Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.91 KB, 23 trang )

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG
I- NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1/ Khái niệm về Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại xuất hiện trước khi có chủ nghĩa tư bản, nó được
hình thành từ những thương nhân làm nghề kinh doanh tiền tệ. tính chất vô
danh của đồng tiền khiến cho những người kinh doanh tiền tệ có thể chuyển từ
việc chỉ giữ hộ tiền (vàng) sang đổi hộ tiền, vận chuyển hộ tiền và dần dần khi
họ tích luỹ được một số vốn nhất định họ sẽ tiến hành cho vay lấy lãi. Lúc này
việc giữ hộ tiền thu lệ phí chuyển sang hoạt động huy động vốn phải trả lãi để
khuyến khích, động viên số vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Đồng
thời họ tiến hành nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng. Khi cả ba nghiêp vụ nợ
(huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay) và nghiệp vụ trung gian (thanh toán)
được hình thành thì lúc đó ngân hàng thực thụ đã xuất hiện.
Như vậy có thể nói Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế mà
hoạt động thường xuyên của nó là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả, sử
dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện một số dịch vụ thanh toán cho khách
hàng .
2- Vai trò của Ngân hàng thương mại .
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ .Tiền vừa là nguyên liệu vừa
là giá trị phản ánh hiệu quả kinh doanh của ngân hàng .Dưới nền kinh tế chỉ
huy ,mọi hoạt động của ngân hàng không có hiệu quả ,các ngân hàng thương
mại đứng ngoài sản xuất ,tác động của ngân hàng tới nền sản xuất là rất
yếu .Đã xuất hiện nhiều căn bệnh hiểm nghèo do hậu quả hoạt động của ngân
hàng không tốt gây ra như :khủng hoảng, lạm phát ... Mặc dù vậy ,ngân hàng
vẫn giữ vai trò rất to lớn trong nền kinh tế thị trường .Cụ thể là:
2.1.Ngân hàng tạo ra tín dụng giúp cho nhà kinh doanh có điều
kiện mở rộng sản xuất .
Ngân hàng thương mại là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá ,thực hiện
các nghiệp vụ của mình về tiền tệ tín dụng .Ngân hàng thương mại là nơi tích
tụ và tập trung vốn ,nơi khơi dậy và thu hút mọi tiềm năng của xã hội, phục vụ
cho mục tiêu kinh tế xã hội, làm cho sản phẩm xã hội tăng lên .Do vậy giữa các


ngân hàng và các nghành kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau .Trên cơ sở
nguồn tiền nhàn rỗi tạm thời chưa sử dụng phát sinh trong nền kinh tế mà
ngân hàng huy động được ,ngân hàng tiến hành phân phối cho nhu cầu của
nền kinh tế ,đáp ứng nhu cầu về vốn để mở rộng quá trình tái sản xuất .Các
doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá luôn phải nâng cao trình
độ khoa học kĩ thuật, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Phần lớn
các doanh nghiệp khi mở rông sản xuất bao giờ cũng thiếu vốn. Ngân hàng là
thị trường vốn bảo đảm cung cấp đầy đủ nhu cầu của doanh nghiệp. Ngoài
việc bổ sung vốn lưu động, ngân hàng còn cho vay đầu tư dài hạn, giúp cho họ
hiện đại hoá các qui trình công nghệ.
Như vậy ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
2.2- Ngân hàng giúp cho các tổ chức sản xuất kinh doanh quản lý
doanh nghiệp có hiệu quả.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn
trả và có lợi tức. Chúng ta biết rằng giá cả của hàng hoá cho vay chính là lãi
suất tín dụng. Qua lãi suất tín dụng, ngân hàng thúc đẩy các đơn vị phải hạch
toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng vòng quay của vốn,
giảm chi phí, tăng khả năng sinh lời để có thể trả lãi vay ngân hàng mà đơn vị
vẫn có lãi.
Mặt khác qua việc thẩm định ngân hàng chỉ quyết định cho vay đối với
những đơn vị có khả năng hoàn trả cả vốn và lãi, đơn vị nào hoạt động có hiệu
quả thì cho vay nhiều và ngược lại. Như vậy một đơn vị muốn vay vốn ngân
hàng để sản xuất kinh doanh trước hết phải xắp xếp tổ chức sản xuất kinh
doanh tốt mới lấy được lòng tin của ngân hàng.
2.3- Ngân hàng khích lệ sự tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và dân cư.
Lãi xuất khích lệ các tổ chức kinh tế cũng như dân cư gửi tiền vào ngân
hàng. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn có lợi nhuận lớn phải tiết kiệm tối đa
chi phí mới đảm bảo trả được lãi vay ngân hàng. Như vậy lãi xuất tiền gửi và
lãi xuất cho vay đóng vai trò quan trọng trong tiết kiệm đầu tư và tiết kiệm

