Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

7 Câu hỏi lịch sử triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.89 KB, 28 trang )

Phần 1: Trả lời 7 câu hỏi lịch sử triết học (thầy Quyên)
Câu 1. Tư tưởng cơ bản của Phật giáo. Ảnh hưởng của nó với đời sống tinh thần
người VN? Liên hệ phật giáo VN
Ấn Độ cổ đại là một quốc gia rộng lớn ở miền nam Châu Á, có lịch sử lâu đời
và nền văn minh sớm phát triển và đạt đến trình độ rực rở; với điều kiện tự nhiên đa
dạng, sự phân biệt đẳng cấp cự kỳ khắc nghiệt, là cơ sở cho sự nảy sinh và phát triển
những tư tưởng triết học của Ấn Độ thờ cổ, trung đại với các hình thức phong phú đa
dạng.
Triết học Ấn Độ cổ, trung đại chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tơn giáo
rất khó phân biệt. Trong đó, quan điểm duy vật và duy tâm thường đan xen vào nhau
trong quá trình vận động phát triển.
Hầu hết các trường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề “nhân sinh”
và tìm con đường “giải thốt” cho con người khỏi nỗi khổ đau trong đời sống trần
tục. Tuy nhiên, do hạn chế về nhận thức, do sự chi phối của quan điểm giai cấp, của
những tư tưởng tôn giáo nên hầu hết các học thuyết triết học Ấn Độ cổ, trung đại lại
đi tìm nguyên nhân của sự khổ đau của con người không phải ở trong đời sống kinh
tế, xã hội mà trong ý thức, trong sự “vô minh”, sự ham muốn của con người. Vì vậy,
“con đường giải thốt con người” đều mang sắc thái duy tâm.
Trong các trường phái triết học Ấn Độ cổ, phật giáo được xem là một trào lưu
triết học lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hố tinh thần của các nước
phương Đơng trong đó có Việt nam ta.
Phật giáo là một trào lưu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VI
tr.CN. Người sáng lập ra phật giáo tên là Siddharta (Tất Đạt Đa), họ là Gơtama, dịng
họ này thuộc bộ tộc Sakya. Ông là thái tử của vua Tịnh Phạn , vua một nước nhỏ ở
Bắc Ấn Độ lúc đó (nay thuộc đất Nêpan) sáng lập.
Về năm sinh của phật hiện nay có nhiều tài liệu khác nhau nhưng nhìn chung
nhiều ý kiến cho rằng phật sinh vào năm 563 tr.CN. Ông sinh ngày 8/4 năm 563
tr.CN, nhưng theo truyền thống phật lịch thì tính là ngày 15/4 (rằm tháng tư) gọi là
ngày Phật đản.
Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc dòng dõi Đế Vương, nhưng trước bối
cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, sự bất lực của con người trước những


khó khăn của cuộc đời và xã hội khiến ơng sớm có ý định từ bỏ cuộc đời giàu sang
phú quý để đi tìm một đạo lý cứu đời. Năm 29 tuổi Tất Đạt Đa rời bỏ hoàng cung
xuất gia tu đạo, đến năm 35 tuổi Người đã giác ngộ tìm ra chân lý, tìm ra con đường
giải thốt nỗi khổ cho chúng sinh. Ơng trở thành người sáng lập ra tôn giáo mới gọi là
phật giáo.

1


Từ đó Người đi khắp nơi truyền đạo lý của mình, sau này ơng được suy tơn với
nhiều danh hiệu khác nhau như: Đức phật (Buddha), Người giác ngộ hay Thích ca
mâu ni (Sakyamuni), Thánh thích ca (vị thánh dịng họ thích ca).
Xét về mặt triết học, phật giáo được coi là triết lý thâm trầm về vũ trụ và con
người. Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc
sống đức độ của con người, phật giáo nhanh chóng đã chiếm được tình cảm và niềm
tin của đơng đảo quần chúng lao động. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác
ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc Châu Á.
Học thuyết phật giáo đề cập đến nhiều nội dung khác nhau. Nhưng ở đây
chúng ta chỉ tìm hiểu vấn đề về thế giới quan và nhân sinh quan.
- Quan điểm về thế giới quan của phật giáo.Được thể hiện tập trung ở nội dung
của ba phạm trù là: vô ngã, vô thường, và duyên.
Quan điểm “vô ngã” cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không
phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố
là “sắc” và “danh”. Trong đó “sắc” là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm giác được, nó
bao gồm đất, nước, lửa, khơng khí. Cịn danh là yếu tố tinh thần, khơng có hình chất
mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm thụ, tưởng, hành, thức (thụ là cảm thụ; tưởng là sự suy
nghĩ, tư tưởng; hành là ý muốn thúc để hành động; thức là sự nhận thức).
Chính cái “danh” và cái “sắc” kết hợp lại tạo thành “ngũ uẩn”. Ngũ uẩn tác động
qua lại tạo nên vạn vật và con người.Sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thống qua,
khơng có sự vật nào tồn tại mãi mãi. Do đó, khơng có cái “bản ngã” hay cái tôi chân

thực.
Quan điểm “vô thường” cho rằng thế giới biến đổi khơng ngừng theo chu trình
bất tận: sinh, trụ, dị, diệt (hay thành, trụ, hoại, khơng). Do đó, khơng có cái gì là
trường tồn bất định chỉ có sự vận động biến đổi không ngừng.
Quan điểm về “duyên” (là điều kiện) giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả.
Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều chịu sự chi phối của luật
nhân duyên. Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả.
Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nhân khác. Nhân khác lại nhờ có duyên mà
thành kết quả mới, cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật.
Thông qua các phạm trù vô ngã, vô thường, duyên, triết học phật giáo đã bác bỏ
quan điểm duy tâm cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật
giáo cho rằng con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần,
các sự vật của thế giới nằm trong quá trình biến đổi khơng ngừng. Đó là quan điểm
duy vật biện chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân
trọng.
Về triết lý nhân sinh của phật giáo.được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ
diệuđế” tức là bốn chân lý tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
Một là khổ đế: là triết lý về cuộc đời của con người là một bể khổ, ít nhất có
tám nỗi khổ (bát khổ). Đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu
2


thương nhau mà phải xa nhau),oán tăng hội (ghét nhau mà phải gần nhau), sở cầu bất
đắc (mong muốn mà không được), ngũ thụ uẩn ( do năm yếu tố tạo nên con người).
Hai là nhân đế (tập đế): Triết lý về nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo đưa ra
12 nguyên nhân của sự khổ gọi là thuyết “thập nhị nhân duyên”.
1) Vô minh: Là không sáng suốt.
2) Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động.
3) Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4) Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các

cơ quan cảm giác (mắt, tai , mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5) Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của thế giới xquanh vào các giác
quan.
6) Duyên xúc: Là sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
7) Duyên thụ: Là sự cảm thụ, sự nhận thức trước thế giới bên ngồi.
8) Dun ái: Là sự u thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng .
9) Duyên thủ: Do yêu thích rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy.
10) Duyên hữu: Là sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11) Duyên sinh: Là sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12) Duyên lão tử: Là già và chết vì có sự sinh thành.
Đó là 12 ngun nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn quẩn của
nỗi khổ đau nhân loại.
Ba là diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt
tới trạng thái niết bàn.
Bốn là đạo đế: Là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, giải thoát
khỏi nỗi khổ để đạt tới hạnh phúc. Phật giáo đưa ra ra tám con đường chân chính gọi
là (bát chính đạo).
1) Chính kiến: Là hiểu biết đúng đắn tứ diệu đế.
2) Chính tư duy: Là suy nghĩ đúng đắn.
3) Chính ngữ: Nói năng phải đúng đắn.
4) Chính nghiệp: Giữ nghiệp đúng đắn, khơng làm việc xấu, nên làm việc
thiện.
5) Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn.
6) Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng, khơng biết mệt mỏi.
7) Chính niệm: Là tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thốt.
8) Chính định: Là kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu
đế, về vô ngã, vô thường.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ được vơ
minh, đạt tới sự giải thốt, nhập vào niết bàn là trạng thái hồn tồn yên tĩnh, sáng
suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi.

