Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Thủ tục sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại bằng tòa án từ thực tiễn tại tòa án ở thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
THỦ TỤC SƠ THẨM GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN TỪ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN Ở THÁI BÌNH

PHAN ANH TUẤN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 838.0107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Triều Dương

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
Tác giả luận văn

Phan Anh Tuấn



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này cũng như hoàn thành cả quá trình học tập, rèn
luyện là nhờ sự giảng dạy, động viên, hướng dẫn nhiệt tình của các thầy cô trong
Viện sau Đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội cùng cơ quan, gia đình và bạn bè. Nhân
dịp này tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành của mình đến Ban giám hiệu, Ban
chủ nhiệm khoa, các thầy giáo, cô giáo đã chỉ dẫn để tôi có những kiến thức vô
cùng quý giá giúp tôi có thể trưởng thành một cách vững vàng.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Bộ môn
Luật, đặc biệt là thầy giáo - tiến sỹ Nguyễn Triều Dương, là người trực tiếp hướng
dẫn, giúp tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn TAND tỉnh Thái Bình, các Sở, Ban, Ngành cùng
một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện cho tôi tiếp cận và
thu thập những thông tin cần thiết để làm sáng tỏ mục tiêu của đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè đã
động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Bình, ngày 30 tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn

Phan Anh Tuấn


TÓM TẮT
Tại Chương 1 của Luận văn, tác giả làm rõ cơ sở khoa học xây dựng pháp
luật về thủ tục giải quyết các TCKDTM bằng Tòa án như: khái niệm, đặc điểm giải
quyết TCKDTM bằng Tòa án, thủ tục sơ thẩm giải quyết TCKDTM; vai trò của Tòa
án trong việc giải quyết các TCKDTM và nguyên tắc chi phối thủ tục sơ thẩm giải
quyết các TCKDTM bằng Tòa án; Phân tích các yếu tố đảm bảo việc tiến hành thủ
tục sơ thẩm giải quyết TCKDTM.
Tại Chương 2 của Luận văn, tác giả trình bày, phân tích, đánh giá các quy
định của pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục sơ thẩm giải quyết các TCKDTM

bằng Tòa án; trên cơ sở đó xác định được trách nhiệm của Tòa án, quyền lợi, nghĩa
vụ của các bên, của tổ chức, cá nhân trong thực thi pháp luật về thủ tục sơ thẩm giải
quyết các TCKDTM bằng Tòa án.
Tại chương 3, tác giả đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện
pháp luật về thủ tục sơ thẩm giải quyết các TCKDTM từ thực tiễn tại Tòa án ở Thái
Bình, nêu lên những vướng mắc, khó khăn trong quá trình áp dụng. Từ đó, tác giả
đề xuất những kiến nghị chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thủ tục sơ
thẩm giải quyết các TCKDTM bằng Tòa án đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của
công tác xét xử của Tòa án trong việc giải quyết các TCKDTM.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC SƠ THẨM GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN ................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án ........................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.................. 7
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ............................................................................ 14
1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại .......... 21
1.2. Nguyên tắc chi phối thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.... 25
1.2.1. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự ................................................ 27
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia ....................... 28
1.2.3. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật ....................................................................................................................................... 29
1.2.4. Nguyên tắc xét xử công khai ...................................................................................... 29
1.2.5. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm .......................................... 30
1.3. Các yếu tố bảo đảm việc tiến hành thủ tục sơ thẩm trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại ................................................................................................................ 31

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC SƠ THẨM GIẢI QUYẾT CÁC
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI ............................................................... 37
2.1. Thủ tục khởi kiện .......................................................................................................... 37
2.2. Thủ tục thụ lý ................................................................................................................ 41
2.2.1. Các quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
Tòa án .................................................................................................................................. 41
2.2.2. Thụ lý vụ án................................................................................................................ 50
2.3. Thủ tục chuẩn bị xét xử ................................................................................................ 51
2.4. Thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm ............................................................................. 59
2.4.1. Bắt đầu phiên tòa ....................................................................................................... 60
2.4.2. Thủ tục tranh tụng tại phiên toà ................................................................................ 60
2.4.3. Nghị án và tuyên án ................................................................................................... 60


Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI THEO THỦ TỤC SƠ THẨM .................................................. 62
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Toà án ở Thái Bình ...................................................................................... 62
3.1.1. Tình hình giải quyết sơ thẩm các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án ở
Thái Bình.............................................................................................................................. 62
3.1.2. Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các quy định pháp luật về thủ tục sơ
thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án ở Thái Bình ................ 74
3.1.3. Nguyên nhân của những vướng mắc trong thực hiện pháp luật về thủ tục sơ thẩm
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án tại tỉnh Thái Bình. ................. 81
3.2. Kiến nghị....................................................................................................................... 83
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục sơ thẩm giải quyết các tranh
chấp kinh doanh thương mại ............................................................................................... 83
3.2.2. Kiến nghị nâng cao hiệu quả thủ tục sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại ........................................................................................................................... 86

KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 97


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1

Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ nói chung của tòa án hai cấp
tỉnh Thái Bình từ năm 2015 đến tháng 6/2018

Bảng 2.2

Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án hai cấp
tỉnh Thái Bình từ năm 2015 đến tháng 6/2018


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân


TTDS

: Tố tụng dân sự

TCKDTM

: Tranh chấp kinh doanh thương mại

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VADS

: Vụ án dân sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết TCKDTM là vấn đề vô cùng phức tạp do tham gia vào các quan
hệ này có nhiều chủ thể với những địa vị pháp lý khác nhau, thuộc những hệ thống
pháp luật khác nhau. Thời gian qua, các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
tế quốc tế nói chung và các hoạt động kinh doanh thương mại nói riêng có xu hướng
gia tăng và diễn biến phức tạp đòi hỏi phải có những phương thức giải quyết nhanh
chóng, hiệu quả nhằm bảo đảm cho các hoạt động đó được diễn ra một cách liên tục
và thuận tiện. Do đó, việc lựa chọn được một phương thức giải quyết tranh chấp
hợp lý là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo và thúc đẩy các hoạt
động kinh doanh thương mại phát triển thuận lợi1. Với môi trường tự do kinh doanh
kết hợp sự chi phối bởi các quy luật thị trường của nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh,
việc phát sinh tranh chấp giữa các bên là không thể tránh khỏi. Tranh chấp trong
hoạt động kinh doanh, thương mại phát sinh với nhiều loại hình khác nhau do có
những bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia vào quan hệ kinh tế. Việc giải quyết các TCKDTM có thể bằng các
phương thức khác nhau như thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và giải
quyết thông qua tòa án, đảm bảo việc tranh chấp hiệu quả đối với từng vụ việc cụ
thể. Những năm qua ở Việt Nam, giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
bằng tòa án thường được các chủ thể kinh doanh lựa chọn, bởi toà án là cơ quan có
đủ chức năng để thực hiện những cơ sở pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp, tòa
án là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế
cao, trường hợp các bên không chấp hành phán quyết của tòa án thì sẽ bị cưỡng chế.
Thực tế, hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án đã
phát huy được hiệu quả, bảo vệ được quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh

1

/>
1


doanh; đảm bảo được công bằng và góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh doanh
thương mại phát triển.
Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng toà án còn nhiều vấn đề đáng
quan tâm đó là: vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật, nhiều quy định chưa có sự
hướng dẫn cụ thể; quan điểm giải quyết còn chưa thống nhất giữa các cấp giải
quyết, điều đó làm cho hoạt động xét xử của toà án gặp nhiều khó khăn, vướng mắc,
chưa thật sự đảm bảo công minh, nhanh chóng, chính xác và kịp thời; thủ tục giải
quyết tranh chấp tại tòa án còn chậm, tình trạng tồn đọng án, giải quyết án kéo dài,
dễ gây phiền hà, mệt mỏi, ảnh hưởng đến lợi ích cho các bên đương sự; …Do đó,