tiêu dùng.
2.4- Ngân hàng giúp cho nền kinh tế phân bổ vốn giữa các vùng
trong một quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của
đất nước.
Gữa các vùng trên lãnh thổ một quốc gia thường có sự phát triển kinh tế
xã hội không đồng đều mà nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của điều kiện
tự nhiên. Nơi tài nguyên nghèo, địa hình hiểm trở xa xôi, khí hậu không thuận
lợi để phát triển kinh tế thì nguồn vốn huy động tại chỗ ở địa phương từ sự
tiết kiệm của dân cư và các tổ chức kinh tế không được bao nhiêu để dùng vào
đầu tư. Các ngân hàng thương mại thường được tổ chức theo hệ thống, trong
đó Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại trung ương sẽ đứng ra điều
hoà vốn từ nơi thừa (huy động mà không sử dụng hết) đến nơi thiếu đảm bảo
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế vùng, xoá dần sự khác biệt giữa các vùng
trên lãnh thổ về kinh tế và xã hội.
2.5- Ngân hàng góp phần chống lạm phát và là một trong những
công cụ quản lý Nhà nước có hiệu quả tạo nên sự công bằng và ổn định.
Có hai con đường dẫn đến lạm phát, trong đó có một con đường qua lạm
phát tín dụng. Ngân hàng với các biện phảp của mình đã ngăn chặn lượng
tiền thừa vào lưu thông ,góp phần chống lạm phát .Ngân hàng với tư cách là
trung tâm tiền tệ tín dụng ,thông qua các nghiệp vụ của mình đã kiểm soát
bằng tiền hoạt động của nền kinh tế. Ngân hàng xác định được hướng đầu tư
vốn ,có biện pháp xử lý những biến động không hợp lý trong nền kinh tế, kiểm
soát quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội. Ngoài ra, ngân hàng là cơ
quan quản lý tiền tệ nên thông qua nghiệp vụ của mình ,điều hoà lưu thông
tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền.
2.6-Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa trong nước và thế giới
bên ngoài tạo nên môi trường quyết định phát triển ngoại thương,
công nghiệp và các ngành có liên quan .
Trong điều kiện hiện nay, phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền
với thị trường thế giới, nền kinh tế đóng nhường bước cho kinh tế mở. Vì vậy

tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh
tế các nước với nhau. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam
nói riêng, Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng
xuất nhập khẩu hàng hoá, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại, trong nền kinh tế hiện đại do áp dụng những thành quả khoa học
kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ tin học, không gian và thời gian đã thay đổi.
Vốn cho sản xuất ở mỗi nước không còn khả năng tự lực cánh sinh mà còn phải
có sự hoà nhập với thị trường vốn thế giới. Ngân hàng thương mại chính là
cầu nối cho thị trường trong và ngoài nước. Như vậy nó không chỉ là "Bà đỡ"
cho sản xuất hàng hoá mà nó còn chính là trái tim luôn cung cấp máu cho mọi
tế bào của đời sống kinh tế.
3- Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại .
3.1- Huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế và cá nhân.
Đây là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Thực hiện nghiệp vụ này Ngân hàng thương mại đã thực hiện được một phần
chức năng tạo tiền. Nếu tín dụng ngân hàng không tạo được tiền để mở ra
những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và những hoạt động của nó
thì trong nhiều trường hợp hoạt động sản xuất không thực hiện được và
nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận và các nguồn khác sẽ bị hạn chế. Hơn thế nữa
các đơn vị sản xuất có thể gánh chịu tình trạnh ứ đọng vốn, vốn luân chuyển
không được sử dụng trong những giai đoạn cụ thể của quá trình sản xuất,
nhưng trong các thời kỳ cao điểm mang tính thời vụ của một doanh nghiệp lại
không đủ vốn để thúc đẩy nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Sự ra đời của Ngân hàng thương mại đã tạo ra bước phát triển về chất
trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Nếu như trước đây các tổ chức kinh doanh
tiền tệ giữ tiền và gửi tiền để rồi cho vay ra cũng chính những đồng tiền ấy thì
kể từ khi ngân hàng ra đời việc cho vay không nhất thiết là tiền, vàng, bạc mà
họ nhận được từ người gửi.
Ngân hàng thương mại hoạt động bằng cách "đi vay để cho vay" khoản