Ngoài tám con đường chính để diệt khổ, phật giáo cịn đưa ra năm điều răn để
mỗi người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người.Đó
3


là: bất sát (không sát sinh); bất dâm (không dâm dục); bất vọng ngữ (khơng nói năng
thơ tục); bất ẩm tửu (không rượu trà); bất đạo (không trộm cướp).
Như vậy, phật giáo là một trào lưu triết học lớn của Ấn Độ cổ, trung đại. Ở
giai đoạn đầu học thuyết triết học ấy chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng
biện chứng về thế giới. Phật giáo nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp
khắc nghiệt, phê phán sự bất cơng, địi tự do bình đẳng xã hội. Đồng thời nó cũng nêu
lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con
người sống lương thiện, từ bi, bác ái góp phần hồn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên
trong triết lý nhân sinh của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan khơng tưởng
và duy tâm về xã hội.
.

** Liên hệ vai trò của phật giáo VN:
- Phật giáo được truyền vào nước ta vào những năm đầu TCN với bản chất từ
bi, hỉ xả. Pgiáo đã nhanh chóng tìm được chổ đứng và dần dần bám rể vững chắc trên
mảnh đất VN
- Từ khi vào VN đến nay Pgiáo tồn tại, phát triển phù hợp với truyền thống
VN . Pgiáo đã trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh-Lý-Lê-Trần góp phần bảo vệ
chế độ PK VN giữ vững nền độc lập dân tộc.
- Pgiáo có cơng đào tạo tầng lớp tri thức của dân tộc, trong đó có nhiều vị thiền
sư, Quốc sư có đức độ tài cao, giúp nước, an dân như: Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh,
Pháp Nhuận, Không Lộ,….
- Vào các thời kỳ hưng thịnh pgiáo là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực
như: Vhoá, giáo dục, kiến trúc, hội hoạ…và để lại nhiều giá trị mang đậm đà bản sắc
dân tộc

- Từ cuối thế kỷ 13 đến nay thì phật giáo khơng cịn là quốc giáo nữa nhưng
giá trị tinh thần tích cực của nó vẫn là nhu cầu sức mạnh tinh thần của nhân dân ta.
Phật giáo Việt Nam luôn gắn bó với dân tộc, với nhân dân, được coi là một
trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Dẫu rằng có những bước thăng trầm
trong trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân
tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước, Phật giáo Việt Nam bao giờ cũng giữ được “tốt đời
đẹp đạo” và thực hiện “đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã đề ra nhiều chính sách về đại
đồn kết, trong đó có chính sách về dân tộc, tơn giáo và tính ngưỡng nhằm tiến tới
mục tiêu chung là xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.

4


Câu 2: Tư tưởng cơ bản của Triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội
Việt Nam
A. Triết gia tiêu biểu
Trong các học thuyết triết học trung hoa cổ, trung đại thì Nho gia chiếm một vị trì đặc
biệt quan trọng. Nó chi phối mọi mặt của đời sống xã hội và ảnh hưởng sâu rộng vào
các nước lân cận trong suốt 2000 năm lịch sử. Hai đại diện tiêu biểu của trường phái
Nho gia là Khổng Tử và Mạnh Tử.
1. Khổng Tử (551- 479 tr.CN).
* Thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử họ Khổng, tên Khâu, tự Trọng Ni; sinh ở nước Lỗ, trong một gia đình
quý tộc nhỏ bị sa sút. Thời đại của Khổng Tử là thời đại mà trật tự lễ giáo của nhà
Chu đang bị đảo lộn. Người ta biết rất ít về quảng đời của Khổng Tử trước lúc 35
tuổi. Chỉ biết rằng, ông đã từng giữ những chức quan nhỏ như coi kho, quản lý gia
súc. Lúc ngoài 50 tuổi, Khổng Tử giữ chức Tư Không (tương đương Bộ trưởng Bộ
Kiến trúc) sau chuyển sang chức Tư Khấu ( tương đương Bộ trưởng Bộ Tư pháp)

nhưng chỉ giữ chức vụ này trong ba tháng. Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến
trong giai cấp quý tộc Chu, Khổng Tử chủ trương lập lại pháp chế kỷ cương của nhà
Chu, với một nội dung mới cho phù hợp. Khổng Tử đã đi chu du thuyết khách qua
bảy nước trong 14 năm nhưng rút cục không ai tin dùng ông. Khoảng đời cuối cùng
ông trở về nước Lỗ dạy học. Sử ký ghi chép ơng có đến 3.000 học trị. Trong số đó có
70 người vào loại giỏi, thuộc tầng lớp nho sĩ đương thời. Khổng Tử là người sáng lập
học thuyết Nho gia. Theo từ nguyên chữ Hán, Nho là bởi từ Nhân đứng bên từ Nhu
mà thành. Nhân là người, Nhu là cần dùng; như vậy Nho là một hạng người bao giờ
cũng cần dùng đến để giúp cho nhân quần trong xã hội biết đường ăn ở và hành động
cho hợp với lẽ trời.
Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết của ông được các thế hệ học trò tiếp tục
phát triển và trở thành một trường phái lớn lúc bấy giờ. Trong số họ, nổi lên một số
đại biểu tiêu biểu như Mạnh Tử, Tuân Tử, những người có cơng lớn trong việc bảo vệ
Nho gia và đưa nhiều tư tưởng mới vào hệ thống tư tưởng Nho gia của Khổng Tử.
2. Mạnh Tử (327 – 289 tr.CN)
Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà
Chu, quê gốc ở đất Châu, thuộc nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đơng, Trung Quốc. Ơng
mồ cơi cha, chịu sự ni dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị. Chương thị sau này
được biết tới với cái tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển
5


nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng.
Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của
Khổng Tử. Vì vậy, ơng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Mạnh Tử
là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời chiến quốc, thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng lớn
với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia...(thời kỳ bách gia
tranh minh) và cũng là thời kỳ mà các tập đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn
nhau gây ra các cuộc chiến tranh liên miên, dân tình vơ cùng khổ sở. Tư tưởng của
Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử nhưng ơng khơng tuyệt đối hóa vai

trị của ơng vua như Khổng Tử, ông chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh. Ông cũng là người đưa ra thuyết “tính thiện” của con người rằng con người
sinh ra đã là thiện rồi nhân chi sơ bản tính thiện, ông cho rằng “Thiên mệnh” quyết
định nhân sự, nhưng con người có thể qua việc tổn tâm dưỡng tính mà nhận thức
được thế giới khách quan, tức cái gọi “ tận tâm, tri tính, tri thiên”. “ vạn vật đều có đủ
trong ta”. Mạnh Tử đã hệ thống hóa triết học duy tâm của Nho gia trên phương diện
thế giới quan và nhận thức luận.
Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong
những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là ông tổ thứ hai của nho
giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
B. Những tư tưởng cơ bản trong triết học Nho giáo :
§ Quan điểm của Nho giáo về thế giới :
Trong học thuyết Nho gia, Khổng Tử thường nói đến Trời, Mệnh trời, đạo trời.
“ Trời ” đối với Khổng Tử có chỗ như là giới tự nhiên, vận hành theo một quy
luật “ Trời có nói gì đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, trăm vật vẫn sinh trưởng”.
Ý chí của Trời là thiên mệnh. Khổng Tử cho rằng mỗi cá nhân, sự sống chết,
phú quí hay nghèo hèn đều do “Thiên mệnh” quy định. Mặt khác, ông lại cho rằng,
con người bằng nổ lực chủ quan của mình cũng có thể thay đổi được cái “ Thiên tính
ban đầu”. Theo ơng, con người lúc sinh ra, cái tính trời phú cho là giống nhau nhưng
trong quá trình tiếp xúc học tập; nó làm cho họ khác nhau. Khổng Tử coi việc hiểu
biết “Mệnh trời” là một điều kiện để trở thành người hoàn thiện.
Khổng Tử tin có quỷ thần, nhưng quan niệm quỷ thần của ơng có tính chất lễ
giáo hơn tơn giáo. Ơng cho rằng, quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất tạo thành.
Tuy nhìn mà khơng thấy, lắng mà khơng nghe, thể nghiệm mọi vật mà khơng bỏ sót.
Nhưng mọi người đều cung kính. Trang nghiêm để tế tự thì quỷ thần cả ở bên tả, bên
hữu mình. Mặt khác, ơng lại cho rằng quỷ thần khơng có tác dụng chi phối cuộc sống
con người, ơng phê phán sự mê tín quỷ thần.
Như vậy, những người sáng lập Nho gia nói về tự nhiên khơng nhiều. Họ thừa
nhận có Thiên mệnh, nhưng đối với quỷ thần lại xa lánh, kính trọng. Lập trường của
6



