Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Luận văn cao học Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tỉnh hủa phăn nước CHDCND lào hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.29 KB, 72 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................5
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC................................................................................5
1.1. Khái niệm cán bộ, công chức.....................................................................5
1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức....................................10
1.3. Vị trí, vai trò, tiêu chí của cán bộ và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.............................................................21
Chương 2 THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC Ở TỈNH HỦA PHĂN NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO.......................................................................................................29
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội tỉnh Hủa Phăn...................29
2.2. Hệ thống các cơ quan quản lý và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức tỉnh Hủa Phăn.........................................................................................31
2.3. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Huả
Phăn.................................................................................................................34
2.4. Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở tỉnh Hủa Phăn......................................................................................41
2.5. Những hạn chế và nguyên nhân trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức ở tỉnh Hủa Phăn.............................................................................50
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở TỈNH
HỦA PHĂN....................................................................................................53
3.1. Mục tiêu và phương hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở tỉnh
Hủa Phăn.........................................................................................................53
3.2. Các giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ở tỉnh Hủa Phăn.............................................................................57
KẾT LUẬN....................................................................................................66



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................67
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CHDCND
NDCM
XHCN

: Cộng hòa dân chủ nhân dân
: Nhân dân cách mạng
Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Phân bố theo độ tuổi của cán bộ, công chức ở tỉnh Hủa Phăn........36
Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức ở tỉnh Hủa Phăn......37
Bảng 2.3: Trình độ Lý luận chính trị - hành chính của cán bộ, công chức ở
tỉnh Hủa Phăn..................................................................................................39
Bảng 2.4: Số lượng cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng trong nước và
nước ngoài về lý luận chính trị của tỉnh Hủa Phăn.........................................45
từ năm 2011 - 2015..........................................................................................45
Bảng 2.5: Thống kê số lượt người đã gửi đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ trong nước và nước ngoài từ năm 2011 - 2015..............................47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ, công chức là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh
hưởng đến sự thành công hay thất bại của các chính đảng cầm quyền của một
đất nước. Chính vì vậy từ khi thành lập và xây dựng đất nước Lào cho đến
nay Đảng nhân dân cách mạng Lào cũng như nhà nước Lào luôn chú trọng và
quan tâm nhằm xây dựng và bồi dưỡng được những đội ngũ cán bộ có đủ đức,

đủ tài, có tâm và có nhiệt huyết trong công việc mà mình có trọng trách được
giao phó.
Nhìn lại lịch sử chúng ta có thể thấy được rằng các cán bộ cách mạng
đã đóng góp rất lớn để nước Lào có thể giành được thắng lợi trước sự xâm
lược của đế quốc Mỹ. Đồng thời, những người cán bộ, công chức cũng có rất
nhiều đóng góp khi họ làm việc trong các cơ quan nhà nước để góp phần giúp
Lào tái thiết và xây dựng đất nước khỏi những hậu quả của chiến tranh để
ngày một phát triển hơn, hiện đại và giàu có hơn.
Là một trong những tỉnh có lịch sử vẻ vang của đất nước, tỉnh Hủa
Phăn là tỉnh đã bảo vệ các cán bộ chiến sĩ cách mạng trong thời kỳ chiến tranh
cũng như đóng góp rất nhiều cán bộ nguồn cho Trung ương và Đảng nhân dân
cách mạng Lào trong công cuộc quản lý và lãnh đạo các Bộ, ban ngành, cơ
quan. Do vậy Hủa Phăn luôn chú trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ,
công chức để giúp cho tỉnh có được những nguồn cán bộ hội tụ đủ những
phẩm chất quan trọng nhất nhằm giúp họ thực hiện công việc hiệu quả và
thành công.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của đất nước cũng
như của tỉnh khối lượng công việc ngày càng nhiều hơn và khó khăn hơn đòi
hỏi những người cán bộ, công chức cần có đủ các kiến thức, các kỹ năng và
các phẩm chất để thực hiện công việc được thành công nhất. Tỉnh Hủa Phăn

1


cũng đã tạo được nhiều đội ngũ cán bộ trong các cơ quan có đức và có tài và
thực hiện giải quyết các công việc một cạc hết sức hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì công tác đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ của tỉnh Hủa Phăn vẫn còn nhiều hạn chế và chưa đáp ứng
được những yêu cầu ngày càng cao hơn của công cuộc đổi mới và phát triển
đất nước. Do vậy, một trong những nhiệm vụ mà Đảng bộ tỉnh Hủa Phăn rất

chú trọng và coi đó là ưu tiên hàng đầu của tỉnh đó là nhanh chóng nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Hủa Phăn để có được
đội ngũ cán bộ công chức tốt nhất.
Xuất phát từ những vấn đề đó cùng với sự mong muốn của bản thân em
muốn thực hiện và tìm hiểu về vấn đề này do vậy em đã lựa chọn đề tài:
“Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND
Lào hiện nay” làm đề tài khóa luận chuyên ngành Chính trị phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề cán bộ nói chung cũng như vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
nói chung luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu, các học giả và các nhà báo
quan tâm và đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này
được thực hiện. Trong đó chúng ta có thể kể đến một số công trình nghiên cứu
đó là:
Thứ nhất: Các công trình có liên quan đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức
“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của BTCTW”, đề tài của Ban Tổ
chức Trung ương khảo sát thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng của đội ngũ cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương, năm 2004.
“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các BTC tỉnh, thành uỷ, Tạp chí
Xây dựng Đảng thuộc Ban Tổ chức Trung ương, năm 2007: đề tài góp phần
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đội ngũ cán bộ tổ chức xây dựng Đảng.
“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, năm 2003.
2


“Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức”, Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2005.
“Nâng cao chất lợng công tác đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức

vùng dân tộc thiểu số tỉnh phía Bắc nớc ta trong giai đoạn mới”, Luận văn tốt
nghiệp đại học chính trị của Đinh Xuân Chính,Hà Nội, năm 2009.
“Công tác đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức nhà nước tỉnh
Ninh Bình”, Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị của Tô Văn Hoạt, Hà
Nội, năm 2005.
Thứ hai: Các công trình nghiên cứu về cán bộ, chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức của nước Lào
“Công tác quản lý đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban chấp hành
Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào quản lý giai đoạn hiện nay”,
Luận văn Xây dựng Đảng của But Xa Đi,Viêng Chăn, năm 2008.
“Nâng cao chất lợng đào tạo, bồi dỡng cán bộ chủ chốt ở tỉnh Viêng
Chăn trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn tốt nghiệp đại học Chính trị - Hành
chính quốc gia Lào của Sun Thong Khăm, Viêng Chăn, năm 2008.
“Công tác cán bộ ở CHDCND Lào”, Nghiên cứu của Xôm Nức Xổn
Vi Chít - NCS Chính trị, viện khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia
Lào,Viêng Chăn, năm 2009.
“Đảng NDCM Lào không ngừng chăm lo đội ngũ cán bộ”, Luận văn
Xây dựng Đảng của Lithi Sisuvieng, Viêng Chăn, năm 2007.
Thứ ba: Các công trình nghiên cứu về cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức của tỉnh Hủa Phăn
“Xây dựng cán bộ quản lý kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần hiện nay tại tỉnh Hủa Phăn”, Luận văn Kinh tế chính trị của
Kong la si wath, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
Từ những công trình nghiên cứu trên chúng ta có thể thấy được rằng
các công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu về hầu hết các vấn đề quan trọng
và cấp bách nhất trong công tác cán bộ hiện nay. Tuy nhiên trong những công
3


trình nghiên cứu đó vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào mà các tác giả

nghiên cứu về việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại tỉnh Hủa Phăn, do vậy tác
giả đã lựa chọn để góp phần làm rõ vấn đề này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hoá các lý thuyết, làm rõ các khái niệm cơ bản về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đề tài tập trung làm rõ thực trạng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ của tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào.
Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Hủa Phăn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Phân tích thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở tỉnh Hủa
Phăn nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở tỉnh Hủa Phăn.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tập là Chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào.
Thời gian nghiên cứu của đề tài là từ 2010 đến nay.
Không gian: Tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin (Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử) và quan điểm của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu như phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp so sánh, tổng hợp.
6. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận bao gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và tài
liệu tham khảo.Trong đó phần nội dung gồm 3 chương và 10 tiết.

4


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC
1.1. Khái niệm cán bộ, công chức
1.1.1. Quan niệm về cán bộ, công chức của Việt Nam
Ở nước Việt Nam khái niệm “cán bộ” có từ lâu. Nhưng chỉ đến năm
1950, sau 05 năm đất nước Việt Nam giành độc lập thì khái niệm đó mới xuất
hiện trong văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.
Văn bản đầu tiên là Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định quy chế công chức Việt Nam.
Điều 1 của Sắc lệnh ghi: “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân
dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong
nước hay ở nước ngoài đều là công chức theo quy chế này, trừ trường hợp
riêng biệt do Chính phủ quy định”.
Trải qua diễn biến phát triển của đất nước, các khái niện trên cũng có
nhiều cách gọi, được thể hiện dưới nhiều thể loại văn bản khác nhau. Cuối
những năm 80 của thế kỷ trước, khái niệm “cán bộ” được gọi chung là “cán
bộ, công nhân viên chức nhà nước”. Khái niệm này được gọi chung cho tất
cả những người làm việc cho Nhà nước, không có sự phân biệt rõ ràng. Đội
ngũ này được hình thành từ nhiều con đường, có thể do bầu cử, có thể do
phân công sau khi tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp, có thể do tuyển
dụng, bổ nhiệm…
Đến thời kỳ đổi mới (sau năm 1986), trước yêu cầu khách quan cải
cách nền hành chính và đòi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức nhà
nước, khái niệm công chức được sử dụng trở lại trong Nghị định 169/HĐBT
ngày 25/5/1991 của Chính phủ. Nghị định nêu rõ: “Công dân Việt nam được

tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở
5


của nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước, đã
được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công
chức nhà nước”.
Năm 1998, Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời, là văn bản pháp lý cao
nhất của nước ta về cán bộ, công chức. Dưới Pháp lệnh là Nghị định số
95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công
chức. Nghị định đã cụ thể hóa khái niệm công chức “là công dân Việt Nam,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm những người
được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công việc thường xuyên, được
phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch
hành chính, sự nghiệp; những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc
quân đội nhân dân và công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng”.
Sau hai lần sửa đổi, năm 2003, Pháp lệnh Cán bộ, công chức cho khái
niệm gộp cả cán bộ, công chức (quy định tại Điều 1) như sau:
Cán bộ quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam trong biên chế
bao gồm:
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung
ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; ở quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh.
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung

ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức
hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà
nước; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
6


Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân
dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp.
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ
trong thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư
Đảng uỷ; Người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội xã,
phường, thị trấn.
Những người được tuyển dụng, giao giữ chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã”.
Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm
2008. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Khoản 1
Điều 4 quy định về cán bộ:“ Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã
hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung
là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [3, tr. 3]
Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức của Việt
Nam quy định về công chức: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển

dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
7


lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau
đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn
vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [2, tr. 2]
1.1.2. Quan niệm về cán bộ, công chức của nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào
Quan niệm về cán bộ công chức của Lào là dựa vào tính đặc thù của
nền công cụ của Lào, vì vậy quan niệm cán bộ, công chức được hiểu theo
nghĩa khác nhau :
Theo thuật ngữ cán bộ xuất hiện nhiều trong các văn bản chính trị, pháp
luật và quản lý nhà nước, tuy nhiên do trải qua các thế kỷ khác nhau nên quan
niệm cán bộ cũng không hoàn toàn thống nhất.
Vào những năm 50-70 của thế kỷ XX. Quan niệm của cán bộ xuất phát
trong đời sống xã hội của Lào đề chỉ một lớp người, những chiến sỹ cách
mạng chịu hy sinh, gian khổ đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong thời kỷ
kháng chiến chống pháp, thuật ngữ này được dùng phổ biến khi tất cả những
người thoát ly tham gia hoạt động kháng chiến, để phân biệt với nhân dân thời
kỷ kháng chiến chống pháp, thuật ngữ cán bộ được hiểu là :
Thứ nhất: cán bộ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy
từ cơ sở đến trung ương (cán bộ lãnh đạo) phân biệt với đảng viên thường,

đoàn viên, hội viên hoặc cán bộ là những người làm công tác chuyên trách
hưởng lương cho các tổ chức đảng, đoàn thể.
Thứ hai: cán bộ là những người giữ cương vị chỉ huy từ tiền đồn trưởng
trở lên (cán bộ tiền đội, đại đội, cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn v.v)
hoặc là sỹ quan từ cấp ủy trở lên trong quân đội nhân dân Lào. Trong hệ
thống bộ máy nhà nước, quân niệm cán bộ được hiểu với nghĩa trùng với khái
niệm công chức, gồm những người làm việc trong cơ quan hành chính nhà
nước, đồng thời, cán bộ cũng hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ
8


trách, lãnh đạo, tuy cách đùng,cách biểu đạt khái niệm cán bộ có khác nhau
nhưng về cơ bản thuật ngữ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là nững nguồn
thuộc bộ khung, là nòng cốt, là lãnh đạo, là chỉ huy.
Hiện nay thuật ngữ, cán bộ được dùng rất phổ biến, cụ thể là những
người làm việc ở các cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng
từ trung ương đến địa phương (trừ những người làm việc trong lực lượng vũ
trang nhân dân, công an, bộ đội) thường gọi là cán bộ. Ngoài ra thuật ngữ cán
bộ còn được dùng cho cả những người làm việc ở các danh nghiệp nhà nước,
tư nhân các công ty, tổ chức quốc tế, v.v nhằm mục đích phân biệt với thuật
ngữ công nhân, nông dân, nhân dân, theo người dân thường dùng phổ biến ở
Lào. Thuật ngữ này thường được dùng phổ biến các tài liệu của các cơ quan
Đảng - công tác Đảng. Nhà nước về công tác cán bộ, đoàn thể và những lời
phát biểu, vận động nhân dân và người dân hay dùng gọi đối với những người
của Đảng và nhà nước xuồng làm việc với người dân địa phương, như : cán
bộ huyện, cán bộ tỉnh.
Theo nghị định số 82/2003 /NĐ-TT 19/5/2003 của thủ tướng chính phủ
nước CHDCND Lào về quy chế công chức CHDCND Lào, Điều 2 đã quy
định, công chức của CHDCND Lào là công dân Lào được sắp xếp vào biên
chế và được tuyển dụng làm việc thường xuyên ở các tổ chức Đảng, Nhà

nước, các tổ chức đoàn thể quần chúng từ trung ương đến địa phương và ở
các cơ quan đại diện nước CHDCND Lào ở nước ngoài được hưởng lương và
tiền trợ cấp từ ngân sách nhà nước.
Điều 3 quy định: Những đối tượng như: cán bộ lãnh đạo cao cấp (từ
cấp thứ trưởng và tương lương trở lên): công an, cán bộ thuộc doanh nghiệp,
nhà nước, cán bộ theo hợp đồng, thì chính phủ có quy định điều chính riêng.
Như vậy, có thể thấy khái niệm về công chức của nghị định này có
phạm vi điều chỉnh rất rộng, đối tượng điều chỉnh ở đây không chỉ là những
người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương mà còn bao hàm cả những người làm việc ở các cơ quan Đảng, đoàn
9