chênh lệch lãi xuất, sau khi đã trừ đi những chi phí khác là lợi nhuận của ngân
hàng. Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng
cách nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân với các lãi xuất khác nhau
như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm...
Ngoài ra khi cần thêm vốn ngân hàng có thể huy động bằng cách phát
hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của ngân hàng trung ương hoặc các
tổ chức tín dụng khác.
3.2- Nghiệp vụ đầu tư tín dụng.
Nghiệp vụ đầu tư tín dụng cho khách hàng là nghiêp vụ kinh doanh mang
lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Vốn mà Ngân hàng thương mại sử dụng
để cho vay suất phát từ nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các khoản
tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế. Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các ngân
hàng thương mại đã và đang thực hiện các chức năng xã hội của mình làm cho
sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó dẫn đến lợi
nhuận nhiều hơn, đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao. Rõ ràng tín
dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của nề kinh
tế. nó tạo ra khả năng tài trợ cho hoạt động công nghiệp, thương nghiệp, nông
nghiệp của đất nước.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro
nhất. vì vậy trong quyết định số 198/NH-QĐ ngày 16/9/1998 của thống đốc
ngân hàng nhà nước đã ghi 3 nguyên tắc của tín dụng Ngân hàng thương mại
là "vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn đã kỹ; vốn
vay phải sử dụng đúng mục đích có kết quả; vốn vay phải đảm bảo bằng hàng
hoá có gía trị tương đương".
3.3- Nghiệp vụ thanh toán
Việc đưa ra một cơ chế thanh toán hay nói cách khác sự vận động vốn là
một trong những chức năng quan trọng do các ngân hàng thương mại thực
hiện . nó càng trở nên quan trọng khi có được sự tín nhiệm trong việc sử dụng
séc và thẻ tín dụng. Phần lớn séc trong nước được thanh toán bù trừ thông qua
hệ thống Ngân hàng thương mại.

Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, nghiệp vụ thanh toán của
ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần là trung gian thanh toán mà còn
quản lý các phương tiện thanh toán một cách có hiệu quả. Hiện nay ở nhiều
nước ngân hàng đã và đang trang bị hệ thống máy vi tính và các phương tiện
kỹ thuật hiện đại khác nhằm làm cho quá trình thanh toán bù trừ, thanh toán
liên hàng được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và đạt độ chính xác
cao .
3.4-Tham gia vào hoạt động thị trường hối đoái .
Các Ngân hàng thương mại có nhiều khách hàng tham gia xuất nhập
khẩu, có thu chi ngoại tệ nhiều .Trong sự phát triển của mình , các ngân hàng
đã hình thành và phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc
tế .Các nghiệp vụ này là động lực phát triển sản xuất kinh doanh , xuất nhập
khẩu của các đơn vị kinh tế .Xét về mặt ngân hàng, việc mua bán ngoại tệ cũng
như việc cho vay ngoại tệ đem lại lợi nhuận trên cơ sở mua vào với giá thấp ,
bán ra với giá cao hơn, hoặc do sự biến động của tỷ giá ngoại tệ nên việc mua
bán ngoại tệ không thông qua đồng bản tệ hay kinh doanh chênh lệch giá cũng
đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
3.5- Tham gia vào hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Ngân hàng tham gia vào thị trường chứng khoán là thực hiện các nghiệp
vụ tài chính. Trên thị trường chứng khoán, ngân hàng thương mại có thể xuất
hiện với tư cách người mua bán chứng khoán ,người môi giới và bảo lãnh
chứng khoán cho các chủ đầu tư, trong đó chức năng người môi giới chứng
khoán của ngân hàng trên thị trường chứng khoán là chức năng quan trọng
nhất.
3.6- Thực hiện các dịch vụ đối với khách hàng .
Hoạt động dịch vụ của Ngân hàng thương mại ngày càng đem lại lợi
nhuận lớn cho ngân hàng .Vì vậy các ngân hàng ngày càng đa dạng hoá các
dịch vụ của mình đối với khách hàng nhằm nâng cao lợi nhuận .Một số dịch
vụ của Ngân hàng thương mại như :nhận bảo quản tài sản cho cá nhân , dịch
vụ chuyển tiền, dịch vụ bảo quản vật có giá , quản lý chứng từ có giá , tư vấn