họ về vấn đề này rất mâu thuẫn. Điều đó chứng tỏ tâm lý của họ muốn gạt bỏ quan
niệm thần học thời Ân – Chu nhưng không gạt nỗi.
Quan niệm “Thiên mệnh” của Khổng Tử được Mạnh Tử hệ thống hóa, xây
dựng thành nội dung triết học duy tâm trong hệ thống tư tưởng triết học của Nho gia.
Mạnh Tử cho rằng “ Chẳng có việc gì xảy ra mà khơng theo mệnh trời. Mình nên tùy
thân mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy “.
§ Quan điểm của Nho giáo về chính trị xã hội:
v Thuyết Chính danh
Chính danh là tư tưởng cơ bản của Nho gia nhằm đưa xã hội loạn trở lại trị.
Chính danh có nghĩa là một vật trong thực tại cần phải phù hợp với cái danh nó
mang. Nói cách khác, mỗi cái danh bao hàm trong đó một điều kiện tạo nên bản chất
loại sự việc mà danh liên quan đến. Ví dụ: bản chất ông vua là những điều kiện lý
tưởng mà ông vua phải có, nghĩa là những điều kiện hợp với “ vương đạo”. Hành
động hợp theo vương đạo thì ông vua mới thật là ông vua, vừa hợp với thực vừa hợp
với danh.
Chính danh gồm có hai bộ phận danh và thực: Danh là tên gọi, là địa vị, là thứ
bậc của con người. Thực là quyền lợi mà con người được hưởng phù hợp với danh.
Khổng Tử cho rằng danh và thực phải thống nhất với nhau. Từ đó ơng chia xã hội
thành năm mối quan hệ gọi là ngũ luân:
· Vua – tôi (Quân thần): vua nhân – tôi trung
· Chồng – Vợ (phu phụ): chồng biết điều – vợ nghe lẽ phải
· Cha – Con (phụ tử): Cha hiền – con thảo
· Anh – em (huynh đệ): anh tốt – em ngoan
· Bạn – bè (bằng hữu): chung thủy.
Trong xã hội, mỗi cái danh đều hàm một số trách nhiệm và bổn phận mà mỗi
cá nhân mang danh ấy, mỗi đẳng cấp thực hiện đúng danh phận của mình thì xã hội
có chính danh, và xã hội có chính danh là xã hội có kỷ cương thì đất nước sẽ thái bình
thịnh trị.

o Thuyết “ Lễ trị “:
Lễ trước hết là những nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ti của cuộc
sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử hàng ngày. Với nghĩa này, Lễ là
cơ sở của xã hội có tổ chức bảo đảm cho phân định trên dưới rõ ràng, không bị xáo
trộn, đồng thời nhằm ngăn ngừa những hành vi và tình cảm cá nhân thái quá.
Lễ hiểu theo nghĩa trong “Ngũ thường” là sự thực hành đúng những giáo huấn
kỷ cương, nghi thức do Nho gia đề ra cho những quan hệ “tam cương”, “ngũ luân”,
“thất giáo” và cho cả sự thờ cúng thần linh. Đã là người thì phải học lễ, biết lễ và có
lễ. Con người học lễ từ lúc trẻ thơ. Với ý nghĩa này, lễ là nội dung cơ bản của lễ giáo
7


đạo Nho. Lễ là cơ sở, là cơng cụ chính trị, là vũ khí của một phương pháp trị nước, trị
dân lâu đời của Nho gia. Phương pháp “lễ trị” có thể đưa tất cả hoạt động vào nề nếp,
có thể ngăn chặn mọi tội lỗi khi sắp xảy ra.
§ Quan điểm của Nho giáo về giáo dục:
Ý nghĩa giáo dục, theo Khổng Tử là cái tạo nhân tính. Muốn dẫn nhân loại trở
về tính gần nhau, tức là chỗ “ Thiện bản nhiên” thì phải để cơng vào giáo dục, vì giáo
dục có thể hóa ác thành thiện. “ Tu sửa đạo làm người”,
“ làm sáng tỏ đức sáng ”
là mục đích tối cao của giáo dục. Giáo dục khơng chỉ mở mang tri thức, giải thích vũ
trụ mà cịn góp phần hình thành nhân cách đầy đủ ( nhân, trí, dũng), xây dựng con
người đạo lý.
Mục đích của giáo dục, theo Khổng Tử trước hết là học để ứng dụng cho có ích
với đời, với xã hội. chứ không phải để làm quan sang, bổng hậu. Thứ hai, học là để
hoàn thiện nhân cách. Thứ ba, học để tìm tịi điều lý. Trời đât, vạn vật rất phức tạp,
nhưng có thể tìm ra được lý. Khi đã tìm ra được hệ thống điều lý thì có thể hiểu được
sự khác nhau của sự vật.
Về phương pháp giáo dục; trước hết Khổng Tử rất coi trọng việc giáo dục theo
lịch trình đúng với điều kiện tâm sinh lý. Cách giáo dục ấy nhằm ni dưỡng tình

cảm nảy nở, rồi đưa vào khn phép, rồi điều hịa sự xung đột ở tâm. Thứ hai, Khổng
Tử coi trọng mối quan hệ giữa các khâu của giáo dục. Trong việc học, cần tuân thủ “
học” gắn liền với “ tư ”, với “ tập “ với “ hành”.
Cùng với quan điểm và thái độ trong học tập. Khổng Tử rất quan tâm đến quan
điểm và thái độ trong giảng dạy. Học là để cho mình hiểu biết đạo, cịn dạy là làm
cho người khác hiểu biết đạo. Do đó, vì đạo mà học thì khơng chán, vì đạo mà dạy
thì khơng mệt mỏi.
§ Quan điểm của Nho giáo về bản chất con người
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên
phú chứ khơng phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm cho
tính thiện ngày càng mạnh thêm; nếu khơng biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai
một đi thì con người trở nên nhỏ nhen, ti tiện khơng khác gì lồi cầm thú.
Mạnh Tử kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con người hiện thực có
thể là ác, đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Cho nên, để thiết lập
quốc gia thái bình thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng đường lối
chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.
2. Ảnh hưởng của Nho giáo đến dời sống tinh thần người Việt Nam
Chúng ta thưịng nghe nói "nước có quốc pháp, nhà có gia phong", là câu nói răn dạy
đe giáo dục con người Việt Nam sống co phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo
8


tinh thần "Nho Giáo", đồng thời còn là biểu tượng tư hào ve truyền thống văn hóa dân
tộc là nguyên khí tinh thần độc lập, tực cường của một dân tộc la bản sắc riêng ve
truyền thống văn hóa
Ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa ngày nay của Việt Nam.
Hồ chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của thế giới, con người vĩ đại của dân tộc Việt
Nam đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc the hiện trong tư tưởng và nhiều câu
chuyện nho giáo của Người. Nhưng Người đã vượt qua nhửng hạn che của Nho giáo
ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đa sáng lập và giáo dục Đảng ta