tiếp tục nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm rõ những vấn đề pháp lý và thực tiễn
pháp luật về thủ tục giải quyết TCKDTM bằng tòa án nói chung và thủ tục sơ thẩm
nói riêng để đưa ra các giải pháp khoa học xây dựng, hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án là vấn đề cấp
thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Thủ tục sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh
doanh thương mại bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án ở Thái Bình” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật tại khoa luật kinh tế, Viện Đại học Mở Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu
Thủ tục giải quyết TCKDTM bằng tòa án là vấn đề được nhiều nhà khoa
học, nhiều cơ quan khoa học nghiên cứu và tổng kết. Kết quả nghiên cứu đã được
công bố trên sách, báo, tạp chí và trong các báo cáo tại các cuộc hội thảo khoa học,
trong các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Trong đó, có thể nêu lên một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài như sau:
- Đặng Thanh Hoa: “Thủ tục rút gọn giải quyết TCKDTM trong pháp luật
TTDS Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật học, bảo vệ tại Đại học luật Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2015.
- Hoàng Tố Nguyên: “Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết
TCKDTM ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2013.

2


- Nguyễn Thị Hiên: “Thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án về giải
quyết TCKDTM”, Luận văn thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội, 2014.
- Nguyễn Văn Tiến: “Thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân đối với các vụ
việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật TTDS Việt Nam” Luận án tiến sĩ Luật
học, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2009.
- Trần Văn Trường: “Giải quyết TCKDTM từ thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh

Yên Bái”, Luận văn thạc sĩ, bảo vệ tại Viện Đại học Mở Hà Nội, Hà Nội, 2015.
- Đinh Thị Trang: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại theo thủ tục tố tụng tòa án ở Việt Nam hiện nay” Luận văn thạc sĩ, bảo vệ tại
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013.
- Văn Thị Diệu Hương: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường bằng
tòa án”, Luận văn thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Đại học Huế, Thừa Thiên Huế, 2016.
- Viên Thế Giang: “Giải quyết TCKDTM theo quy định của BLTTDS 2004”,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2005.
- Phan Chí Hiếu: “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh theo
BLTTDS và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 6/2005.
- Nguyễn Vũ Hoàng: “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con
đường Tòa án”, Nhà xuất bản Thanh niên, năm 2003.
Hiện tại, có rất nhiều đề tài và cả các công trình khoa học đã nghiên cứu về
nội dung giải quyết tranh chấp KDTM bằng tòa án, các công trình, bài viết khoa học
nêu trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực hiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án trong những khoảng thời gian khác
nhau và từ những góc độ khác nhau, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam về giải quyết TCKDTM bằng tòa án trong thời gian qua. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở các bài viết, chưa thực sự được áp dụng thực tiễn
khoa học, khiến cho việc áp dụng luật trên thực tế trong công tác giải quyết tranh
chấp KDTM tại các TAND còn nhiều lúng túng, chưa có định hướng cụ thể. Vì vậy,
rất cần thiết có nhiều hơn nữa các nghiên cứu chuyên sâu về nội dung này, đặc biệt
3


là những nghiên cứu mang tính áp dụng thực tế. Do đó, đề tài của luận văn lựa chọn
nghiên cứu các vấn đề cơ bản còn tồn tại và kém hiệu quả của công tác giải quyết
tranh chấp KDTM bằng con đường tòa án đồng thời rút ra những sáng kiến, đóng
góp định hướng sửa đổi hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này để