cung cấp thông tin về kinh tế cho khách hàng ...
Với những hoạt động này , Ngân hàng thương mại xứng đáng đóng vai
trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển kinh tế và trở thành trung tâm
của đời sống kinh tế.
II- RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG .
1/ Khái niệm về rủi ro.
Mọi hoạt động của mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội , đều hướng tới một
mục đích nào đó .Song có những trường hợp mục đích đó không đạt được do
trong quá trình hoạt động gặp phải rủi ro . Vậy rủi ro là gì ? Đã có nhiều định
nghĩa về rủi ro như :"Rủi ro là bất trắc gây mất mát , thiệt hại ", "rủi ro là sự
bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đơị
"...Nhưng nói chung mọi định nghĩa đều đi đến sự khẳng định là rủi ro là sự
kiện xảy ra ngoài ý muốn và đem lại những hậu quả xấu . Rủi ro có thể gặp bất
cứ lúc nào , ngoài ý thức của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống , nhất
là trong lĩnh vực linh tế.
Trong kinh tế , rủi ro được coi là những tổn thất mà các doanh nghiệp
phải chấp nhận khi kinh doanh . Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ -tín dụng các
ngân hàng cũng phải chấp nhận điều đó . Nhưng thực tế đã chứng minh rằng
không một ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến rủi ro nhiêù như kinh
doanh tiền tệ . Rủi ro trong kinh doanh tín dụng là những tổn thất xảy ra trong
quá trình ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tín dụng của mình, vì
tín dụng là việc " một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho người khác ,dùng chữ
kí cam kết cho người này như bảo lãnh , bảo đảm hay bảo chứng mà có thu
tiền "
Như vậy tín dụng dựa vào lòng tin về sự hoàn trả số nợ vay vào một thời
điểm xác định trong tương lai . Cơ sở của quan hệ tín dụng dựa trên sự phối
hợp chặt chẽ giữa sự chuỷen giao quyền sử dụng vốn và lòng tin , lòng tin này
xuất phát từ hai phía, hai chủ thể tín dụng: Người cung cấp tín dụng và khách
hàng. Khả năng kinh tế, khả năng kỹ thuật, uy tín của mỗi chủ thể là cơ sở để
tạo ra lòng tin giữa họ song tín dụng luôn chứa đựng yếu tố thời gian và trong

tương lai "số phận" của khoản tín dụng sẽ như thế nào? đó là một điều mà
không ai có thể khẳng định chắc chắn được, nghĩa là rủi ro đang chờ đón họ.
Rủi ro không loại trừ bất kỳ một loại tín dụng nào, song tín dụng ngân hàng có
khả năng gặp phải nhiều trở ngại, rủi ro hơn so với tín dụng thương mại. Bởi
vì xem xét rủi ro trong tín dụng thương mại chúng ta nhận thấy rủi ro được
giới hạn trong phạm vi hàng hoá, có nghĩa là người ta sẽ không mua hàng hoá
nếu xét thấy khả năng không bán được và như vậy sẽ không phát sinh quan hệ
tín dụng và không có rủi ro. Còn nếu xem xét rủi ro trong tín dụng ngân hàng
thi tình hình lại khác hẳn. Tín dụng ngân hàng là tín dụng bằng tiền, có phạm
vi rộng rãi hầu như không giới hạn. Do vậy nhận thức đúng đắn và đầy đủ về
rủi ro trong kinh doanh tín dụng là một vấn đề cần thiết để đảm bảo cho ngân
hàng có được những giải pháp hạn chế rủi ro có hiệu quả, giúp ngân hàng đạt
được mục tiêu của quá trình kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận.
2- Các loại rủi ro chủ yếu mà ngân hàng thương mại thường gặp.
Chúng ta đều biết rằng hoạt động của ngân hàng là loại hình hoạt động
rất cần sự cận trọng song vẫn thường gặp phải rủi ro. Một ngân hàng thành
công trong hoạt động của nó không chỉ có những cán bộ chuyên môn giỏi mà
cần phải am hiểu nhiều lĩnh vực và đặc biệt phải có phẩm chất đạo đức tốt , có
tinh thần trách nhiệm với công việc. Tuy nhiên vẫn phải khẳng định rằng kinh
doanh ngân hàng là lĩnh vực gặp nhiều rủi ro nhất, trong đó tập trung vào 5
loại rủi ro sau:
2.1- Rủi ro thuần tuý.
Đó là các rủi ro do tác động của thiên nhiên mang lại như: Thiên tai, hoả
hoạn, động đất, hoặc những rủi ro như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng... Làm
thiệt hại hoặc gây thất thoát tài sản của ngân hàng.
2.2- Rủi ro lãi suất:
loại này xảy ra khi có sự thay đổi lãi suất trực tiếp tác động tới lợi nhuận
của nhà ngân hàng. Ví dụ, khi lãi suất tiền vay giảm trong khi lãi suất trả cho
tiền gửi hoặc trái phiếu giữ nguyên làm giảm thu nhập của nhà ngân hàng.
Những thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra làm giảm chi phí cho nguồn vốn cao