với phương châm : “lấy dân làm gốc” làm tôn chỉ lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc
dựng nước va giữ nước. Người cũng coi đạo đức la gốc chu trương chọn lựa người tài
đe đảm đương việc nước.
Qua 2 cuộc kháng chiến người đa nhắc nhơ rất nhiều câu chư của Nho giáo
đe giáo dục cán bo nhân dân về phẩm chất tư cách đạo đức, ve lòng nhân đạo của con
người Việt Nam. Người mượn câu nói của Mạnh Tư để nêu lên khí phách của người
cách mạng : “ giàu sang không the quyến rũ, nghèo kho không the chuyển lay, uy lực
không the khuất phục”. Đây cũng chính la câu nói của Mạnh Tử trong Thi ên Đằng
Văn Cơng – Ha : “ Phu q bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”
Sau hai cuộc kháng chiến Nhân dân Việt Nam giành lại được độc lập và
thống nhất, đất nước ta bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng mọi mặt
của đất nước theo định hướng XHCN, trên con đường tiến tới một tương lai tốt đẹp
dân giàu, nước mạnh, xa hội công bằng, văn minh. Chúng ta lại thường xuyên đụng
đến nho giáo, nó vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem đến cho chúng ta nhiều bài học
cả chính diện và phản diện. Nho giáo nhiều lúc nêu lại điều hay y tốt như tạo thêm
năng lượng cho co xe cách mạng tiến lên, nhưng cũng co trường hợp nho giáo trở nên
thọc gậy bánh xe.
Hiện nay Việt Nam đang bước vào cơ che thị trường xuất hiện nhiều xáo trộn trong
quan he xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất ca nhân. Thực tế cho thấy mâu thuẫn
khơng thể điều hịa được giữa phát triển vat chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh te
và đạo đức văn hóa xa hội.
Để chống lại, khơi phục lại truyền thống van hóa tốt đẹp xưa nay của nhân dân ta,
đảng ta chu trương giáo dục con người, chiến lược con ngưới, phát huy sáng tạo, độc
lập tư chủ, chu trương giáo dục “ Tiên học lễ, hậu học văn “là những điều cốt yếu của
nền giáo dục.

9


Cho đến nay, Nho giáo vẫn cịn ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống gia đình, các

phẩm chất, đạo đức của người phụ nữ, vẫn co những quan điểm coi thường phụ nữ,
lấy tiêu chuẩn tứ đức làm đầu “ công, dung, ngôn, hạnh”. Người phụ nư trở nên bị
cương tỏa, dồn nén trong vịng tứ đức khơng phát huy được hết năng lực của
mình.
Truyền thống quan hệ cha con va anh em đến nay trong gia đình Việt Nam vẫn giữ
được tư tưởng của nho giáo, là nét đệp trong quan hệ văn hóa xã hội Việt nam. Nho
giáo địi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong một gia đình, trong một
dịng họ, no keu gọi sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn
truyền thống của gia đình va dịng họ.
Ngày nay Nho giáo tuy khơng cịn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước nhưng
nó vẫn cịn hiện diện trong suy nghĩ của người Việt Nam và tiếp tục đem lại cho
chúng ta nhiều bài học cả chính diện và phản diện. Chúng ta cần phải biết chọn lọc,
tiếp thu và phát triển những tư tưởng tích cực của Nho giáo để giải quyết những vấn
đề về gia đình, về mối quan hệ cá nhân và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển
kinh tế, giáo dục… trong thời kỳ mới, thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế ./.

10


Câu 3 : Nêu nội dung quan điểm triết học của Đêmơcrít và Platon trong lịch sử
triết học Hy Lạp cổ đại ?
Đêmơcrít và Platon là hai nhà triết học được coi là bậc nhất của trào lưu triết
học Hy Lạp cổ đại trước Công Nguyên; trong giai đoạn này xã hội Hy Lạp có sự phân
chia đẵng cấp, cùng với một số ngành khoa học tự nhiên xuất hiện, do đó triết học của
hai ơng cũng ra đời gắn liền với các sự kiện nói trên. Tuy nhiên triết học của hai ơng
vẫn có những quan điểm riêng của nó.
Đối với Đêmơcrít : Đêmơcrít ( 460 – 370 ), ông được coi là một nhà triết học
bách khoa đầu tiên của người Hy lạp cổ đại, quan điểm duy vật của ông được thể hiện
ở nhũng nội dung sau :

Quan điểm về thế giới quan : Đêmốcrít cho rằng thế giới xung quanh ta là thế
giới Vật chất, vật chất do nguyên tử tạo thành, nguyên tử là dạng phần tử nhỏ nhất
không thể phân chia được nữa và tồn tại vĩnh viễn. Thế giới vật chất đa dạng phong
phú, vận động không ngừng; ông là nhà triết học đầu tiên cho rằng không gian là
khoảng trống mà ở đó các nguyên tử vận động liên kết lại với nhau; vũ trụ do vô số
thế giới tạo nên và vận động theo quy luật của tự nhiên.
Quan điểm về lý luận nhận thức : Đêmơcít cho rằng đối tượng nhận thức là
thế giới vật chất xung quanh ta, nhờ tác động của đối tượng nên con người mới nhận
thức được; ông chia nhận thức ra làm hai dạng : nhận thức mờ tối và nhận thức chân
lý .
- Nhận thức mờ tối : là nhận thức do cảm giác đem lại.
- Nhận thức chân lý : là nhận thức do sự phân tích sâu sắc ( gọi là phán đoán
logic ) sự vật để nắm bản chất bên trong của sự vật.
Hai dạng nhận thức trên có mối liên hệ chặc với nhau, nhưng nhận thức chân lý
là quan trọng vì nó phản ánh được bản chất bên trong của sự vật.
Đêmơcrít là người có cơng lớn trong việc xây dựng lý luận nhận thức của
CNDV thời cổ đại, ông cũng là người đầu tiên coi logic học là một công cụ để nhận
thức các hiện tượng của tự nhiên.
Quan điểm chính trị – xã hội : ơng đứng trên lập trường quan điểm giai cấp
chủ nô dân chủ, chống lại q tộc, ca ngợi tình thần nhân ái, đạo đức ; theo ông phẩm
chất con người không chỉ thể hiện ở lời nói mà con người cần phải hành động có đaọ
11


đức, còn hạnh phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, đỉnh cao của hạnh phúc là
người thơng thái là cơng dân của thế giới.
Tóm lại : những quan điểm về thế giới quan, về nhận thức lý luận, về chính trị
xã hội của Đêmơcít tuy cịn mang tính chất mọc mạc, trực quan nhưng cho chúng ta
thấy nét đặc sắc trong triết học của ông là tư tưởng quyết luận, giải thích mọi hiện
tượng biến đổi theo luật nhân quả, ông người đầu tiên xây dựng lý luận nhận thức của

CNDV thời cổ đại và là người đầu tiên coi logic học là một công cụ để nhận thức các
hiện tượng của tự nhiên đã đưa triết học duy vật Hy Lạp cổ đại lên bước tiến mới.
Đối với Platon : Platon ( 427 – 347 ) ông là nhà triết học duy tâm đối lập với
triết học duy vật của Đêmơcrít, quan điểm duy tâm của ông được thể hiện ở những
quan điểm như sau :
Quan điểm về thế giới quan : ông đứng trên lập trường duy tâm khách quan,
ông cho rằng thế giới ý nhiện có trước thế giới vật chất có sau, thế giới ý niệm quyết
định thế giới vật chất; thế giới vật chất là thế giới không thật, không đúng đắn vì nó
khơng ngừng sinh ra và mất đi; cịn thế giới ý niệm mới tồn tại vĩnh viễn, bất biến vì
nó tồn tại bên ngồi con người, bên ngồi cảm giác của con người, ơng cho con người
có linh hồn, linh hồn tồn tại vĩnh viễn.
Quan điểm về lý luận nhận thức :ông cho rằng nhận thức của con người
không phải phản ánh các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là quá trình nhớ lại,
hồi tưởng lại của linh hồn những điều mà linh hồn bắt gặp khi cịn ở thế giới ý niệm,
ơng chia chia thành hai loại tri thức khác nhau: trí thức ý niệm và thí thức lẫn lộn
đúng sai.
- Trí thức ý niệm: là trí thức của linh hồn có trước khi nhập vào thể xác con
người nhờ hồi tưởng lại.
- Trí thức lẫn lộn đúng sai : tri thức này có được nhờ vào cảm tính , ở đó khơng
chân lý.
Quan điểm chính trị – xã hội : ơng chủ trương duy trì sự bất bình đẵng giữa
mọi người, tồn tại các hạng người trong xã hội, quan điểm của ông là tồn tại nhà nước
trên cơ sở phê phán các nhà nước đã có trong lịch sử ; ơng đưa ra 3 mơ hình hình thức
nhà nước như :
- Nhà nước vua chúa
- Nhà nước chân phiệt
12