phục vụ cho công tác của ngành TAND, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp KDTM trên thực tế là rất cần thiết và hoàn toàn phù hợp với yêu cầu mới
trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về thủ tục
giải quyết các TCKDTM bằng tòa án, tác giả đề xuất phương hướng và giải pháp
chủ yếu xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết các TCKDTM bằng
tòa án nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu công tác xét xử của tòa án ở Việt Nam hiện
nay nói chung và tại tòa án ở Thái Bình nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở khoa học xây dựng pháp luật về thủ tục giải quyết các
TCKDTM bằng tòa án như: khái niệm, đặc điểm giải quyết TCKDTM bằng tòa án,
thủ tục sơ thẩm giải quyết TCKDTM; vai trò của tòa án trong việc giải quyết các
TCKDTM và nguyên tắc chi phối thủ tục sơ thẩm giải quyết các TCKDTM bằng
tòa án. Phân tích các yếu tố đảm bảo việc tiến hành thủ tục sơ thẩm giải quyết
TCKDTM.
- Trình bày, phân tích, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục
sơ thẩm giải quyết các TCKDTM bằng tòa án; trên cơ sở đó xác định được trách
nhiệm của Tòa án, quyền lợi, nghĩa vụ của các bên, của tổ chức, cá nhân trong thực
thi pháp luật về thủ tục sơ thẩm giải quyết các TCKDTM bằng tòa án.
- Đánh giá đúng thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ
tục sơ thẩm giải quyết các TCKDTM bằng tòa án nói chung và từ thực tiễn tại tòa
án ở Thái Bình nói riêng; đề xuất những kiến nghị chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về thủ tục sơ thẩm giải quyết các TCKDTM bằng tòa án đáp ứng ngày

4


càng tốt hơn yêu cầu của công tác xét xử của tòa án trong việc giải quyết các

TCKDTM.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn chủ yếu tập trung vào các quy định của
hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến trình tự, thủ tục giải quyết sơ thẩm các
tranh chấp về kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân. Trên cơ sở đó đưa ra các
vụ việc thực tế trong công tác xét xử tại TAND ở Thái Bình, từ đó phân tích và liên
hệ với các quy định của pháp luật hiện hành để có cái nhìn khách quan và toàn diện,
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và các quy định của pháp luật về
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: trong phạm vi là một Luận văn thạc sĩ Luật đề tài tập trung
nghiên cứu những vấn đề chung mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến pháp
luật về thủ tục giải quyết các TCKDTM bằng tòa án.
- Về thời gian: từ năm 2015 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết
thực tiễn...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu giúp các cơ
quan xét xử thực hiện tốt hơn công tác xét xử nói chung và nâng cao vai trò, trách
nhiệm, thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các TCKDTM nói riêng.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu,
giảng dạy và học tập bộ môn Luật TTDS tại cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu luận văn
5



Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại bằng Tòa án.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thủ tục sơ thẩm giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại theo thủ tục sơ
thẩm

6


Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC SƠ
THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án
1.1.1. Khái niệm thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về
quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn
này có thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên
chúng được gọi theo ngành luật đó2. Ví dụ: Tranh chấp về tiền lương giữa người lao
động và người sử dụng lao động được gọi là tranh chấp lao động. Tương tự như
vậy, tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai... đều là những tranh chấp có liên quan
đến lợi ích kinh tế của các bên. Do đó chúng có thể được gọi là tranh chấp kinh tế
theo nghĩa rộng. Một đặc trưng của các tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng đó là các
chủ thể tham gia vào quan hệ này không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.

Tranh chấp thương mại (hay tranh chấp kinh doanh) là thuật ngữ quen thuộc
trong đời sống kinh tế - xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới được sử
dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây và ngày càng chiếm giữ
vị trí “thống lĩnh” bởi sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái
niệm quen thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp
lý của người Việt Nam3.
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động thương mại.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong
hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả
của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế

2
3

/> />
7


nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt
động này cũng như các phương thức giải quyết.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại là
tranh chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước thành
viên WTO khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp định nào đó
của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành viên khác áp dụng
một biện pháp thương mại hoặc không thực hiện một nghĩa vụ (khiếu kiện vi
phạm); hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản trở, triệt tiêu hoặc suy
giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành viên bất kể là
biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không (khiếu kiện không có vi
phạm); hoặc khi có bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt
mục tiêu hiệp định (khiếu kiện tình huống)4. Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành

một tranh chấp của WTO khi nó được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO.
Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là bất đồng giữa
các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các
Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho
Ban thư ký WTO. Như vậy, tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO có một
số đặc điểm sau: (i) tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO là tranh chấp
thương mại quốc tế liên quốc gia, liên Chính phủ; (ii) các bên tranh chấp là thành
viên WTO. Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, pháp nhân… không thể là một bên
của tranh chấp; (iii) khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO và (iv) tranh chấp
phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (DSM).
Tại Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định
trong Luật Thương mại năm 1997. Tại Điều 238 Luật Thương mại quy định: Tranh
chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Theo đó, nội hàm hoạt động
thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 rất hẹp so với quan niệm
4

/>
8


quốc tế về thương mại. Hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba nhóm: Hoạt động
mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương
mại. Tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại theo quy định của Luật
Thương mại năm 1997 đã loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các
tranh chấp đó có thể được coi là các tranh chấp thương mại. Vì vậy đã dẫn đến các
xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế, trong đó có cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là
thành viên (Công ước New York năm 1958) gây không ít những trở ngại, rắc rối

trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 không trực tiếp đưa ra định nghĩa
về tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt động thương
mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm về thương mại và
tranh chấp thương mại của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật
và thông lệ quốc tế. Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Trọng tài thương
mại thì hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại
của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
phân phối; đại diện, đại lí thương mại; kí gửi, thuê, cho thuê; xây dựng; tư vấn; kỹ
thuật; li xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò; khai thác; vận
chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, biển, đường sắt, đường bộ
và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, khái niệm thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam đã
được mở rộng, phù hợp với khái niệm thương mại trong Luật mẫu của Liên Hợp
Quốc về trọng tài (UNCITRAL Model Law), Hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ và WTO5. Vấn đề này không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo đảm sự bình
đẳng giữa các chủ thể hoạt động thương mại tham gia vào việc giải quyết tranh chấp
mà còn có ý nghĩa trong vấn đề công nhận và thi hành các phán quyết của trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam. Khái niệm “hoạt động thương mại” quy định tại Pháp
lệnh Trọng tài thương mại đã thể hiện sự đột phá trong việc tiếp cận các chuẩn mực

5

/>
9


chung của thông lệ và pháp luật quốc tế. Vì vậy, khái niệm hoạt động thương mại
đã được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực thương mại.
Luật Thương mại năm 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 đã đưa
ra một khái niệm về hoạt động thương mại tương đối giản đơn. Tuy nhiên, khái

niệm này cũng đã hàm chứa và lột tả được nội hàm của hoạt động thương mại.
Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại quy định: Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Theo khái niệm
này, quan niệm về hoạt động thương mại được mở rộng bao gồm mọi hoạt động có
mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này của Luật Thương mại cho thấy, khái niệm về
hoạt động thương mại đã thể hiện sự tương đồng với khái niệm kinh doanh trong
Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng như Luật Doanh
nghiệp năm 2014. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 cũng đã liệt kê các tranh chấp
về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. BLTTDS năm
2004 không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” độc lập mà sử dụng chung
thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh, thương mại” nhưng nội dung của các tranh chấp
về kinh doanh thương mại được quy định tại Điều 29 BLTTDS thực chất là các
tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại năm 20056. Điều
này cho thấy, mặc dù có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng
nhưng nhìn chung quan niệm về hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại
được thể hiện qua các quy định trong các văn bản pháp luật tương đối nhất quán.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cũng xác định thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp của trọng tài thương mại, bao gồm: (i) tranh chấp giữa các bên phát sinh
từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một

