vận hành bình thường trong các mối quan hệ kinh tế toàn cầu. Có thể đưa ra nhiều
lý do kinh tế, luật pháp và chính trị để giải thích tại sao gia nhập WTO lại cần thiết đến
thế.
lý do đầu tiên và cũng quan trọng nhất để gia nhập WTO là nhằm hội nhập nền kinh tế
quốc gia vào nền kinh tế toàn cầu. Nước ta kỳ vọng rằng với việc gia nhập WTO, Việt
Nam có thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu và nhập khẩu một cách ổn định và dễ dự
đoán hơn. xuất khẩu nông thủy sản, dệt may, quần áo và dầy dép cũng như các mặt
hàng sản xuất trong nước khác. Đặc biệt, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam –
những doanh nghiệp có ít nguồn lực để đối phó với những vấn đề phức tạp về thể chế
– rất có thể sẽ được hưởng lợi nhờ khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu tốt hơn. Tác
động tới xuất khẩu là tích cực vì khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng một môi
trường ổn định và bình đẳng hơn ở nước ngoài, có nhiều khả năng hơn trong việc kiện

lại các thực tiễn thương mại không bình đẳng và có cơ hội để đảm bảo rằng các cuộc
đàm phán của WTO trong tương lai sẽ đem lại các cơ hội xuất khẩu cho các sản phẩm
mà Việt Nam quan tâm (bốn thị trường xuất khẩu chính chiếm hơn một nửa kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam đều là các Thành viên của WTO). Cũng có thể hy vọng rằng


việc gia nhập sẽ không chỉ thúc đẩy doanh số xuất khẩu các mặt hàng quyền thống
sang các thị trường hiện tại mà còn tăng xuất khẩu các sản phẩm mới sang các thị
trường mới (xem them chi tiết tại. Từ đó, số lượng và chất lượng hàng hóa, dịch vụ
xuất nhập khẩu sẽ tăng theo. Gia nhập WTO cũng thúc đẩy quá trình tự do hóa nhập
khẩu, từ đó cho phép tiếp cận với các đầu vào nhập khẩu (công nghệ, trang thiết bị và
phương pháp quản lý hiện đại) cũng như hàng hóa tiêu dùng đa dạng và rẻ hơn; các
đầu vào nhập khẩu rất quan trọng đối với một nền kinh tế đang hiện đại hóa nhanh
chóng như Việt Nam.
Một lợi ích kinh tế nữa từ việc gia nhập WTO là tăng cường thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Gia nhập WTO sẽ khiến các doanh nghiệp tin tưởng hơn vì Việt Nam
sẽ được coi là một điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư. Có bằng chứng cho thấy rất
nhiều nhà đầu tư nước ngoài lớn (ví dụ như Intel) đã quan tâm hơn tới Việt Nam khi
Việt Nam chuẩn bị trở thành Thành viên của WTO. Chỉ trong vòng 9 tháng sau khi gia
nhập WTO, các doanh nghiệp nước ngoài đã cam kết sẽ đầu tư gần 6,5 tỷ Đôla Mỹ vào
các dự án đầu tư mới tại Việt Nam (số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2007). Hơn
nữa, việc trở thành Thành viên của WTO khuyến khích sử dụng nhiều hơn các tài sản
thuộc sở hữu trí tuệ, dẫn tới các điều kiện tốt hơn để đạt được thành công về kinh tế
thông qua chất lượng sản phẩm cao hơn, sự sáng tạo và kỹ năng tiếp thị hiện đại (xây
dựng thương hiệu, cấp phép, nhượng quyền và các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm tốt hơn).
Lợi ích pháp lý của việc tiếp cận một hệ thống thương mại dựa trên pháp quyền và sử
dụng quá trình giải quyết tranh chấp trong WTO cũng thường được nhắc đến như một
lý do quan trọng cho việc gia nhập WTO của Việt Nam. Các cuộc tham vấn, đàm phán
và trung gian hòa giải cũng như giải quyết tranh chấp dựa trên quy tắc rõ ràng sẽ rất
quan trọng đối với các quốc gia không có tiếng nói quan trọng trong thương mại bằng

các Thành viên như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản hoặc Trung Quốc. Gia
nhập WTO cho thấy các mối quan hệ thương mại của Việt Nam với các cường quốc
thương mại sẽ được bảo vệ bởi các quy tắc và thủ tục của hệ thống thương mại đa
phương, rất nhiều lợi ích cụ thể của hệ thống này sẽ được đề cập dưới đây. Sau khi gia
nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng
minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể hiện ở các cam kết đa phương về
pháp luật và thể chế cũng như các cam kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ.