- Nhà nứơc dân chủ, nhà nước quyền luật

Dựa vào đặc trưng đạo đức ông phân chia xã hội ra thành 3 đẳng cấp
- Tầng lớp các nhà triết học, nhà thông thái lãnh lãnh đạo xã hội.
- Tầng lớp quan nhân có trách nhiệm bảo vệ nhà nước lý tưởng.
- Tầng lớp dân lao động, thợ thủ cơng có nhiệm vụ sản xuất ra của cải vật chất
nuôi sống nhà nước.
Sự tồn tại và phát trienå của nhà nước dựa trên sự phân công sản xuất vật chất,
giải quyết những mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội.
Tóm lại : triết học của Platon là hệ triết học duy tâm, những tư tưởng của ông
là tiền đề cho nhiều nhà triết học cận đại kế thừa và phát triển.
Nội dung quan điểm triết học của Đêmơcrít và platon trong lịch sử triết học Hy
Lạp cổ đại có thế giới quan và nhân sinh quan khác theo duy vật hay duy tâm, nhưng
các nguyên lý của nó chưa được chứng minh, chỉ là phóng đốn, mơ tả, cuối cùng rơi
vào chủ nghĩa duy tâm. Tuy vậy triết học của hai ông là cơ sở, là tiền đề cho các nhà
triết học cận đại kế thừa, phát triển và góp phần cho kho tàng triết học của nhân loại
những thành quả vô giá./.

13


Câi 4. Phân tích quan điểm triết học Bêcơn trong triết học Anh thế kỷ XVII.
Thế kỷ thứ 17 có tên là thời Ba-rốc. Danh từ Ba-rốc có nghĩa là “Viên ngọc xù
xì”. Thế kỷ thứ 17 khắc họa bởi sự căng thẳng giữa các mâu thuẫn khơng thể dung
hịa. Triết học cũng khơng nằm ngịai hịan cảnh lịch sử đó, triết học cũng được khắc
họa qua các cuộc xung đột gay gắt của các hệ thống tư duy đối nghịch nhau. Một số
triết gia cho rằng sự tồn tại về cơ bản là tâm hồn và tinh thần. Lập trường ngược lại là
chủ nghĩa duy vật. Nghĩa là mọi thành tố của tồn tại đều do nguyên nhân vật chất.
Trong thế kỷ 17 chủ nghĩa duy vật có thêm rất nhiều thành viên, trong đó có sự đóng
góp khơng nhỏ của triết học duy vật Anh thế kỷ 17 mà đại diện tiêu biểu là Phranxi
Bêcơn.
Bắt đầu từ thế kỷ 17 nước Anh đã đạt được sự phát triển thịnh vượng về kinh tế

- xã hội, trở thành một trong những cường quốc lớn nhất ở Tây Âu. Trong nước, sản
xuất công trường thủ công phát triển mạnh. Giai cấp tư sản công nghiệp và thương
nghiệp gắn với tầng lớp quý tộc mở mang đồn điền ở nông thôn. Thương nghiệp hàng
hải phát triển nhanh chóng. Giai cấp tư sản Anh khẳng định được vai trị của mình
trong đời sống xã hội, tập hợp được lực lượng chống chế độ phong kiến đã lỗi thời.
Cuộc Cách mạnh tư sản Anh (1642-1648) báo hiệu một thời kỳ lịch sử mới bắt đầu.
Sự phát triển về kinh tế và xã hội dẫn đến những giai cấp mới được hình thành,
những yêu cầu về tinh thần, tư tưởng cùng với những thành tựu về khoa học và kỹ
thuật tiến bộ là điều kiện để triết học duy vật Anh xuất hiện và phát triển. Triết học
Anh thế kỷ XVII là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản Anh trước và sau cách mạng.
Đặc trưng của triết học Anh trong thế kỷ này mang tính chất duy vật và duy cảm.
Đồng thời, do tính chất khơng triệt để của Cách mạng tư sản Anh và ảnh hưởng của
các thế lực tôn giáo, cho nên thế giới quan của các nhà duy vật Anh cũng thiếu triệt
để.
Đại diện cho chủ nghĩa duy vật Anh là Phranxi Bêcơn (1561 - 1626). Phranxi
Bêcơn sinh ra trong một gia đình quý tộc, là con một quan chức cao cấp nước Anh.
Sau khi tốt nghiệp đại học, ông làm nhiều công việc khác nhau: ngoại giao, tư pháp,
thượng thư báo chí, bầu vào nghị viện, thủ tướng Anh, được phong bá tước.
Bêcơn là người sáng lập chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện
đại. Bắt đầu từ Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai đoạn mới.Quan
điểm triết học của Bêcơn trong triết học Anh thế kỷ 17 thể hiện ở những điểm sau:
1. Quan niệm của Bêcơn về vai trò và nhiệm vụ của triết học và khoa học:
Theo Bêcơn, sự phát triển khoa học và triết học là nền tảng của công cuộc canh
tân đất nước, là lý luận cho công cuộc xây dựng phồn vinh đất nước, phát triển kinh
tế, xố bỏ bất cơng và tệ nạn xã hội. Ơng khẳng định “Mục đích của xã hội chúng ta
là nhận thức các nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn của các sự vật và mở rộng sự
thống trị của con người đối với giới tự nhiên trong chừng mực con người có thể làm
được”
14



Bêcơn chịu ảnh hưởng của quan niệm “Triết học là khoa học của các khoa
học”. Triết học là tổng thể các tri thức lý luận của con người về Thượng đế, về thế
giới tự nhiên, về bản thân con người. Do đó, nó gồm có ba học thuyết.
Học thuyết về Thượng đế: nghiên cứu khoa học về thần học và tự nhiên, vạch
ra những khía cạnh hợp lí của nó (phân biệt với thần học, thượng đế dưới góc độ tôn
giáo)
Học thuyết về tự nhiên: Bêcơn đồng nhất với khoa học tự nhiên
Học thuyết về con người: Nhân bản học
Theo Bêcơn thì nhiệm vụ của triết học là cải tạo lại toàn bộ các tri thức mà con
người đã đạt được ở thời đại đó, “nắm bắt trật tự của giới tự nhiên”, xây dựng “trong
trí tuệ con người một kiểu mẫu của thế giới giống như nó tồn tại thực tế, chứ không
phải giống như cái mà tư duy gợi cho mỗi con người” và “hiệu quả và sự sáng chế
thực tiễn là người bảo lãnh và ghi nhận tính chân lý của các triết học”. Tri thức là sức
mạnh. Muốn chinh phục tự nhiên thì con người phải nhận thức các quy luật của nó,
vận dụng và tuân theo chúng.
-2. Bản thể luận triết học:
Trong quá trình xây dựng bản thể luận triết học của mình, Bêcơn xuất phát từ
những lý luận của các nhà triết học duy vật cổ đại Hy Lạp, đặc biệt là lý luận của
Anaxago, Đêmơcrít và cải biến học thuyết Arixtốt theo hướng duy vật. Các nhân vật
này “thường được ông dẫn ra như là những nhân vật có uy tín”. Tuy nhiên, Bêcơn
không dừng lại ở những quan niệm của họ, mà làm phong phú quan niệm của mình
về bản thể luận triết học bằng những kết luận mới của khoa học tự nhiên.
Theo Bêcơn, sự tồn tại của thế giới vật chất khách quan là không thể tranh cãi
được, khoa học khơng thể biết cái gì ngồi thế giới vật chất cả. Và ông khẳng định
vật chất không tách rời vận động, nhận thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận
động của chúng.
Bêcơn đã tiến hành phân loại các hình thức vận động. Ơng nêu ra 19 hình thức
vận động: vận động xung đối; vận động móc nối, kết hợp; vận động giải phóng,
thơng qua đó sự vật thốt khỏi áp lực; vận động, trong đó sự vật hướng tới khối lượng

và kích thước mới; vận động liên tục; vận động có lợi; vận động tự hợp lại với qui mô
lớn; vận động tự hợp lại với qui mơ nhỏ; vận động từ tính; vận động sản sinh; vân
động chạy trốn; vận động thức tỉnh; vận động mô tả, ghi nhận; vận động ngoại tuyến;
vận động theo xu hướng; vận động hùng tráng; vận động tự quay; vận động rung
động; đứng yên.
Ở đây tính chất duy vật siêu hình của Bêcơn được thể hiện là hầu như ơng đã
qui vận động thành các hình thức vận động cơ học. Song cống hiến mới của ông là ở
chỗ coi đứng yên là một hình thức vận động, coi vận động là thuộc tính cố hữu của
vật chất.
Ơng là một trong những người đầu tiên nhận thấy tính bảo tồn vật chất của thế
giới.
15