6

/>
10



bên có hoạt động thương mại; (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy
định được giải quyết bằng Trọng tài.
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm đầu của thế
kỷ này được diễn ra trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của
các quan hệ kinh tế với tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước khẳng định
nó là bộ phận không thể thiếu được của thị trường thế giới. Tranh chấp trong kinh tế
nói chung và trong kinh doanh nói riêng với tính cách là hệ quả tất yếu của quá trình
này cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại và gay gắt phức tạp hơn về tính chất
và quy mô.
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song đa số các nhà khoa học đều thống nhất
rằng, tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay
xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ
kinh tế ở các cấp độ khác nhau. Theo đó, tranh chấp kinh tế có thể có các dạng cơ
bản sau:
(i) Tranh chấp trong kinh doanh: được diễn ra giữa các chủ thể tham gia kinh
doanh. Cụ thể, đó là những tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh
lợi.
(ii) Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư:
Loại hình tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BTO, BT,
BOT, thực hiện các điều ước quốc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư song
phương và đa phương.
(iii) Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện các điều ước quốc tế
về thương mại song phương và đa phương.
(iv) Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong việc
thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại đa phương.
Ở đâu có hoạt động kinh doanh thương mại thì ở đó có khả năng phát sinh
tranh chấp. Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh, vì vậy

11



giải quyết các tranh chấp phát sinh được coi là tự thân của các quan hệ kinh tế7. Ở
góc độ khái quát chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là việc lựa
chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung
đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể
chấp nhận được.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
phải đáp ứng các yêu cầu sau:
(i) Nhanh chóng, thuận lợi, không làm hạn chế, cản trở các hoạt động kinh
doanh thương mại.
(ii) Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong
kinh doanh thương mại.
(iii) Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường.
(iv) Kinh tế nhất, ít tốn kém nhất.
(v) Phải được giải quyết theo nguyên tắc tự do ý chí, thể hiện quyền định
đoạt của các bên trong tranh chấp.
Có nhiều cách thức khác nhau để giải quyết tranh chấp. Tùy thuộc vào phong
tục tập quán, truyền thống, trình độ phát triển kinh tế – xã hội mà mỗi quốc gia trên
thế giới có các cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh rất khác nhau. Nhìn
chung cho đến thời điểm hiện tại, các hình thức giải quyết tranh chấp chủ yếu được
áp dụng rộng rãi trên thế giới bao gồm: thương lượng, hoà giải, trọng tài (phi chính
phủ) và giải quyết thông qua tòa án.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng tòa án là hình thức giải quyết tranh
chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà
nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh
cưỡng chế. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, tòa án phải tuân
theo một trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật đã quy định, cụ thể đó là những
nguyên tắc cơ bản; trình tự, thủ tục khởi kiện; trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc tại


7

/>C48BE?p_p_id=EXT_ARTICLEVIEW&p_p_lifecycle=0&_EXT_ARTICLEVIEW_groupId=10217&_EXT
_ARTICLEVIEW_articleId=34155&_EXT_ARTICLEVIEW_version=1.0

12


tòa án, thi hành bản án, quyết định của tòa án; quyền và nghĩa vụ của những người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như của những cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan,…
Ở hầu hết các nước trên thế giới, giải quyết các TCKDTM bằng tòa án áp
dụng cho các tranh chấp trong kinh doanh được dựa trên nền tảng thủ tục TTDS
cùng với một số quy định đặc thù cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, chẳng
hạn như: về hội đồng xét xử, về thời gian của các trình tự tố tụng, … Do vậy, ở các
quốc gia này người ta không hình thành luật tố tụng riêng cho các tranh chấp trong
kinh doanh mà chỉ có luật về TTDS.
Ví dụ: Ở Cộng hoà Liên bang Đức, Luật tố tụng đối với các VADS và
thương mại được quy định thống nhất trong BLTTDS; ở Pháp, Anh và Mỹ các tranh
chấp trong lĩnh vực kinh doanh thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đều được
áp dụng theo thủ tục TTDS.
Có thể nói, giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Tòa án – một cơ quan Nhà
nước, hoạt động xét xử của nó mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước và đóng vai trò là cơ quan bảo vệ pháp luật; phán
quyết của tòa án được đảm bảo thi hành và thủ tục giải quyết của Tòa án rất chặt
chẽ, rất phức tạp và không thể thay đổi được; phán quyết của tòa án có thể bị kháng
cáo, kháng nghị hoặc có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Như vậy, có thể khái quát khái niệm giải quyết TCKDTM bằng toà án: là phương
thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân dânh quyền lực nhà nước, được
tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của

Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được bảo đảm thi
hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật
tự quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức”8. Theo Từ điển

8

Viện ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.972.