Gia nhập WTO cũng được thúc đẩy bởi các lý do chính trị. Đặc biệt, đối với các nước
trong giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam thì WTO là một công cụ giúp Chính phủ duy
trì được chính sách thương mại minh bạch và tự do nhờ vào vai trò nội địa của hệ
thống thương mại đa phương, hệ thống này đẩy mạnh các lợi ích xuất khẩu nhiều hơn
so với lợi ích thu được từ các ngành thay thế nhập khẩu. Trở thành Thành viên WTO
đem lại cơ hội để đảm bảo việc thực hiện các bước tự do hóa cơ chế thương mại thông
qua chấp nhận các nghĩa vụ ràng buộc về mặt pháp lý đối với các mức thuế, loại bỏ
các hạn chế định lượng hoặc loại bỏ trợ cấp (Michalopoulos,2002). Gia nhập WTO
cũng là một công cụ để thể hiện cam kết của nước gia nhập trong việc hòa nhập các
nền kinh tế theo định hướng thị trường vào cộng đồng quốc tế, một điều kiện tiên
quyết cho sự phát triển thương mại quốc tế.
Tóm lại gia nhập tổ chức có ý nghĩa vô cùng lớn không chỉ kinh tế mà cả chính trị của
Việt Nam. Rõ ràng, gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh cải cách pháp lý, kinh
tế và thể chế xã hội. Tác động mãnh liệt tới nhiều lĩnh vực vấn đề mặc dù vẫn còn
những khó khăn hạn chế nhưng không thể phủ nhận những lợi ích mà khi tham gia
WTO đem lại cho con người nhà nước, doanh nghiệp…
3. Khái quát về việc gia nhập WTO của Việt Nam
Ngày 11/1/2007 tại Geneva, Việt Nam chính thức được Tổ chức Thương mại thế giới
WTO tiến hành nghi lễ trao thẻ thành viên chính thức.
Mong muốn của Việt Nam khi gia nhập WTO là vì mục tiêu thúc đẩy tự do hàng hóa
thương mại với thế giới. WTO có các hình thức hỗ trợ như: Giảm thuế quan, xóa bỏ

những rào cản phi thuế quan ( hạn ngạch, cấp phép xuất nhập, khẩu), xóa bỏ đi trợ cấp,
mở cửa thị trường kinh doanh với các nước, tạo một sân chơi bình đẳng cho hầu hết
doanh nghiệp trong và ngoài nước, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo đảm
quyền trí tuệ và bản quyền sáng tạo.
Những quy định được WTO đưa ra, trên lý thuyết sẽ tạo một thuận lợi cho những nước
thành viên mở rộng thị trường, thâm nhập sâu vào trong thị trường của các nước và
tranh thủ vốn đầu tư, được nhận sự hỗ trợ từ công nghệ và kỹ năng quản lý của nước
ngoài, được quyền xử lý những cạnh tranh thương mại, thúc đẩy các doanh nghiệp
trong nước nâng cao khả năng tư duy, phát triển, cạnh tranh, đem lại nhiều lợi ích cho
người tiêu dùng.


Quá trình việt nam gia nhập WTO
1 – 1995: Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO.
1996: Bắt đầu đàm phán hiệp đại thương mại song phương với nước Mỹ.
1998 – 2000: Thực hiện 4 phiên họp đa phương cùng với Ban Công tác về Minh bạch
hóa những chính sách thương mại kể từ năm 7-1998, 12-1998, 7-1999 và 11-2000. Sau
khi thực hiện xong 4 phiên họp này, Ban công tác của WTO đã đưa ra nhận xét Việt
Nam cơ bản đã kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang một giai
đoạn đàm phán mở cửa thị trường.
7-2000 : Ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ
12-2001 : BTA đã đạt được hiệu lực
4-2002 : Thực hiện phiên họp đa phương lần thứ 5 với Ban công tác. Chúng ta đã đưa
ra bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Tiếp đến thực hiệp đàm phán song
phương.
2002 – 2006: Đàm phán song phương cùng với một vài thành viên có yêu cầu đàm
phán, cùng với 2 mốc quan trọng.
10 – 2004 : Chúng ta đã đàm phán song phương với EU (là đối tác quan trọng lớn
nhất).
5-2006 : Kết thúc phiên đàm phán song phương với Mỹ – đây là đối tác cuối cùng

trong tổng 28 đối tác cần phải đàm phán.
26-10-2006 : Kết thúc phiên đàm phán cuối cùng, Ban công tác đã chính thức thông
qua giấy tờ sổ sách gia nhập WTO của Việt Nam.
11-1-2007 : WTO đã chính thức nhận được sự phê duyệt chính thức của toàn quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam. Bắt đầu từ lúc này Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên của Tổ chức WTO.
Nền kinh tế Việt sau khi gia nhập WTO được hơn 12 năm, mặc dù bị ảnh hưởng nhiều
tác động từ khủng hoảng tài chính toàn cầu, những vấn đạt được mức kỳ vọng tăng
trưởng bình quân là 6,29%/năm – thành tựu này vô cùng quan trọng.
WTO đã giúp chúng ta thay đổi một diện mạo khung khổ pháp lý, thể chế chính sách
về kinh tế, thương mại, đầu tư, phát triển, cũng như phương thức quản lý kinh tế của
Việt Nam.Từ khi gia nhập, đã mở màn cho sự bùng nổ mới của khu vực doanh nghiệp
tư nhân Việt Nam, đạt kỷ lục gần 60.000 doanh nghiệp mới đã được thành lập.



CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM
1. Các mốc đánh dấu chặng đường gia nhập WTO của Việt Nam.
04-01-1995: Đơn xin gia nhập WTO được Đại hội đồng tiếp nhận.
31-01-1995: Ban xem xét công tác gia nhập WTO của Việt Nam được thành lập với
chủ tịch là ông Eirik Glenne, đại sứ Na Uy tại WTO.
24-08-1995: Việt Nam nộp bị vong lục về chế độ ngoại thương Việt Nam và gửi tới
ban thư ký WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác.
1998-1999: Các phiên hỏi và trả lời với ban xem xét công tác xét duyệt.
Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và
bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào
ban đầu về thuế quan và dịch vụ.
09-10-2004: Việt Nam và EU đạt thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập WTO
09-06-2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường

cho Việt Nam sớm gia nhập WTO.
12-06-2005: Việt Nam cử một phái đoàn đàm phán hùng hậu sang Washington trước
thềm chuyến thăm Mỹ chính thức của thủ tướng Phan Văn Khải với quyết tâm đi đến
kết thúc đàm phán song phương.
18-07-2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để Việt
Nam gia nhập WTO.
31-05-2006: Kí thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương với Mỹ - nước cuối cùng
trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
26-10-2006: Việt Nam hoàn tất đàm phán đa phương tốt đẹp với các nước. Cuộc đàm
phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng chừng không thể kết thúc được cho đến
phút chót.
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, nước ta đã chính thức được kết nạp vào tổ chức này.


2. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO
2.1. Trước khi gia nhập WTO
a. Thời kỳ 1976-1982
Năm 1976, Việt Nam thống nhất đổi tên thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam
được quyết định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc năm 1976. Đường lối kinh tế chủ đạo
của Việt Nam từ thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động (gồm công nhân, nông dân tập
thể, trí thức xã hội chủ nghĩa và lao động khác), xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu.
Để thực hiện điều này, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống kinh tế trong đó có:
Công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển.
Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc doanh giữ vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên, nông dân ở Nam
Trung Bộ và Nam Bộ được khuyến khích tham gia sản xuất tập thể.
Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất.

Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ Kinh tế từ năm 1978.
Do sản xuất kém phát triển, hàng hóa không đủ, nên việc phân phối bị kiểm soát bằng
chế độ tem phiếu. Chế độ phân phối này chấm dứt vào năm 1994 khi chính sách tiền tệ
hóa được hoàn tất.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có cả “do khuyết điểm, sai lầm của các cơ
quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế,
quản lý xã hội” dẫn tới "chủ quan, nóng vội", đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế
hoạch nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ trương sản xuất, xây dựng, phân
phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến lãng phí lớn về sức người, sức của,...
rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của
Trung ương, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của đất
nước... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với cách kế hoạch hóa gò bó, cứng
nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ sở, địa phương và
ngành, và cũng không tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung ương cần và phải


quản lý... duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế không còn thích hợp, cản trở sản
xuất và không phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của những
người lao động... chưa nhạy bén trước những chuyển biến của tình hình, thiếu những
biện pháp có hiệu quả". Hậu quả nghiêm trọng phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực
thi "đánh tư sản mại bản", tiêu diệt tiết kiệm vốn liếng của người dân và làm xáo trộn
kinh tế trầm trọng.
b. Thời kỳ 1982-1986
Năm 1982, Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận kinh tế Việt Nam
trong thời kỳ 1976-1980 là: "kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và
vốn đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc
dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường,
vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động còn nhiều khó

khăn". Vì thế, từ năm 1982, Đảng này quyết định Việt Nam sẽ tập trung sức phát triển
mạnh nông nghiệp và coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng
tiêu dùng, và kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng
trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, tăng cường phân cấp cho địa phương
trong công tác sản xuất và quản lý sản xuất. Kinh tế quốc doanh vẫn tiếp tục giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế gia đình được khuyến khích. Thị trường không có tổ chức bị quản
lý chặt chẽ.
Tuy nhiên, thời kỳ 1981-1985 kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đã
đề ra trong nghị quyết đại hội V là cơ bản ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời
sống nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá-lương-tiền cuối năm 1985 đã đưa nền
kinh tế đất nước đến những khó khăn mới. Nền kinh tế-xã hội lâm vào khủng hoảng
trầm trọng. Siêu lạm phát xuất hiện và kéo dài.
Những thực tiễn “xé rào” và lý luận mới trên đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam triển
khai chính thức chương trình Đổi mới tư duy quản lý kinh tế mà thể hiện trước hết là
nghị quyết của Đại hội VI tổ chức vào giữa tháng 12 năm 1986. Và, giai đoạn Đổi Mới
bắt đầu từ năm 1987.


c. Chuyển theo kinh tế thị trường
Thời kỳ 1986-1990, Việt Nam tập trung triển khai Ba Chương trình kinh tế lớn: lương
thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Các hình thức ngăn sông cấm chợ,
chia cắt thị trường được xóa bỏ dần, kế hoạch kinh tế của nhà nước được thực hiện
trên cơ sở hạch toán. Đặc biệt, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể
được thừa nhận và bắt đầu được tạo điều kiện hoạt động. Nền kinh tế dần dần được thị
trường hóa. Song Đảng chủ trương và thực hiện kinh tế quốc doanh là chủ đạo, chi
phối các thành phần kinh tế khác. Cơ chế quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành
chính dần dần giảm đi.
Kinh tế Việt Nam bắt đầu có những chuyển biến tốt. Từ chỗ phải nhập khẩu lương
thực, Việt Nam đã sản xuất đủ tự cung cấp, có dự trữ và còn xuất khẩu gạo. Khoán 10
được triển khai từ năm 1988 trên quy mô toàn quốc càng khuyến khích nông dân sản

xuất lúa gạo. Hàng hóa, nhất là hàng tiêu dùng, nhiều hơn và đa dạng hơn. Xuất khẩu
tăng mạnh, thâm hụt thương mại giảm. Từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu
thô, đem lại nguồn thu xuất khẩu lớn. Lạm phát được kiềm chế dần dần.
Tháng 6 năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, tại đây một văn kiện quan trọng đã ra đời, đó là "Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Cương lĩnh này sau đó liên tục được
bổ sung và điều chỉnh trong các kỳ họp của Ban Chấp hành trung ương Đảng và Đại
hội Đại biểu toàn quốc tiếp theo. Cương lĩnh này và các văn kiện có tính chất sửa đổi
nó tuyên bố rằng nhiệm vụ trung tâm của xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam là: “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” , “gắn liền với phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện”. Các văn kiện này nêu phương hướng: "thiết lập quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" và "phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Thời kỳ 1993-1997 là thời kỳ kinh tế Việt Nam kiềm chế thành công lạm phát đồng
thời lại tăng trưởng nhanh chóng. Sau đó, kinh tế tăng trưởng chậm lại trong 2 năm
1998-1999. Tuy bắt đầu tăng tốc dần từ năm 2000, nhưng nền kinh tế có lúc rơi vào
tình trạng giảm phát và thiểu phát. Các năm 2007-2008, lạm phát tăng tốc và hàng năm
đều ở mức 2 chữ số.