thể khác (bao gồm tất cả những người làm việc trong hệ thống chính trị, từ
trường hợp những đối tượng được quy định tại Điều 3 như nói trên, tuy nhiên
trong thời gian qua quan niệm cấn bộ và khái niệm công chức được hiểu theo
hai nghĩa khác nhau : cán bộ là những người được bổ nhiệm vào ngạch công
vụ, chức danh trong cơ quan Đảng và Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương và địa phương: còn công chức là những người tuyển dụng làm
việc thường xuyên ở tổ chức Đảng và Nhà nước và các tổ chức đoàn thể quân
chúng từ trung ương đến địa phương, những quan niệm cán bộ, công chức vẫn
có những điểm chung đó là cả cán bộ, công chức đều là những người được
làm việc tại cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Tóm lại cán bộ công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, tỉnh và huyện được hưởng lương từ ngân sách
nhà nước [5, tr. 9].
1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đào tạo là quá trình học tập, rèn luyện để trở thành người có năng lực

theo những tiêu chuẩn nhất định, đáp ứng theo những yêu cầu nhất định.
Theo từ điển tiếng Việt: Đào tạo đề cập đến việc dậy các kỹ năng thực
hành nghề nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể [8.tr,33], để
người học nắm vững những trí thức kỹ năng, nghề nghiệp một cách có hệ
thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm
nhận được một công việc nhất định.
Đào tạo là một khâu quan trọng của công tác cán bộ, gắn liền với quy
hoạch cán bộ, bố trí sử dụng cán bộ. Là quá trình tác động đến con người, là
quá trình truyền thụ những kiến thức mới nhằm làm cho người đó nắm được
những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho người học một cách có hệ thống, để
người học nâng cao trình độ hơn trước khi được đào tạo, giúp họ làm được
những công việc một cách có hiệu quả và năng suất cao hơn, đồng thời góp
10


phần hoàn thiện nhân cách cá nhân [1, tr.31]
Đào tạo là một quá trình truyền thụ kiến thức mới để người cán bộ,
công chức có sự biến đổi về trình độ, về kỹ năng và qua đó năng lực làm việc
được nâng lên. Thông thường, đào tạo là quá trình trang bị kiến thức mới cơ
bản hoặc trang bị kiến thức ở trình độ cao hơn, do đó thời gian đào tạo thường
dài hơn thời gian bồi dưỡng, một khóa học đào tạo được bố trí chương trình,
nội dung cụ thể, kiến thức sâu và chi tiết.
Bồi dưỡng là việc nâng cao thêm năng lực hoặc phẩm chất, đó là quá
trình hoạt động làm tăng thêm những kiến thức mới, đòi hỏi và bổ sung những
kỹ năng hoạt động đối với những cán bộ, công chức đang giữ một chức danh,
một ngạch công chức, viên chức nhất định.
Mục đích chủ yếu của bồi dưỡng là bổ sung kiến thức, kỹ năng; cũng
có thể trang bị kiến thức mới nhưng chỉ một nhóm kiến thức trên một lĩnh vực
nhất định hay là bồi dưỡng chuyên sâu, cập nhật những nội dung công tác,
năng lực quản lý hay chuyên môn liên quan với chức danh công tác, ngạch

công chức đang đảm trách. Do vậy, thời gian của khoá bồi dưỡng thường là
ngắn hơn so với đào tạo, thời gian một khoá bồi dưỡng có thể vài ngày hoặc
vài tuần tới vài tháng. Khi hoàn thành khoá bồi dưỡng người học thường được
nhận giấy chứng nhận ghi nhận kết quả học tập; cũng có thể là chứng chỉ
tương đương một môn học [1, tr.33]
Bồi dưỡng để nâng cao kỹ năng và năng lực liên quan đến công vụ
đang làm; đó cũng là cách nhằm làm cho người lao động làm chủ được
công vụ của mình và hoàn thành với chất lượng cao, đáp ứng được đòi hỏi
của thực tiễn.
Bồi dưỡng là một quá trình nhằm hoàn thiện kỹ năng, năng lực của
người lao động nhằm đáp ứng mục tiêu của tổ chức; đó là cơ hội mà người
quản lý tạo ra cho người lao động nhằm hoàn thiện kỹ năng, kiến thức chuyên
môn có liên quan đến công vụ hiện tại.
Tóm lại: Khái niệm đào tạo và bồi dưỡng trên cho thấy công tác đào tạo
11


và bồi dưỡng có sự gắn kết với nhau vì mục đích chung là nhằm nâng cao
kiến thức, năng lực của con người cả về trình độ chính trị, hành chính và trình
độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đào tạo và bồi dưỡng có chức năng, chương trình và thời gian quy định
khác nhau; đào tạo là trang bị những kiến thức, chuyên môn nào đó từ ban
đầu để có được một chuyên môn nhất định trong thời gian dài hạn từ 1 năm
trở lên, ngược lại bồi dưỡng chỉ trong thời gian ngắn có nghĩa là xem xét lại
những kiến thức vốn có của mình trong thời gian qua và bổ sung những kiến
thức mới.
Những đặc thù của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng của cán bộ,
công chức nhằm mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý của
nhà nước. Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước thì nhà nước