13


Giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “Sơ thẩm là xét
xử lần đầu vụ án dân sự”9.
Từ những phân tích trên và theo luật TTDS thì “phiên tòa sơ thẩm VADS là
phiên xét xử VADS lần đầu của Tòa án”, có thể khái quát thủ tục sơ thẩm giải quyết
TCKDTM là thủ tục xét xử lần đầu của Tòa án về những vụ án TCKDTM theo trình
tự, thủ tục quy định. Tuy nhiên, khái niệm trên chỉ đưa ra cách hiểu khái quát nhất,
chung nhất về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo BLTTDS Việt Nam mà chưa chỉ ra
được đặc điểm cơ bản của phiên tòa sơ thẩm dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.2.1. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại
Trong các loại hình tranh chấp kinh tế thì tranh chấp trong kinh doanh là loại
hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó trong một số trường hợp khái niệm tranh
chấp trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp kinh tế được sử dụng với ý nghĩa
tương đương nhau. Mặt khác, tranh chấp trong kinh doanh thương mại còn được
hiểu là sự bất đồng về một hiện tượng pháp lý phát sinh trong đời sống kinh tế giữa
các chủ thể tham gia kinh doanh và thông thường gắn liền với các yếu tố, lợi ích về
mặt tài sản. Do đó, có thể khái quát những đặc điểm tranh chấp trong kinh doanh

như sau:
Thứ nhất, chủ thể tranh chấp trong thương mại. Chủ thể chủ yếu trong quan
hệ tranh chấp thương mại là các thương nhân; ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu
của tranh chấp thương mại, một bên chủ thể của tranh chấp thương mại có thể là
thành viên của thương nhân với nhau hoặc với thương nhân; giữa thương nhân với
các bên có liên quan không phải là thương nhân tuy thuộc vào từng quan hệ thương
mại cụ thể. Khoa học pháp lý gọi giao dịch này là giao dịch hỗn hợp (hành vi hỗn
hợp). Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao
dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy, nhưng bên
không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng luật thương mại thì quan hệ này trở
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học (Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.255.
9

14


thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật
này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại. Một quy tắc được pháp luật của
Pháp và nhiều quốc gia áp dụng để giải quyết loại tranh chấp này đó là căn cứ vào
bị đơn là thương nhân hay không phải là thương nhân. Nếu bị đơn là thương nhân
thì nguyên đơn (bên có hành vi dân sự) có thể chọn Tòa Thương mại hoặc Tòa Dân
sự để giải quyết vụ tranh chấp. Trường hợp nguyên đơn chọn Tòa Thương mại thì
các quy định khắt khe hơn của luật thương mại được áp dụng để giải quyết vụ tranh
chấp. Ngược lại, bị đơn không phải là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi
thương mại) chỉ có quyền kiện ra Tòa Dân sự và luật dân sự được áp dụng để giải
quyết vụ tranh chấp mà các quy định của luật thương mại không thể áp dụng cho
đối phương không phải là thương nhân.
Thứ hai, lĩnh vực phát sinh tranh chấp trong thương mại. Căn cứ phát sinh
tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật. Trong

nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng
và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi
ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp10. Tranh chấp trong thương
mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh
từ các hoạt động thương mại, là những hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư các hoạt động nhằm mục đích sinh lời
khác, trong đó cần chú ý tới các hoạt động đầu tư.
Thứ ba, nội dung của tranh chấp trong thương mại. Tranh chấp thương mại
chính là những xung đột về lợi ích của các bên trong quan hệ thương mại; do đó,
nội dung của tranh chấp thường liên quan đến lợi ích vật chất, lợi ích tài sản của các
bên tranh chấp. Xét về mặt giá trị, các tranh chấp trong thương mại thường có giá trị
lớn. Các giá trị của tranh chấp trong thương mại tỷ lệ thuận với sự phát triển của
nền kinh tế xã hội. Hơn nữa, trong quan hệ thương mại hiện đại, tính rủi ro trong
thực hiên hợp đồng càng cao thì giá trị của các tranh chấp càng lớn.