MỘT SỐ SỐ LIỆU NĂM 2004 VÀ 2005 THEO CỤC TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG
HOA KỲ (CIA):
Xuất khẩu (f.o.b): 32,23 tỉ USD, tăng 21,6% so với 2004.
Nhập khẩu (c.i.f): 36,88 tỉ USD, tăng 15,4% so với 2004.
Thâm hụt thương mại: 4,65 tỉ USD. (Giảm từ mức thâm hụt 5,45 tỷ USD năm 2004)
Các mặt hàng xuất khẩu chính (2005, % tổng kim ngạch): Dầu thô (23%), hàng dệt
may (15 %), giày dép (9,3%), hải sản (8,5%), điện tử máy tính (4,5%), gạo (4,3%), cao
su (2,4%), cà phê (2,2%).

Các mặt hàng nhập khẩu chính (2005, % tổng kim ngạch): Máy móc, thiết bị (14,2%),
xăng dầu (13,5%), thép (8%), vải (6,5%), nguyên phụ liệu dệt may da (6,3%), điện tử
máy tính (4,6%), phân bón (1,8%).
Các thị trường xuất khẩu chính (2003): Hoa Kỳ (20%), Nhật Bản (14%), Trung Quốc
(9%) Úc (7%), Singapore (5%), Đài Loan (4%), Đức (4%), Anh (4%), Pháp (2%), Hà
Lan (2%), các nước khác (29%).
2.2. Sau khi gia nhập WTO
a. Bước tiến quan trọng trong chiến lược hội nhập kinh tế qu ốc t ế:
Gia nhập WTO là bước tiến quan trọng trong chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế theo
chủ trương của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.
Năm 1995, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Theo GS-TSKH Nguyễn Mại,
khoảng 5 năm 1997-2001 là giai đoạn “minh bạch hóa thể chế chính trị và kinh tế”,
các cơ quan nhà nước phải trả lời hơn 1.500 câu hỏi của nhiều nước thành viên WTO
về hiến pháp, luật pháp và tình hình thực tế của đất nước.
Gần 6 năm tiếp theo (2002-2007) là quá trình đàm phán song phương với những nước
có yêu cầu và đa phương với WTO, đồng thời sửa đổi, hoàn thiện nhiều văn bản luật
pháp để đáp ứng đòi hỏi của một quốc gia muốn gia nhập WTO. Sau khi là thành viên
WTO, hệ thống luật pháp nước ta tiếp tục được hoàn thiện để thực hiện cam kết với
WTO theo lộ trình đối với ngành và lĩnh vực kinh tế.
Cả hai giai đoạn sửa đổi và hoàn thiện luật pháp trước và sau khi gia nhập WTO đã
chứng minh rằng, đó là quá trình đấu tranh giữa đổi mới với bảo thủ, giữa tự do hóa
thương mại với bảo hộ mậu dịch, giữa tôn trọng quyền kinh doanh của doanh nghiệp
với duy trì “cơ chế xin-cho”, giữa phương thức điều hành của nhà nước điện tử, nhà
nước kiến tạo với duy trì nhà nước tập trung-quan liêu. Chính cuộc đấu tranh đó đã


đưa lại kết quả bằng sự ra đời của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2014, là việc
Chính phủ đòi hỏi phải áp dụng tiêu chuẩn của các nước OECD về thuế và các nước
ASEAN-4 về hải quan.
Và với Dự án Hậu WTO, sự khởi động ngay sau khi gia nhập WTO đã được tiến hành

đồng loạt ở tất cả các bộ, ngành và địa phương; các cơ quan chuyên trách về WTO đã
được thành lập để làm tư vấn cho doanh nghiệp. Nhiều tài liệu, trong đó có cẩm nang
về WTO đã được ấn hành. Chưa bao giờ có không khí hào hứng, sôi nổi như những
tháng sau khi Việt Nam gia nhập WTO, bởi chính sự kiện quan trọng đó đã được
chuẩn bị khá tốt, đem lại lòng tin của người dân và doanh nghiệp vào tương lai của đất
nước.
b. Kinh tế chuyển mình mạnh mẽ
Từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập
sâu rộng với khu vực và thế giới. Việc mở cửa nền kinh tế trở thành động lực quan
trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần không nhỏ để duy trì tốc độ tăng trưởng
cao hàng năm của nền kinh tế Việt Nam.
Hơn 10 năm qua được đánh giá là giai đoạn có nhiều cuộc khủng hoảng quốc tế và tất
cả có sự ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế cũng như hội nhập quốc tế của Việt
Nam. Tuy nhiên, với những cải cách từ bên trong, với những chính sách đa phương, đa
dạng hóa về kinh tế, thương mại và đầu tư với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt
Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng, có ý nghĩa thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh
tế cũng như hội nhập quốc tế.
Khi gia nhập WTO năm 2006, quy mô kinh tế của đất nước còn khá khiêm tốn, Việt
Nam nằm trong nhóm nước thu nhập thấp; năm 2016 khi tham gia AEC và các FTA
mới, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước thu nhập trung bình (thấp), là một trong 32
nước có kim ngạch xuất khẩu trên 100 tỷ USD, trong đó có một số mặt hàng đứng
hàng đầu thế giới, là nước thu hút FDI ổn định nhất trong ASEAN.
Tính đến tháng 10/2019, Việt Nam đã thu hút 30.136 dự án FDI với tổng vốn đăng ký
đạt 358,53 tỷ USD. Nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đã chọn Việt Nam làm
“điểm đến”, như: Intel, Microsoft, Samsung, LG, Nokia, Canon, Mitsubishi, Toyota,
Honda...
Và mặc dù bị ảnh hưởng bởi những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
khủng hoảng nợ công song nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng



bình quân đạt gần 7%/năm; năm 2018 đạt 7,08% - cao nhất trong một thập kỷ qua.
Cùng với đó, thu nhập bình quân đầu người cũng được cải thiện đáng kể. GDP bình
quân đầu người tăng từ 730 USD năm 2006 lên 2.587 USD năm 2018, khoảng 7.650
USD theo sức mua tương đương. Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực,
tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch
xuất, nhập khẩu, mở rộng thị trường đa dạng các loại hàng hóa tham gia xuất, nhập
khẩu. Việt Nam đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu với tổng kim ngạch
xuất khẩu, nhập khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP.
Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân bằng xuất nhập khẩu,
thậm chí là xuất siêu. Là thành viên của WTO, Việt Nam đã được hơn 70 đối tác công
nhận là nền kinh tế thị trường, nhiều sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh
tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như Liên minh châu Âu, Nhật
Bản, Mỹ...
c. Tự tin vào “sân chơi” toàn cầu
Không chỉ tác động mạnh mẽ, tích cực đến phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, các
chuyên gia kinh tế cho rằng, gia nhập WTO chính là “mở cánh cửa lớn” để Việt Nam
bước vào “sân chơi” toàn cầu.
Gia nhập WTO, Việt Nam đã từng bước mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ theo
các thỏa thuận đa phương và song phương. Việc đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp
định thương mại tự do (FTA), nhất là các FTA thế hệ mới, chủ trì các hội nghị đa
phương lớn của Việt Nam trong thời gian qua vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa nâng
cao đáng kể năng lực và vị thế quốc tế của Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán 17 hiệp định FTA song phương và đa
phương. Trong số đó, 12 FTA đã có hiệu lực và đang thực thi. Với việc đàm phán, ký
kết hàng loạt FTA, nhất là các FTA thế hệ mới (như: FTA Việt Nam-Liên minh châu
Âu; Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên Đại Tây Dương; Hiệp định Đối
tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương; FTA ASEAN+1; FTA AustraliaHoa Kỳ).
Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước được cải cách theo
hướng ngày càng phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao trong các FTA và ngày càng

minh bạch hơn, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thông


thoáng hơn, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới... góp
phần tăng trưởng kinh tế ổn định và chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng
phát triển các ngành hàng để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các thị trường đã
có FTA với Việt Nam.
d. Tiếp tục đưa con tàu kinh tế vươn ra biển lớn
Sau 13 năm gia nhập WTO, có thể thấy Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành quả
quan trọng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, dù có tên trong những nền kinh tế tăng
trưởng nhanh nhất thế giới, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn chưa phát triển theo đúng kỳ
vọng.
Trong công nghiệp, ngành khai thác, gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, việc sử dụng
công nghệ tiên tiến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao còn thấp.
Nông nghiệp tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng tỷ lệ hàng nông sản qua chế biến còn
thấp; việc đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm, chuỗi
cung ứng sản phẩm nông nghiệp còn nhiều bất cập.
Để tiếp tục phát triển bền vững, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần những cải cách
đột phá, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước; Tái cơ cấu các doanh nghiệp, các dịch
vụ cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung những dịch vụ có tiềm năng, lợi thế và phát
triển logistics xanh. Đặc biệt, nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ để Việt Nam
sớm có những đột phá về khoa học công nghệ, tạo ra những mặt hàng, những sản
phẩm kỹ thuật cao mang lại giá trị cao trong xuất khẩu.
Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau đổi mới, việc gia nhập WTO
đã nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện triển khai có hiệu quả
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa. Trong bối cảnh tình
hình thế giới diễn biến phức tạp với những mối quan hệ đan xen về lợi ích, việc giải
quyết hàng loạt thách thức đặt ra chính là chìa khóa để Việt Nam tạo đà, tiếp tục đưa
con tàu kinh tế vươn ra biển lớn.
2.3. Những khó khăn của Việt Nam khi gia nhập WTO

a. Khó khăn về trình độ phát triển
Mặc dù đã trải qua gần 20 năm mở cửa và đổi mới, nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn là
nước đang phát triển ở trình độ thấp. Gần 80% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp,
nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình thành và còn nhiều ảnh hưởng của