Quan niệm duy vật của Bêcơn được mở rộng sang lĩnh vực nghiên cứu bản
chất của linh hồn (ý thức). Ông cho rằng, linh hồn biết cảm giác, tồn tại trong óc
người và vận động theo các dây thần kinh và mạch máu. Linh hồn chính là “Một vật
thể, thể xác, là vật chất chân chính” - Nó giống như lửa, khơng khí. Quan niệm về ý
thức của Bêcơn vẫn là quan niệm duy vật tầm thường, không vượt xa hơn so với các
nhà duy vật cổ đại.
3. Về lý luận nhận thức:
Đóng góp lớn của Bêcơn về mặt triết học chính là lý luận nhận thức. Lý luận
nhận thức của Bêcơn nêu lên và giải quyết những vấn đề dưới đây:
Một là, khơng có tri thức bẩm sinh. Mọi tri thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm và
thực hiện sự “chế biến” những kinh nghiệm đó thành một hệ thống, nhờ đó ta biết
được bản chất, qui luật của sự vật. Luận điểm này, thể hiện tư tưởng biện chứng về
mối quan hệ giữa trực quan cảm tính và tư duy lý tính. Bêcơn phê phán những người
kinh nghiệm luận máy móc giống như Con Kiến chỉ biết tha nhặt những cái lẻ tẻ, vụn
vặt và sử dụng chứ khơng biết chế biến chúng; cịn những người giáo điều thì giống
như Con Nhện dùng lý trí của mình giăng những cái mạng vơ hình, vơ nghĩa. Đối với

những nhà khoa học chân chính, theo ơng phải như Con Ong, biết góp nhặt nhụy hoa
tạo ra “Mật khoa học”.
Hai là, muốn nhận thức được giới tự nhiên một cách khoa học, đúng đắn thì
người ta phải từ bỏ cái Ảo tưởng hay còn gọi là những Ngẫu tượng đã thống trị và
đang thống trị lâu nay. Đồng thời áp dụng phương pháp nhận thức tối ưu đó là Tuy
nhiên, Bêcơn chưa lý giải được quan hệ biện chứng của việc phát triển từ nhận thức
cảm tính lên lý tính, cũng như phép biện chứng của tư duy lý tính.
phương pháp qui nạp.
Theo Bêcơn, có bốn loại ảo tưởng (ngẫu tượng):
1. Ảo tưởng chủng tộc:
Đó là nhận thức sai lầm của cả nhóm người, lồi người, nó sinh ra do lồi
người thường xun nhầm lẫn bản chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của
sự vật.
2. Ảo tưởng hang động:
Đó là nhận thức sai lầm của cá nhân do tính chủ quan về tâm lý, tính cách, do
hồn cảnh giáo dục, do hạn chế bởi sự tiếp xúc, sinh hoạt,... của mỗi người làm xuyên
tạc bản chất khách quan của sự vật.
3. Ảo tưởng cơng cộng:
Đó là nhận thức sai lầm do tin vào quan điểm của người có uy tín, vào những
quan điểm phổ biến, những phong tục, tập quán,... mà không phân biệt được đúng sai.
4. Ảo tưởng rạp hát:
Đó là sai lầm do những ảnh hưởng có hại của những quan niệm, những học
thuyết thống trị làm cản trở quá trình nhận thức chân lý.
16


Đi liền với việc từ bỏ các ảo tưởng, theo Bêcơn phải áp dụng phương pháp
nhận thức mới, phương pháp qui nạp. Đó là phương pháp đi từ cái riêng đến cái
chung, từ những sự kiện riêng lẻ đi đến những nguyên lý phổ biến. Quá trình nhận
thức được chia thành ba bước:

· Bước 1: Thông qua các giác quan của con người nhận thức giới tự nhiên với
sự đa dạng và sinh động của nó.
· Bước 2: Trên cơ sở các tài liệu giác quan thu thập được, lập bảng so sánh, hệ
thống lại và phân tích chúng.
· Bước 3: Qui nạp, đây là bước quan trọng nhất. Phân tích các dữ kiện thu thập
được, loại bỏ những dữ kiện phụ, tìm ra mối liên hệ nhân quả của các hiện tượng
nghiên cứu, qua đó phát hiện ra bản chất của sự vật.
Ba là, trong lý luận nhận thức, Bêcơn không đứng vững trên lập trường vô
thần, khi thừa nhận chân lý có tính hai mặt: khoa học và thần học, khoa học và thần
học không nên can thiệp vào công việc của nhau. Khoa học nghiên cứu cái mà thần
học khơng thể có được. Thần học nghiên cứu cái mà khoa học không thể vươn tới.
4. Quan điểm chính trị - xã hội:
Bêcơn chủ trương xây dựng nhà nước tập quyền mạnh, bảo vệ lợi ích xã hội tư
bản, chống lại đặc quyền của bọn quý tộc. Ông khẳng định sự phát triển cơng nghiệp
và thương nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhất trong đời sống xã hội. Bêcơn mơ ước
xây dựng một xã hội phồn vinh bằng con đường giáo dục và bằng các phát minh kỹ
thuật. Ông mong muốn nước Anh là bá chủ thế giới, nô dịch các dân tộc khác.
Tất cả những tư tưởng đó phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của giai cấp tư
sản đang lên và tầng lớp quý tộc mới ở nước Anh vào thế kỷ thứ XVII.

17


Câu 5. Phân tích quan điểm triết học CNDV Pháp thế kỷ 18 trong triết
học Tây âu thời kỳ cận đại ?
I. Hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại.
1. Hoàn cảnh lịch sử.

Thế kỷ XVII – XVIII ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã giành
được thắng lợi chính trị. Cuộc cách mạng tư sản nổ ra đầu tiên là cách mạng tư sản

Hà Lan (1560 –1570), sau đó là cách mạng tư sản Anh (1642 – 1648), rồi đến cách
mạng tư sản Pháp (1789 –1794). Trong đó cách mạng tư sản Pháp là triệt để nhất.
Phương thức sản xuất tư bản được xác lập và trở thành phương thức sản xuất
thống trị, nó tạo ra những vận hội mới cho khoa học kỹ thuật phát triển mà trước hết
là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trìn. Từ những thay đổi sâu sắc trong
đời sống xã hội và những thành tựu mới trong khoa học tự nhiên, triết học thời kỳ này
đã có một bước phát triển mới.h độ cao. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc
trưng là khoa học tự nhiên - thực nghiệm
2. Đặc điểm chủ yếu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại.
Triết học duy vật thời kỳ cận đại ở Tây Âu nhìn chung được coi là thế giới
quan của giai cấp tư sản cịn mang tính cách mạng và tiến bộ. Triết học duy vật thời
kỳ này phát triển rực rỡ và có xu hướng đi tới chủ nghĩa vơ thần. Đặc biệt, các nhà
duy vật Pháp thời kỳ này đều là những nhà vô thần chiến đấu chống lại Giáo hội. Chủ
nghĩa duy vật thời kỳ này mang hình thức của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc.
Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.
· Triết học Tây Âu thời kỳ này đi sâu nghiên cứu vấn đề con người và con
người được nghiên cứu cả trong hai mối quan hệ: với tự nhiên và với nhau trong xã
hội.
· Thời kỳ này xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã
hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thốt khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích
xã hội và lịch sử.
18