phải quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trong
quá trình cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền, công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức có những đặc điểm mang tính
đặc thù về đối tượng người học, cách học và đặc biệt là về mục tiêu đào tạo,
bồi dưỡng.
Một là, học viên là cán bộ, công chức, là những người đang làm việc ở
các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức đoàn
thể quần chúng từ Trung ương đến địa phương và ở các cơ quan đại diện ở
nước ngoài được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Các học viên là công
chức có kinh nghiệm thực tiễn đời sống và công tác nên trong học tập đòi hỏi
người dậy phải có trình độ cao về nội dung kiến thức, thông tin khoa học và
kinh nghiệm thực tiễn.
Hai là, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là để phục vụ công việc
mà các cán bộ, công chức được giao, đang đảm nhiệm. Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức phải sát với yêu cầu của công việc nhằm đáp ứng yêu cầu
12


thực tiễn.
Ba là, các học viên cán bộ, công chức là những người đã có vị thế xã
hội, nên xác định vị trí người đi học theo một cách khác, không thể như các
sinh viên đại học... Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần giảm bớt phần
lý thuyết cũ vì họ hầu như đã biết rõ, nắm rõ, nên tập trung vào việc rèn luyện
chuyên môn, kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ, công chức trong các chức
vụ quản lý ngành nghề khác nhau.
Bốn là, nội dung, chương trình của các cơ sở đào tạo phải chuyên sâu
về các ngành nghề, không nên đào tạo chung chung không xác định rõ các đối
tượng cần đào tạo.
Do đó đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải thích ứng với từng

đối tượng.
Đào tạo cán bộ, công chức không hoàn toàn giống với hệ thống giáo
dục quốc dân, bởi vì hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm giáo dục chính quy
và giáo dục thường xuyên với các cấp học: mầm non, phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học.
Hoạt động đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân cung cấp nguồn
nhân lực cho toàn xã hội, trong đó bao gồm cả nguồn nhân lực là cán bộ, công
chức nhà nước.
Hoạt động đào tạo cán bộ, công chức phải căn cứ vào quy chế pháp lý
về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Phạm vi đào tạo cán bộ, công chức
trong phạm vi nguồn nhân lực của nhà nước, phục vụ cho hoạt động quản lý
nhà nước và đối tượng áp dụng là cán bộ, công chức nhà nước.
Trong thực tế giữa giáo dục đào tạo của hệ thống quốc dân và hoạt
động đào tạo cán bộ, công chức có mối quan hệ tương tác. Bởi vì, để trở thành
cán bộ, công chức thì phải qua đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân. Khái
quát có thể nói đào tạo cán bộ, công chức là khâu tiếp nối và nâng cao của
đào tạo hệ thống giáo dục quốc dân, để sử dụng một bộ phận nguồn nhân lực
của xã hội thành nguồn lực đáp ứng yêu cầu hoạt động quản lý nhà nước.
13


Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một nhiệm vụ công tác quan
trọng nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức là một lĩnh vực hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống
chính trị, đặc biệt là cơ quan nhà nước đã được pháp lệnh, pháp luật quy định.
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ
C.Mác và P.Ănghen là những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản
khoa học. Hai ông đã đưa ra các quan điểm tư tưởng của mình về cán bộ của

Đảng cộng sản, trong toàn bộ di sản của hai ông đã đưa ra những quan điểm,
tư tưởng cơ bản về tầm quan trọng của tổ chức cán bộ xây dựng đội ngũ cán
bộ. Chính các công đã trực tiếp bắt tay vào việc tuyển chọn, xây dựng đội ngũ
cán bộ cho tổ chức cộng sản đầu tiên có tính quốc tế của giai cấp công nhân
trên toàn thế giới. C.Mác và P.Ăngghen luôn luôn thực hiện nhất quán một
nguyên tắc là phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng rèn luyện những cán bộ lãnh đạo
chủ yếu qua phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng. C.Mác đã
khẳng định: “Muốn thực hiện tốt những tư tưởng cần có con người sử dụng
một lực lượng thực tiễn” [4, tr.81].
Trong điều kiện lịch sử của cách mạng, ở thời kỳ Đảng của giai cấp
công nhân nắm được chính quyền đều phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,
đây là đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp mình, đủ sức thực hiện
những yêu cầu, mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và giai cấp đề ra,
không chỉ riêng có Đảng Cộng sản mới thực hiện quan điểm này. C.Mác
muốn nói đến vai trò của cán bộ là những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền
bá tư tưởng cộng sản. Chính đảng của giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình thì phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt có
phẩm chất, năng lực đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ
cách mạng. Bài học của phong trào cộng sản quốc tế và các nước XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô trước đây đã cho thấy, nếu cán bộ lãnh đạo chủ chốt mà
14


phạm sai lầm, thoái hoá về phẩm chất chính trị và đạo đức có thể làm tan rã
Đảng và sự sụp đổ chế độ, đẩy đất nước vào thảm hoạ khó lường.
Theo C.Mác và P.Ăngghen: Cải tạo xã hội tư bản và xây dựng thành
công xã hội cộng sản bằng cách mạng vô sản là một công cuộc vĩ đại đầy khó
khăn, thử thách và lâu dài. Sứ mạng lịch sử trọng đại này đặt lên vai trò giai
cấp vô sản và đòi hỏi giai cấp vô sản phải có đảng chân chính lãnh đạo, phải
đào tạo những người cộng sản - những đảng viên, cán bộ biết lãnh đạo và