thời kinh tế tập trung bao cấp. Tình trạng độc quyền vẫn tồn tại khá nặng nề trong một
số lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân hàng, điện, bưu chính viễn thông; khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp còn rất thấp; hệ thống pháp luật hiện hành chưa đáp ứng các
yêu cầu của hội nhập… Tất cả các yếu tố ấy làm cho tiến trình hoàn tất các thủ tục và
đáp ứng các điều kiện tham gia WTO của ta chậm trễ. Những yêu cầu về mở cửa thị
trường do các thành viên WTO đưa ra rất cao, trong khi Việt Nam chỉ đủ sức đưa ra
những cam kết thấp.
b. Bất lợi của người đi sau
Việc gia nhập WTO sau 148 nước, trong đó có những nước tiềm năng xuất khẩu lớn
như Thái Lan, Trung Quốc… càng làm tăng sự bất lợi của Việt Nam. Việc Trung Quốc
trở thành thành viên chính thức của WTO năm 2001 đã khiến Việt Nam khó khăn hơn
trong việc cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc vốn đang tràn ngập thị trường thế giới
với giá rẻ. Việt Nam và Trung Quốc vốn tương đối giống nhau về trình độ kinh tế cũng
như các mặt hàng xuất khẩu. Xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có bốn sản phẩm giống
của Trung Quốc, đó là hàng dệt may, giày dép, gốm sứ và hàng điện tử. Cả Việt Nam
và Trung Quốc đều có mục tiêu là xuất sang các thị trường Nhật, ASEAN, EU, Mỹ. Là
thành viên của WTO, Trung Quốc được hưởng những mức thuế ưu đãi khi xuất sang
các nước này, do vậy cuộc cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên gay gắt.
c. Cạnh tranh với các nước đang phát triển và phát triển
Gia nhập WTO nghĩa là tham gia một sân chơi bình đẳng. Nhiều nước đang phát triển
có cùng trình độ như Việt Nam, có các chủng loại hàng hóa, dịch vụ tương tự như
chúng ta, nhưng họ đã gia nhập WTO trước và đã được hưởng một số ưu đãi. Việt
Nam sẽ là đối thủ cạnh tranh với các nước đang phát triển khác về hàng xuất khẩu vào
các thị trường lớn như Mỹ, EU… Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các nước này không

muốn chúng ta có những điều kiện ưu đãi hơn họ khi chúng ta gia nhập WTO. Vì vậy,
trong quá trình đàm phán đa phương và song phương, Việt Nam cần khẳng định quyết
tâm tham gia một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác, đặc biệt
là với các đối tác có tiềm năng xung đột cạnh tranh nhưng đồng thời phải thuyết phục
để họ hiểu thực trạng kinh tế Việt Nam và có những nhân nhượng thỏa đáng. Khi gia
nhập WTO, Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước đã phát triển, nhất là trong
lĩnh vực nông nghiệp mà Việt Nam có thế mạnh. Việt Nam mong muốn giữ nguyên


mức trợ cấp xuất khẩu như hiện nay và dần dần giảm xuống phù hợp với các điều
khoản của WTO. Thế nhưng, tại một số nước phát triển, nông sản vẫn tiếp tục được trợ
giá và rõ ràng hàng nông sản Việt Nam xuất sang các nước phát triển sẽ khó cạnh tranh
được với hàng nông sản nội địa vốn vẫn đang được các nước này bảo hộ.
d. Mâu thuẫn giữa năng lực thực thi và cam kết
Để tham gia WTO, Việt Nam không những phải hoàn thiện khung luật pháp đáp ứng
điều kiện của một nước thành viên mà còn phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Để
đáp ứng các yêu cầu trên, Chính phủ Việt Nam đã đề ra Chương trình xây dựng luật
pháp để gia nhập WTO với hai phần: luật phục vụ nghĩa vụ của các nước thành viên
WTO (bắt buộc) như: Luật Cạnh tranh; Luật Thương mại; Luật Đầu tư (không phân
biệt đầu tư trong hay ngoài nước); Sở hữu trí tuệ, Bảo vệ giống cây trồng, vật nuôi…
và luật về quyền của nước thành viên (không bắt buộc) như Pháp lệnh Chống bán phá
giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp… Việt Nam hứa sẽ tuân thủ các cam kết của mình ngay
sau khi gia nhập WTO cho dù các cam kết này có thể mâu thuẫn với pháp luật hiện
hành. Tuy vậy, việc thực thi các cam kết là khó vì yêu cầu của các nước rất cao trong
khi hệ thống pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh, nhiều quy định mới được thông qua,
hoặc mới ban hành nhưng chưa được áp dụng trong thực tiễn.
Theo Hiệp định về các khía cạnh sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) của
WTO, các nước thành viên phải có hệ thống bảo vệ bản quyền, bằng phát minh, sáng
chế, nhãn mác hàng hóa… rất nghiêm ngặt. Thế nhưng, ở nước ta, việc sản xuất hàng
giả, hàng nhái, ăn cắp bản quyền, mẫu mã… vẫn diễn ra tràn lan và chưa được giải

quyết triệt để. Tình hình trên làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh
tranh bình đẳng và đúng luật trên thị trường thế giới.


CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP TỔ CHỨC ASEAN CỦA VIỆT NAM
1. Những khó khăn và thách thức:
Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay cũng như những năm tới có nhiều khó
khăn và phải đối diện với nhiều thách thức lớn. Do đó, chúng ta cũng cần luôn nhận
thức rõ những thách thức mà nước ta phải đối mặt để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục
hữu

hiệu.

Trước hết, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một
nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và
bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa,
dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống
chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh… Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn
lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay
gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Do thực hiện những
cam kết của một thành viên WTO, nhất là việc phải cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu,
mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó có việc phải mở cửa các lĩnh vực thương mại
hàng hoá và dịch vụ nhạy cảm cao như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng,
vận tải, chuyển phát nhanh, nông nghiệp… bởi vậy nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng
phá sản doanh nghiệp luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng. Ngoài ra, trong hội nhập
kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng đòi hỏi phải giải
quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,… Về cơ chế bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả,
bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí

tuệ.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác,
nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ,
đầu tư… chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình
đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức
mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và


thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại của thế giới
khi tham gia IMF, WB, WTO… Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh tế, đáng lẽ
phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên
quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế,
đây là hoạt động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự
cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên
bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các
nước

đang

phát

triển

trong

đó



nước


ta.

Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt
ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng
kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ
vậy là vì lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những
nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia
cũng vậy, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu
cực của toàn cầu hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên mạnh
mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè nặng lên khu
vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70% dân số và lực lượng lao động xã hội, đồng thời
chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của
nhiều chính sách… Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức
tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực
đối

với

bản

thân

sự

phát

triển

của


đất

nước.

Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trên lĩnh vực an ninh
quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm hoạ
mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi
trường, dịch bệnh, khủng bố…); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp,
hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên. Vấn đề gắn
an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành nhiệm
vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập quốc tế trong một thế giới
toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường,


cũng như tình hình chính chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường
và đời sống chính trị trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế
vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế
quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh
hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới, giữ vững an ninh kinh
tế



ổn

định

chính


trị-



hội.

Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá
trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị
văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Chưa bao giờ
văn hoá nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như trong kỷ nguyên toàn cầu
hoá hiện nay: vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy cơ bị nghèo văn hoá rất
nghiêm trọng.
Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối
diện trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước… Đã xuất
hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để h
ạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất
khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình
siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ và nhân
quyền phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết "nhân quyền cao hơn chủ
quyền"… Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh
chống "diễn biến hoà bình" của các thế lực chống đối trên nhiều lĩnh vực.
Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách thức đan
xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và thách thức
chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ
quan có tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng,
sự điều hành quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân
tộc. Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng



hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động
hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế,
trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội
nhập và phát triển, sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá thành công, hướng tới mục tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.


2.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và hoàn thiện chính sách thương m ại
quốc tế của Việt Nam
2.1.Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quy ết mối quan h ệ gi ữa t ự do
hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch
Việc tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hai
thương mại và bảo hộ mậu dịch và chính sách thương mại quốc tế là công việc liên
quan đến sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự thực thi của các cơ quan liên quan,
đặc biệt là các bộ ngành (trực tiếp là Bộ Công thương).
Mục tiêu phù hợp nhất của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam là thúc đẩy
xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế
giới (và trong nước). Định hướng chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam cần chỉ
ra những ưu tiên chính trong số nhiều ưu tiên của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Định hướng chính sách cũng cần bao gồm các vấn đề như cách thức hỗ trợ các ngành
thay thế nhập khẩu và những cam kết đảm bảo việc duy trì ổn định các chính sách hỗ
trợ. Tất cả những biện pháp này cần đặt trong một hệ thống được theo dõi, đánh giá và
điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi.
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh tự do hóa thương mại song
phương, khu vực và đa phương) và bảo hộ có chọn lọc một số mặt hỏng.
2.2. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế

2.2.1. Minh bạch hoá và vận dụng linh hoạt công cụ thu ế quan
Bộ Tài chính cẩn vận dụng linh hoạt biển thay đổi thuế để tạo sự thuận lợi
cho hàng hoá Việt Nam. Việc vận dụng linh hoạt biểu thuế là hành động phù hợp với
các nguyên tắc và quy định của WTO. Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia cần thực
hiện bảo hộ đơn giản thông qua thuế. Việc áp dụng thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thay đổi biển thuế trong điều kiện khẩn cấp, thuế chống trợ cấp và bán
phá giá là không vi phạm với WTO. Hệ thống thuế của Việt nam đang được thay đổi
theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, để thuế quan thực sự là một công cụ
của chính sách thương mại quốc tế, Việt Nam không những cần đảm bảo sự nghiêm
túc trong thực hiện các cam kết mà còn phải biết vận dụng linh hoạt công cụ này.
Bộ Tài chính, các bộ ngành và các hiệp hội tiếp tục thực hiện minh bạch hoá thông
tin về cắt giảm, điều chỉnh thuế và phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp để tảng tinh


dự đoán trong việc điều chỉnh thuế. Đây là nội dung được ưu tiên trong số các giải
pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Trước hết
việc cập nhật những thông tin về những điều chỉnh thuế cần được tiếp tục đưa lên các
trang web của Quốc hội, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Tổng cục Hải quan và các
hiệp hội.

Tiếp theo, việc áp dụng và điều chỉnh các loại thuế gián tiếp như thuế

tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi nhuận cần được rà soát để đảm bảo phục vụ mục tiêu phát
triển ngành. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cho việc điều chỉnh thuở cần được
quan tâm. Các hiệp hội cần đóng vai trò là câu nói giữa các bộ ngành và doanh nghiệp
để đảm bảo nguyên tắc lấy doanh nghiệp là trung tâm trong quá trình hoàn thiện. Để
đảm bảo thực hiện giải pháp này, các hiệp hội phải chủ động đề xuất các diễn đàn và
hình thức trao đổi với Bộ Tài chính, Bộ Công thương và các bộ ngành liên quan. Các
bộ ngành cần tích cực tham gia, đảm bảo cổ phần công trách nhiệm
cho các bộ phận liên quan và tiến hành theo dõi đánh giá công tác phối hợp này.