· Triết học Tây Âu thời kỳ cận đại có nhiều điểm tiến bộ song vẫn còn hạn
chế. Hạn chế lớn nhất là ở tính chất siêu hình, máy móc và khơng triệt để của nó.
II. Triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.
1. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
Xã hội Pháp vào nửa cuối thế kỷ XVIII chứa đựng những mâu thuẫn sâu sắc.
Giai cấp phong kiến Pháp đứng đầu là vua Lu-i XVI đã thâu tóm vào tay mình những

quyền lực vơ hạn. Chỗ dựa xã hội của nhà vua là các đẳng cấp đặc quyền và chiếm số
ít trong dân cư: quí tộc và tăng lữ. Đời sống của đại đa số nhân dân lao động, trước
hết là nơng dân hết sức khốn khổ, nạn đói do mất mùa hồnh hành, những cuộc nổi
dậy của nơng dân chống chế độ phong kiến xảy ra thường xuyên. Tất cả cái đó là
nguyên nhân kinh tế - xã hội của cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794). Các nhà
duy vật Pháp thế kỷ XVIII là những người chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách
mạng về chính trị sơi động đó.
Thế kỷ XVIII ở Pháp, với những đặc điểm kinh tế - xã hội, chính trị của nó
cũng đồng thời tạo những tiền đề cho sự ra đời của những tư tưởng triết học và tư
tưởng văn hố nói chung.
Triết học thời kỳ này được gọi là triết học khai sáng (ánh sáng) nghĩa là coi
trọng trí tuệ, đề cao trí tuệ của con người.
2. Triết gia tiêu biểu :
Ø Pôn Hăngri Điđrich Hônbách (1729 – 1789).
Hônbách là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật và vô thần thế kỷ XVIII,
nhà tư tưởng của giai cấp tư sản cách mạng Pháp, là cộng tác viên tham gia soạn thảo
“Bách khoa toàn thư” do Điđrơ đứng đầu. Ơng là tác giả của những tác phẩm nổi
tiếng như “Hệ thống tự nhiên”, “Đạo Thiên chúa bị lật mặt nạ”, “Thần học thu nhỏ
lại”. “Sự truyền nhiễm thiêng liêng”
· Về thế giới quan.
Hônbách đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật và dựa vào các thành
tựu của khoa học tự nhiên khẳng định tính vật chất của thế giới. Theo ông: “vật chất là
19


tất cả những gì tác động bằng một cách nào đó vào các giác quan của chúng ta, cịn các đặc
tính mà chúng ta gán cho các chất khác nhau thì dự trên những cảm giác khác nhau hay
những biến đổi khác nhau do chúng gây ra trong chúng ta”. Những đặc tính chủ yếu của
vật chất là: quảng tính (độ dài - khoảng cách), vận động, tính có thể phân chia, tính
chắc chắn, trọng lực...

Theo Hơnbách, vật chất tồn tại vĩnh viễn, không ai sáng tạo ra và cũng không
mất đi. Vật chất hoạt động là do sức mạnh của tự bản thân nó và khơng cần có sự
thúc đẩy bên ngồi. Cơng lao lớn nhất của Hơnbách thể hiện ở chỗ ơng thừa nhận vận
động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Nhưng vì là nhà duy vật siêu hình và do hạn
chế của điều kiện lịch sử, nên ông quan niệm vận động chỉ là vận động cơ giới, là sự
đổi chỗ giản đơn của các vật thể trong không gian.
Trong tác phẩm “Hệ thống của tự nhiên” Hơnbách khẳng định: ý thức là đặc
tính của một dạng vật chất có tổ chức cao và ơng phê phán tính chất vơ lý của học
thuyết về linh hồn phi thể chất, và các học thuyết về con người được tạo ra theo hình
ảnh của Thượng đế.
Ơng cho rằng: “Con người là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại trong tự nhiên, phục
tùng qui luật của tự nhiên, khơng thể thốt khỏi tự nhiên được”.
· Về nhận thức luận .
Lý luận nhận thức của Hônbách dựa trên cảm giác luận duy vật. Theo ơng, vật
chất là tính thứ nhất, các hình thức ý thức là tính thứ hai. Khi giải quyết mặt thứ hai
vấn đề cơ bản của triết học, Hơnbách cho rằng trí tuệ con người có khả năng nhận
biết được thế giới và các quy luật của nó. Song lý luận nhận thức của Hơnbách cịn
hạn chế là chưa thấy được quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính với nhận thức
lý tính, chưa vạch ra được tính tích cực của ý thức và vai trò của thực tiễn xã hội
trong nhận thức.
· Quan điểm xã hội.
Quan điểm xã hội của Hơnbách mang tính chất duy tâm, ông coi sự phát triển
xã hội như một quá trình định mệnh chi phối. Là nhà triết học trong phái khai sáng,

20


ơng quả quyết rằng lồi người có thể thốt khỏi ách phong kiến bằng việc phổ cập
giáo dục, làm cho lý tính thắng chủ nghĩa ngu dân thời Trung cổ.
Hơnbách mong muốn có sự q độ hịa bình từ chế độ phong kiến sang xã hội

tư bản bằng con đường lập pháp “hồn thiện”. Ơng sợ phong trào cách mạng của
quần chúng, mà muốn có “cách mạng từ trên xuống”.
Ø Giulen Ôphrơ La Mettri (1709 – 1751).

La Mettri sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có. Sau khi tốt nghiệp
trung học, ông nghiên cứu y học và trở thành bác sĩ, đồng thời say mê nghiên cứu
triết học và khoa học. La Mettri là một trong những nhà triết học duy vật điển hình
của triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Những tác phẩm chủ yếu của ông là “
Lịch sử tự nhiên của linh hồn” (1745), “Con người là cái máy” (1747), “Con ngườithực vật” (1748). Ông cùng với các nhà Bách khoa toàn thư Pháp chuẩn bị về mặt tư
tưởng cho cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789.
· Về bản thể luận.
La Mettri đã có những bước tiến quan trọng trong quan điểm về bản chất
thế giới so với những nhà triết học khác cùng thời đại. Theo ông, thực thể vật chất là
thống nhất ba hình thức của nó trong giới tự nhiên như: giới vô cơ, thực vật, động vật
(bao gồm con người).
Ơng cho rằng, trong thế giới chúng ta khơng có gì khác ngồi vật chất
đang vận động vĩnh viễn. Ngun nhân sự vận động của vật chất không phải do lực
lượng bên ngoài mà “Vật chất chứa đựng một lực lượng làm nó sống động, và là
nguyên nhân trực tiếp của mọi qui luật vận động”.
Theo La Mettri, vật chất khơng chỉ có thuộc tính khơng gian và vận động
mà cịn có năng lực cảm giác. Nhưng năng lực cảm giác không phải xuất hiện ở bất
cứ dạng vật chất nào, mà chỉ xuất hiện ở các “vật thể có tổ chức đặc biệt” đó là giới
sinh vật. Cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy và ý thức của anh ta.
Mọi tư tưởng, suy nghĩ của con người đều bị qui định bởi cấu trúc cơ thể của
anh ta và chịu sự tác động của môi trường và các điều kiện sống.

21


La Mettri quan niệm “Con người là cái máy phức tạp tới mức hồn tồn

khơng thể có một ý tưởng rõ ràng và do vậy, không thể đưa ra một định nghĩa chính
xác về con người”.
· Về lý luận nhận thức.
La Mettri có những đóng góp có giá trị cho lý luận nhận thức duy vật. Ông
cho rằng mọi nhận thức đều bắt đầu từ cảm giác, tiến lên tư duy trừu tượng - đó là
phán đốn và suy lý. Phán đoán là so sánh, kết hợp các biểu tượng có được nhờ trí nhớ
ghi lại các cảm giác của con người trong đời sống hàng ngày. Còn suy lý là sự so sánh,
kết hợp các phán đoán với nhau nhằm khẳng định hay phủ định một vấn đề nào đó.
Quan niệm của La Mettri về q trình nhận thức, khơng chỉ là quan điểm
duy vật mà cịn có những yếu tố biện chứng. Tuy nhiên lý luận nhận thức của ơng vẫn
mang tính trực quan, siêu hình, q nhấn mạnh vai trò cơ chế tâm sinh lý trong nhận
thức...
· Quan điểm về xã hội.
La Mettri chủ trương thực hiện quyền sở hữu tài sản. Chủ trương một xã
hội được quản lý theo pháp luật, bảo đảm quyền tự do chính trị, quyền cơng dân, tự
do bn bán...
Là người có tư tưởng khai sáng, La Mettri cho rằng, thông qua giáo dục,
truyền bá tư tưởng tiên tiến cho mọi người thì sẽ giải quyết được mọi sự tiến bộ xã
hội.
Ơng cho rằng đối với người làm khoa học thì khơng cần đến tôn giáo.
Nhưng đối với đại đa số nhân dân khơng có học, nghèo khổ thì họ lại cần tôn giáo.