10

/>
15


Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các tranh chấp trong kinh doanh chủ
yếu tồn tại dưới dạng các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, phản ánh tính đơn điệu
của các lợi ích cần bảo vệ trong mô hình kinh tế này. Ngược lại, trong điều kiện
kinh tế thị trường, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế kéo theo sự đa dạng về
đối tượng chủ thể và lợi ích cần bảo vệ, sự xuất hiện của các phương thức kinh
doanh, thị trường và các yếu tố sản xuất phi truyền thống làm phát sinh nhiều dạng
tranh chấp mới, ví dụ như: tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty, giữa các
thành viên công ty với nhau trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty;
tranh chấp trong việc mua bán các loại cổ phiếu, trái phiếu; tranh chấp về liên

doanh, liên kết kinh tế, … Chính sự thay đổi về nội dung và hình thức tranh chấp
trong kinh doanh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã và đang đòi hỏi các hình
thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp
với các yêu cầu của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Dựa trên những căn cứ pháp lý khác nhau như: Phạm vi lãnh thổ, số lượng
các bên tranh chấp, căn cứ vào lĩnh vực tranh chấp, quá trình thực hiện, thời điểm
phát sinh tranh chấp, tranh chấp thương mại được chia thành các loại tranh chấp
khác nhau.
Tranh chấp thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan của
nền kinh tế thị trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần phải được
giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo
đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội.
1.1.2.2. Đặc điểm của thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại
Giải quyết TCKDTM có thể hiểu là cách thức, phương pháp cũng như các
hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh. Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh,
trong đó bao hàm quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên
tranh chấp có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất cho
mình. Thực tiễn, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã hình thành bốn phương thức
16


giải quyết TCKDTM đó, bao gồm: (1) Thương lượng; (2) Hòa giải; (3) Trọng tài
Thương mại; (4) Tòa án.
Thương lượng là hình thức giải quyết TCKDTM được tiến hành giữa các bên
(hoặc đại diện của các bên) tranh chấp để cùng tìm ra và đi đến những thỏa thuận
thống nhất bằng những giải pháp phù hợp với tất cả các bên nhằm chấm dứt những
tranh chấp trong hoạt động kinh doanh.

Hòa giải là phương thức giải quyết TCKDTM có sự tham gia của bên thứ ba
giữ vai trò trung gian hòa giải nhằm giúp cho các bên tranh chấp thu hẹp những bất
đồng và đi đến giải pháp giải quyết vụ tranh chấp.
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Trọng
tài viên (hoặc Hội đồng Trọng tài), với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt
xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và
bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân
thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng thương lượng, hoà
giải và trọng tài là các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh không
mang ý chí quyền lực nhà nước (không nhân danh quyền lực nhà nước như phán
quyết của toà án) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt
của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập (được các bên lựa
chọn) theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo. Trong khi đó, giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh thương mại bằng toà án lại là phương thức giải quyết tranh chấp mang ý
chí quyền lực nhà nước, được toà án tiến hành theo thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ.
Ưu điểm nổi bật của các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
thương mại bằng thương lượng, hoà giải và trọng tài so với toà án, đó là tính linh
hoạt, mềm dẻo của thủ tục, bảo đảm tối đa quyền định đoạt của các bên tranh chấp
mà không bị ràng buộc nghiêm ngặt, chặt chẽ bởi thủ tục pháp lý bắt buộc như giải

17


×