2.2.2. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thu ế quan
Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia thành viên được quyền sử dụng hạn ngạch thuế
quan. Bộ Công thương cần xem xét sử dụng nhiều hơn công cụ này. Sự khác biệt giữa
mức thu trong hạn ngạch và ngoài hạn ngạch thường rất lớn (thường là gấp đôi). Tuy
nhiên, việc quyết định sử dụng hạn ngạch thuế quan cho mặt hàng nào không thể chỉ
phụ thuộc vào một tính toán về lợi thế so sánh hiện hữu đơn giản. Do đó, khi quyết
định lựa chọn mặt hàng thực hiện áp dụng hạn ngạch thuế quan, Bộ Công thương cũng
cần dựa trên phương pháp chuyên gia và thực hiện lấy ý kiến từ doanh nghiệp trong
ngành.
Một thực tế ở Việt Nam là ngày càng hạn chế sử dụng giấy phép nhập khẩu và lệnh
cấm nhập khẩu. Lý do được đưa ra là các quy định này không phù hợp với các quy
định của WTO và các cam kết quốc tể mà Việt Nam tham gia. Tuy nhiên, kinh nghiệm
thế giới cho thấy không quốc gia nào bỏ hoàn toàn hai công cụ này.
Malaysia thậm chí còn tăng cường việc cấp giấy phép nhập khẩu khi đã trở thành
thành viên của WTO. Việt Nam không “tăng cường” nhưng cũng không nên loại bỏ
hoàn toăn việc cấp giấy phép nhập khẩu, đặc biệt là khi Việt Nam cần tiếp tục bảo hộ
một số ngành trong nước (ví dụ như thép xây dựng, hoa quả, thực phẩm, đồ chơi trẻ
em...


Các thành viên WTO vận dụng việc sử dụng giấy phép và lệnh cấm với nhiều lý do
như bảo về ngành công nghiệp, bảo vệ sức khoẻ, môi trường, bảo vệ lợi ích người tiêu
dùng, bảo vệ các di sản và truyển thẳng văn hoá. Để sử dụng có hiệu quả việc cấp giấy
phép nhập khẩu, Bộ Công thương cần phối hợp với các bộ chuyên ngành, và cộng
đồng doanh nghiệp.
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu,
chính sách thưởng kim ngạch, thưởng thành tích đang được sửa đổi tại Việt Nam trong
thời gian vừa qua cho phù hợp với các quy định liên quan đến trợ cấp xuất khẩu và
thương mại liên quan đến đầu tư (TRIMS) và yêu cầu của đối tác trong quá trình đàm
phản gia nhập WTO. Chính sách về hỗ trợ lãi suất, thường xuất khẩu thuộc loại trợ cấp

bị cấm trong khuôn khổ WTO nên trong tương lai không thể tiếp tục áp dụng. Việc hỗ
trợ các hoạt động thương mại (xúc tiến thương mại)
được coi là các loại trợ cấp đèn vàng. Tuy nhiên, khi trở thành thành viên của WTO,
Việt Nam có thể được hưởng chế độ ưu đãi ( tiếp tục duy trì khuyến khích xuất khẩu)
vì là nước đang phát triển có GNP đầu người thấp.
Những quy định về mua sắm của chính phủ cần được xem như là một công cụ cụ của
chính sách thương mại quốc tế. Trong khuôn khổ WTO, các quy định về mua sắm của
chính phủ sẽ bị coi là hàng rào phi thuế quan nếu tạo ra sự phân biệt đối xử giữa hàng
hoá trong nước và hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với các
thước đang thực hiện công nghiệp hoá, các quy định về mua sắm của Chính phủ có thể
là công cụ tốt để Chính phủ hỗ trợ khu vực sản xuất trong nước. Việc sử dụng các quy
định về mua sắm của Chính phủ như là một công cụ của chính sách thương mại quốc
tế cần thể hiện thực hiện tốt các quy định của Luật đấu thầu, trong đó đặc biệt chú ý
đến việc thực hiện minh bạch hoá các quy định nảy.
Bộ công thương nên mở rộng đối tượng chủ trì chương trình xúc tiến thương mại
trọng điểm quốc gia bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
2.2.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và rào c ản th ương
mại đầy đủ và dễ truy cập
Cụ thể, Bộ Công thương cần xây dựng một hệ thống thông tin về các biện pháp phi
thuế, về phá giá và chống bán phá giá, xây dựng cơ chế cảnh báo về khả năng tranh
chấp hay bị kiện phá giá và chống bán phá giả, dự kiến những mặt hàng có khả năng


bị các quốc gia hạn hảng áp dụng các biện pháp phi thuế, đặc biệt là kiện phá giá; xây
dựng cách thức tận dụng có hiệu quả các thủ tục điều tra và giải quyết tranh chấp trong
khuôn khổ WTO cũng như thủ tục ở các quốc gia bạn hàng.
Việt Nam cũng cẩn tích cực tham gia vào các diễn đản của các nước đang phát triển
để xây dựng một cơ chế chống bán phá giá chặt chẽ hơn trong khuôn khổ WTO.
Các hiệp hội ngành hàng cần phối hợp với các bộ ngành hoàn thiện cơ sở dữ liệu

thông tin về các thị trường, ngành hàng và các rào cản thương mại ở các thị trường
được lựa chọn.
2.3. Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế giữa
các bộ ngành và cộng đồng doanh nghiệp
Khi trở thành thành viên của WT0, sự tham gia của các doanh nghiệp và các hiệp hội
doanh nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế cẩn được thay
đổi. Các doanh nghiệp tham gia rất hiệu quả vào quá trình hoàn thiện chính sách
thương mại quốc tế ở Thái Lan, Malaysia và Hoa Kỳ. Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy
đã có sự tham gia của khu vực doanh nghiệp vào quá trình hoạch định và hoàn thiện
chính sách. Tuy nhiên, kết quả thu được không có tính chất hệ thống và không có trọng
tâm. Trong quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, Việt Nam rất cần sự
tham gia của doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Những
doanh nghiệp này cần được mời thường xuyên tới các cuộc họp lấy ý kiến từ các kết
quả nghiên cứu và gợi ý chính sách cho Bộ Công thương và các bộ ngành, cho Uỷ ban
quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> />
Trang 27


×