22


Câu 6: Nội dung cơ bản của triết học Hêghen trong triết học cổ điển Đức và ảnh
hưởng của nó đối với sự ra đời củe triết học Mác?
A. Nội dung cơ bản của triết học Hêghen trong triết học cổ điển Đức :
* Hêghen là một nhà triết học duy tâm khách quan bởi vì trong hệ thống triết học của
mình thì Hêghen coi ý niệm tuyệt đối là điểm xuất phát, là nền tảng sinh ra thế giới tự

nhiên và xã hội. Cách khác, mọi sự vật, hiện tượng xung quanh chúng ta chỉ là sản
phẩm, là kết quả của sự sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, con người là sản
phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức
và cải tạo thế giới của con người là công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính
bản thân mình và trở thành chính bản thân mình.
Như vậy, khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Hêghen đứng trên lập trường chủ
nghĩa duy tâm khách quan, biến ý niệm do con người phản ánh hiện thực thành một
bản chất độc lập, tách rời con người, tách rời thực tế khách quan thành một thực thể
tinh thần bí ẩn và gọi nó là ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối, tinh thần ấy sinh ra
các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Trên cơ sở quan điểm duy tâm khách quan trên,
Hêghen đã xây dựng hồn chỉnh hệ thống triết học của mình và hệ thống đó gồm 3
phần chủ yếu sau:
+ Phần thứ nhất: Hêghen trình bày ở cuốn “Logic học” ơng cho rằng “Ý niệm
tuyệt đối” còn hoạt động ở dạng nguyên chất của tư duy thuần túy, ở dạng sơ khai
đúng như nó tồn tại.
+ Phần thứ hai: học thuyết duy tâm về tự nhiên được Hêghen lý giải là “sự tồn
tại khác” của tinh thần hay ý niệm đã trở thành kẻ sáng tạo ra giới tự nhiên. Như vậy,
về thực chất triết học tự nhiên của Hêghen đã đem lại sự phát triển của giới tự nhiên
dưới hình thức duy tâm.
+ Phần thứ ba: Hêghen trình bày lý luận duy tâm về đời sống xã hội. Ông lý giải
chủ yếu trong “Triết học tinh thần”. Hêghen thừa nhận khả năng nhận thức của con
người về giới tự nhiên. Ông cho rằng “Con người có khả năng phản ánh đầy đủ giới
tự nhiên và khi con người phản ánh được đầy đủ giới tự nhiên cũng có nghĩa là ý thức
của con người quay trở về điểm khởi đầu của nó là ý niệm tuyệt đối”. Như vậy điểm
khởi đầu là ở tinh thần và điểm kết thúc cũng là tinh thần nhưng trên cơ sở cao hơn.
Như vậy, xét toàn bộ hệ thống triết học của Hêghen là chủ nghĩa duy tâm khách quan
mang nặng tính chất thần bí phục vụ đắc lực cho tôn giáo. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu
kỹ toàn bộ hệ thống triết học này, đặc biệt là logic học của Hêghen ta có thể tìm thấy
những “Hạt nhân hợp lý”, những tư tưởng thiên tài về phép biện chứng đó chính là
chỗ mà ơng vượt xa các tiền bối của mình.

1. Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là một thành tựu vĩ đại của triết học cổ
điển Đức
23


Hêghen là người có cơng phê phán tư duy siêu hình và ơng cũng là người đầu tiên
trình bày tồn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy duới dạng một quá trình. Nghĩa là,
trong sự liên hệ, vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Trong khuôn khổ hệ
thống triết học duy tâm của mình, Hêghen khơng chỉ trình bày các phạm trù như:
chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn mà ơng cịn là người diễn đạt được các quy luật
theo khuôn khổ của phép biện chứng. Nghĩa là ông coi sự liên hệ, vận động phát triển
của thế giới tuân theo các quy luật như “Lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”,
“Phủ định của phủ định” với tư cách là sự phát triển diễn ra theo hình “Xốy ốc” và
quy luật mâu thuẫn với tư cách là nguồn gốc động lực của sự phát triển.
Như vậy, những vấn đề cốt lỗi nhất đã được Hêghen đề cặp một cách bao quát nhất.
Nhưng khi trình bày quy luật của phép biện chứng Hêghen lại cho rằng “Tất cả những
quy luật đó chỉ là sản phẩm của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối”. Do
đó, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, hệ thống triết học của
ông là hệ thống triết học duy tâm. Nét đặc trưng của hệ thống đó là khơng phải ý thức
phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội mà ngược lại tự
nhiên và xã hội phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối.
Mác và Ănghen đã phê phán một cách triệt để tính chất duy tâm trong phép biện
chứng của Hêghen. Đồng thời các ông cũng kế thừa, tiếp thu những mặt tiến bộ trong
phép biện chứng ấy để hình thành phép biện chứng duy vật và các ơng coi Hêghen là
người có nhiều cơng lao trong việc phát triển phép biện chứng.
2. Quan điểm về xã hội: Hêghen đứng trên lập trường bảo thủ cải lương coi nhà nước
Đức là chân lý- lập trường của chủ nghĩa Sô-vanh đề cao dân tộc Đức, miệt thị dân
tộc khác, coi nước Đức là hiện thân của tinh thần “Vũ trụ mới”. Chế độ nhà nước
đương thời được Hêghen xem nó như đỉnh cao của sự phát triển của nhà nước và
pháp luật.

Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng phản tiến bộ, Hêghen đã nêu ra nhiều tư tưởng
biện chứng quý báo về sự phát triển của đời sống xã hội. Trong đó ơng đặc biệt quan
tâm nghiên cứu về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Hêghen tìm nguồn
gốc nhà nước từ mâu thuẫn xã hội, ơng cịn cho rằng: “Nhà nước khơng chỉ là cơ
quan hành pháp, mà còn là tổng thể các quy chế kỹ cương, chuẩn mực và mọi lĩnh
vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hố,…” của xã hội, nhờ đó mà xã hội được
phát triển bình thường.
Tóm lại: Tuy có nhiều nhược điểm là mâu thuẫn giữa phép biện chứng có tính cách
mạng với hệ thống duy tâm có tính chất bảo thủ, nhưng triết học của Hêghen thực sự
là một hệ thống đồ sộ, kỳ vĩ nhất trong lịch sữ trước Mác nói chung và trong triết học
cổ điển Đức nói riêng.

24


B. Ảnh hưởng của triết học Hêghen đối với sự ra đời của triết học Mác
Triết học của Hêghen đã ảnh hưởng rất quan trọng về mặt lý luận đến sự hình thành
thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen. Hai ơng đã tiếp thu có phê
phán triết học của Hêghen. Công lao của Hêghen theo Mác và Ăngghen là ở chỗ phê
phán phương pháp siêu hình, diễn đạt một cách hệ thống rõ ràng những quy luật và
phạm trù của phép biện chứng. Mác và Ăngghen đã vận dụng những tư tưởng cách
mạng trong phép biện chứng của Hêghen để luận giải cho những khát vọng dân chủ
cách mạng của mình. Đồng thời, Mác và Ăngghen cũng đã phê phán chủ nghĩa duy
tâm của Hêghen biểu hiện trong học thuyết về “Ý niệm tuyệt đối”, trong quan niệm
về nhà nước và pháp quyền.
Trên cơ sở phê phán chủ nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện chứng của Hêghen
khỏi tính thần bí, Mác và Ăngghen đã xây dựng phép biện chứng duy vật và đây
chính là hình thức cao nhất của phép biện chứng.

25



×