quản lý giỏi.
Kế thừa và phát triển tư tưởng C.Mác - P.Ăngghen, V.I.Lênin đã đặc
biệt coi trọng vấn đề xây dựng đảng kiểu mới đã đưa ra những quan điểm về
cán bộ có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Người chỉ rõ:
“Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu không
đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong” [11, tr. 473]
Trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”
năm 1922 V.I.Lênin đã khẳng định sau khi có chính quyền thì mấu chốt của
vấn đề là lựa chọn cán bộ cho hợp lý. Từ đó cho thấy vai trò của người lãnh
đạo là then chốt, đó là những con người có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống và năng lực công tác. Vì vậy, nếu không có một tổ chức những người
cách mạng thì không thể có một phong trào cách mạng vững chắc. Về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Lênin cũng chỉ rõ: Phải tuân thủ quy luật “thà ít
mà tốt”, phải tuân thủ theo nguyên tắc này. Thà mất 2 năm, thậm chí ba năm
nữa còn hơn hấp tấp, vội vàng mà không có tí hy vọng nào đào tạo được một
số nhân viên tốt cả.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định vai trò cán bộ và công
tác cán bộ quyết định sự nghiệp cách mạng của mỗi chính đảng. Dù ở bất kỳ
cách mạng nào, Đảng đó cũng phải coi trọng, đề cao vai trò cán bộ và công
tác cán bộ.
15


1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì muốn có cán bộ tốt thì Đảng phải làm
tốt công tác huấn luyện cán bộ, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng”. Theo Người, huấn luyện cán bộ phải toàn diện, đồng thời phải chuyên
sâu và có phương pháp khoa học.
Về phẩm chất đạo đức, tư cách cán bộ: Sinh thời, Người từng nói đạo

đức cách mạng là gốc của người cán bộ. Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hi
sinh cho lý tưởng của Đảng, phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên
trên hết và trước hết. Người nói: Đảng không phải là một tổ chức “làm quan
phát tài”. Cán bộ cách mạng không phải là “làm quan cách mạng”, “không
phải để thăng quan tiến chức”. Không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân
chúng như thời thực dân, phong kiến”. Người cán bộ phải tận tụy với sự
nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, phải hết lòng hết
sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ
cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ cũng hết sức tránh. Người
cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là tấm gương sáng trong cuộc
sống. Trong cuốn “Đường cách mệnh”, Người chỉ rõ “tư cách một người cách
mệnh” là: Tự mình phải: “Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa chữa
lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại. Hay nghiên cứu
xem xét. Vị công vô tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải
làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí
mật”. Đối với người phải: “Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì
nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét
người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể” [6, tr.18].
Về năng lực chuyên môn: Cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và đoàn thể
nhân dân. Cán bộ đảng viên phải luôn luôn học tập để không ngừng nâng cao
trình độ mọi mặt. Đặc biệt nâng cao lý luận, nâng cao khả năng tổng kết thực
16


tiễn, xem xét, so sánh thật kỹ càng thực tế nước ta với nước khác. Muốn nâng
cao trình độ lý luận thì phải. Học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin;
học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để
áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết tốt những

vấn đề thực tế trong công tác cách mạng.
Về phương pháp, cách thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ là rất quan trọng, thậm chí là
“công việc gốc của Đảng”, phải được tiến hành thường xuyên. Phải xác định
rõ mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với các yếu tố cơ bản: học thức, đạo
đức cách mạng, tác phong và năng lực công tác. Nhưng tùy từng giai đoạn
cách mạng, tùy vào tình hình cụ thể mà Người đặt ra mục đích, nhiệm vụ để
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người nhấn mạnh: “Học để hành, nghĩa là để làm
việc chứ không phải là để có bằng cấp, để cho oai và để có chức này chức nọ.
Việc giảng dạy, học tập, đào tạo, huấn luyện phải gắn liền với nghiên cứu
công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế, “kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng
nhau”, “lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi liền với nhau”[7, tr.27].
Người cho rằng: cán bộ đảng viên phải học tập lý luận Mác - Lênin, học tập
đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời phải học văn hóa, kỹ thuật nghiệp
vụ, “làm việc gì học việc đấy”, tức là cán bộ làm ở lĩnh vực gì, phụ trách ở
ngành nghề gì đều phải học cho thành thạo công việc ở lĩnh vực đó.
1.2.3. Quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (18-20/3/1996) của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào, nền kinh tế đất nước đã chuyển sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước. Từ sự thay đổi về kinh tế, đối tượng lãnh đạo và quản lý đã thay đổi căn
bản; do đó, cán bộ và chất lượng cán bộ quản lý cần được đổi mới từ quan
điểm cơ cấu nghề nghiệp, hình thành những ngành nghề mới.

17


Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn khẳng định “Cán bộ có vai trò
quyết định sự thành công của đường lối” [23, Tr.11]. Vì vậy, từ trước tới nay,

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào rất coi trọng công tác cán bộ, tập trung nâng
cao chất lượng và năng lực cán bộ đủ sức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị
trong các giai đoạn cách mạng. Đảng đã rèn luyện một đội ngũ cán bộ đông đảo,
có phẩm chất cách mạng cao đẹp, có năng lực lãnh đạo quần chúng thực hiện
các nhiệm vụ của Đảng, đưa cách mạng Lào không ngừng tiến lên.
Hiện nay, đất nước đang đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, nhất là
cán bộ chủ chốt phải được xây dựng đầy đủ, có năng lực, trình độ và phẩm
chất đạo đức đáp ứng thời kỳ mới. Bởi vậy, phải xây dựng đội ngũ cán bộ
hiện tại và kế cận vững vàng.
Để đáp ứng yêu cầu về cán bộ, công tác cán bộ phải chủ động xây dựng
quy hoạch cán bộ dài hạn và ngắn hạn. Để nâng cao chất lượng cán bộ và chủ
động về công tác cán bộ, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cho rằng: Kết hợp
chặt chẽ giữa bồi dưỡng, nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ; giữ
vững quan điểm, lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân, trau dồi đạo
đức cách mạng. Tiến hành đào tạo, bồi dưỡng đồng bộ cán bộ ở các chuyên
ngành khác nhau, từ cán bộ làm công tác đối ngoại, đến chuyên viên, chuyên
gia trên các mặt, các lĩnh vực xã hội.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã có quan điểm và các biện pháp đánh
giá cán bộ một cách khách quan, dân chủ, khoa học; luôn căn cứ vào hành động
và thành tích cụ thể, vừa tham khảo ý kiến dư luận của quần chúng nhân dân.
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ chính sách cán bộ, quan tâm, khuyến khích
những người có tài năng, sáng kiến và những người có thành tích xuất sắc;
đồng thời, có biện pháp ngăn ngừa và xử lý kịp thời các hiện tượng tiêu cực
trong đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
khẳng định: Xây dựng Đảng nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là
18



đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt là công việc khó khăn và phức tạp;
tuy nhiên phải làm thật tốt, bởi nó là tiền đề vững chắc đảm bảo cho kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ, lành mạnh và đúng hướng.
Xây dựng Đảng nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ tổ chức nói riêng,
là động chạm tới con người, vì thế nó hết sức tế nhị và nhạy cảm, nên không
thể nóng vội, giản đơn, mà phải tiến hành một cách thận trọng, tích cực không
né tránh, đồng thời có bước đi và phương pháp thích hợp.
Từ khi Đảng Nhân dân Cách mạng Lào ra đời (22/3/1955), trong mỗi
giai đoạn cách mạng, Đảng đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Đảng đã khẳng định rõ: “Cán bộ là tiền vốn quý
giá của Đảng, của nhân dân. Là người quyết định sự thành công hay thất bại
trong công việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và pháp
luật của Nhà nước” [23, tr.25].
Trong thực tiễn cũng đã cho thấy, cán bộ vừa là người tuyên truyền giáo dục, vừa là người tổ chức thực hiện, Đồng thời là người nghiên cứu tổng
hợp, báo cáo lên cấp trên và phát hiện vấn đề, tìm biện pháp giải quyết hoặc
đề nghị lên cấp trên. Mọi công việc nói chung, dù ở trong lĩnh vực nào, tốt
hay chưa tốt, nhanh hay chậm, có kết quả cao hay thấp phụ thuộc vào sự
quyết định của cán bộ.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải luôn tuân theo yêu cầu công việc trước
mắt và lâu dài của từng chuyên môn và lĩnh vực công tác, trong đó đặc biệt
chú ý đào tạo cán bộ lãnh đạo chiến lược. Đảng đã chú trọng việc đào tạo
trong nước kết hợp với việc cử đi đào tạo và bồi dưỡng ở nước ngoài, chú ý
đào tạo cán bộ dân tộc thiếu số, cán bộ nữ và cán bộ cơ sở.
1.2.4. Quan điểm của Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ
Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản cho rằng: “Công tác xây dựng cán bộ
là một việc rất quan trọng, rất cần thiết và cấp bách, là nguyên nhân dẫn đến
thành công hay thất bại trong tổ chức thực hiện chủ trương đường lối của
19



Đảng” [27, tr.40].
Công tác cán bộ là một việc rất phức tạp vì nó là một khoa học về con
người. Vì vậy, Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản đã nói: “Phải biết cán bộ,
hiểu cán bộ, thương yêu cán bộ và biết sử dụng cán bộ” [27, tr.51].
Khi nghiên cứu về tình hình của cán bộ. Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi
Hản nói rằng: “Chúng ta phải biết sự thật trong đội ngũ cán bộ của mình còn
mắc một bệnh nguy hiểm đó là bệnh lười đọc, lười nghiên cứu học tập, ngại
suy nghĩ không tìm kiếm kiến thức và bài học mới, thích ở không theo thói
quen cũ. Như vậy, công tác cán bộ phải là một việc làm thường xuyên, liên
tục, có kế hoạch, có trọng tâm trọng điểm rõ ràng, toàn diện bắt đầu từ sự
lựa chọn để bồi dưỡng, đào tạo, bố trí, sắp xếp quản lý - bảo vệ, đánh giá và
thực hiện các chính sách khen thưởng đối với cán bộ là một dây chuyền hữu
cơ. Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ rõ ràng sẽ đảm bảo tính ổn định
từng bộ phận, từng nhóm cán bộ và nguồn cán bộ một cách phù hợp, đáp ứng
được yêu cầu, từng giai đoạn nhiệm vụ chính trị của Đảng. Không nên đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách tùy tiện, không có kế hoạch đào tạo sẽ rơi
vào tình trạng thừa - thiếu như hiện nay” [27, tr.65].
Để thực hiện hóa quan điểm của Đảng và Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi
Hản nêu trên, Nghị quyết của Đại hội Đảng từng khóa đã xác định mục tiêu
phấn đấu đào tạo cán bộ để đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện nhiệm
vụ chiến lược của Đảng. Đối với cán bộ phải vững vàng về chính trị, có đạo
đức cách mạng, có kiến thức, năng lực về chuyên môn cần thiết để đảm bảo
hiểu quả của công việc.
Để đạt mục tiêu đó, các cấp ủy đảng, ban chỉ đạo các cấp và cán bộ tổ
chức trong các lĩnh vực, các ngành phải có trách nhiệm cao đối với công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuộc lĩnh vực của mình, trong đó quan trọng nhất
là phải học tập, nghiên cứu, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ vì đây là công việc đặc biệt quan trọng không thể thiếu của các cấp ủy
và ban tổ chức các cấp.
20



Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản
luôn luôn quan tâm và chú ý tới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; tạo điều
kiện để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước Lào.
1.3. Vị trí, vai trò, tiêu chí của cán bộ và các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
1.3.1. Vị trí, vai trò, tiêu chí của cán bộ, công chức
1.3.1.1. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức
Trong bất cứ giai đoạn nào cán bộ hay đội ngũ cán bộ đều giữ vị trí đặc
biệt quan trọng. Cán bộ là một nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng, quyết định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Cán bộ là chủ thể hành động của tổ chức cơ quan, đơn vị, là
một nhân tố rất quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương. Trong quá tình lãnh đạo quản lý cán bộ các cấp có vai trò vạch ra
chương trình hoạt động thực hiện đường lối, chủ trương chính sách nhiệm vụ,
lãnh đạo và quản lý trong cơ quan và đơn vị, đề ra phương hướng, hoàn thiện
hệ thống lãnh đạo và quản lý về mặt tổ chức, cũng như các hình thức và
phương pháp chung của cơ quan, đơn vị.
Vai trò của cán bộ liên quan mật thiết đến thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị, bảo đảm cho
nguyên tắc đó được thực hiện có hiệu quả trong quá trình lãnh đạo và quản lý
cơ quan đơn vị mình.
Họ là người chịu trách nhiệm, người biết phát huy một cách có hiệu
quả những ưu thế của địa phương cả những sáng kiến, tính chủ động của cơ
quan, đơn vị. Đội ngũ cán bộ có vai trò quyết định trong việc vận động nhân
dân tham gia vào công việc lãnh đạo và quản lý Đảng và chính quyền, tuyên
truyền giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để thu hút ngày càng đông đảo quần
chúng nhân dân tham gia dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau vào lãnh

đạo, quản lý, đơn vị mà mình phụ trách
21


Đảng NDCM Lào đã luôn luôn khẳng định, cán bộ có vai trò quyết
định thành công của đường lối. Do đó, từ trước tới nay Đảng NDCM Lào đã
coi trọng công tác cán bộ, tập trung nâng cao chất lượng và năng lực của cán
bộ, đáp ứng được những đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị trong các giai đoạn
cách mạng. Để đáp ứng yêu cầu đó phải khẩn trương đề ra quy hoạch cán bộ
trong giai đoạn dài và giai đoạn ngắn để chủ động thực hiện.
Bất cứ ở đâu, lúc nào cán bộ chủ cũng là người chịu trách nhiệm cao
nhất, là ngọn cờ tập hợp, tập trung đoàn kết, là tiếng nói tiêu biểu, là tấm
gương cho quần chúng nói theo, là nhân tố quyết định ở những khâu then chốt
trong tiến hành sự nghiệp cách mạng.
1.3.1.2. Tiêu chí của cán bộ, công chức
Về trình độ: Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đòi hỏi đầu tiên
của người cán bộ là phải có trình độ. Muốn có trình độ tất yếu người cán bộ
phải được đào tạo, bồi dưỡng qua trường lớp và tự đào tạo, rèn luyện qua thực
tế công tác, cả về chuyên môn và trình độ chính trị.
Người cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi sẽ thuận lợi trong việc chỉ
đạo, điều hành, không bị cấp dưới, anh em coi thường. Nếu ngược lại, người
đó sẽ rất khó hoàn thành nhiệm vụ. Bên cạnh trình độ chuyên môn, đòi hỏi
phải có trình độ lý luận chính trị, nắm chắc các quy luật vận động của cuộc
sống, biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị. Một
cán bộ có chuyên môn giỏi, có trình độ lý luận vững vàng, khẩu khí tốt, sẽ có
lợi thế lớn trong công tác lãnh đạo hay quản lý, nhất là khi trình độ dân trí
ngày càng cao.
Về năng lực: Trình độ là thứ được đào tạo, được tiếp thu, nhưng năng
lực như là cái vốn có, bẩm sinh, cái ‘trời cho” của mỗi người. Năng lực là vốn
quý, được kế thừa từ gia đình, di truyền cộng với khả năng tư duy, nắm tình

hình, biết vận dụng sáng tạo vào từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để phát huy
thắng lợi. Người có năng lực nếu được đào tạo tốt sẽ phát huy được khả năng.
Bởi năng lực như là cái vốn có, còn trình độ là cái được bổ sung. Trong thực
22


×