hơn thu nhập sử dụng vốn dẫn đến kinh doanh của ngân hàng bị lỗ.
2.3- Rủi ro tín dụng.
Đó là loại rủi ro xảy ra khi ngân hàng không thu hồi được các khoản vay
chủ yếu do tình trạng nợ khó đòi và nợ không có khả năng thu hồi. Chúng bao
gồm tất cả các khoản cho vay của ngân hàng, các khoản đầu tư chứng khoán,
tín dụng tài trợ... đến kỳ hạn mà khách hàng, người phát hành không thanh
toán hoặc trả nợ được cho ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường
xuyên xảy ra. Bởi vậy việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm của chính các
ngân hàng, hơn 2/3 số tài sản có của ngân hàng là các món nợ cho vay và đầu
tư chứng khoán, đem lại thu nhập chủ yếu cho nhà ngân hàng. Thêm vào đó
các hoạt động ngoại bảng tổng kết tài sản như: Các giao dịch trên thị trường
hối đoái, các hợp đồng trao đổi, bảo lãnh tín dụng, tín dụng tài trợ... đều rất dễ
bị rủi ro, thua lỗ và mất mát.
Nếu các món vay hoặc chứng khoán đến kỳ hạn mà không được hoàn trả
ngân hàng sẽ mất cả vốn lẫn laĩ. Nếu giá trị số thiệt hại quá lớn, vượt quá số
vốn tự có của ngân hàng thì chắc chắn ngân hàng sẽ không hoạt động được
nữa và lâm vào tình trạng khủng hoảng, có nguy cơ bị phá sản.
2.4- Rủi ro hối đoái.
Đây là loại rủi ro do biến động của thị trường ngoại hối gây ra. hiện nay
các ngân hàng thương mại thường có xu hướng hoạt động đa năng thực hienẹ
cả nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ do đó khi có sự biến động về tỷ giá hối đoái
thì thường phải chịu ảnh hưởng ở một mức độ nào đó (nếu sự biến động đó
nằm ngoài dự kiến của ngân hàng) Nhất là với các Ngân hàng thương mại Việt
Nam, hiện nay mới đang trong thời kỳ sơ khai, còn nhiều bỡ ngỡ, kinh nghiệm
còn hạn chế do đó vẫn đề rủi ro hối đoái đang được các ngân hàng quan tâm
một cách thích đáng.
2.5- Rủi ro nguồn vốn
Thể hiện trên 2 phương diện: Rủi ro do bị đọng vốn và rủi ro thiếu vốn khả
dụng.
* Rủi ro bị đọng vốn: là trường hợp ngân hàng huy động vốn mà không

cho vay ra được xảy ra tình trạng mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng
vốn. Rủi ro này xảy ra có thể do tác động của lãi suất, của công cụ hạn mức tín
dụng hoặc do chất lượng kinh doanh của bản thân ngân hàng.
* Rủi ro thiếu vốn khả dụng xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được
nhu cầu thanh toán của khách hàng. Nó xuất phát từ chức năng chuyển hoán
các kỳ hạn sử dụng vốn và gnuồn vốn của ngân hàng. Rủi ro này thể hiện ngân
hàng thiếu vốn hoạt động. Do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị
trường vốn, nếu khả năng thanh toán của ngân hàng kém, ngân hàng lại càng
khó lòng huy động được một nguồn vốn dồi dào, từ đó phạm vi hoạt động của
ngân hàng bị thu hẹp, Ngân hàng càng có nguy cơ rủi ro, vỡ nợ. Vì thế loại rủi
ro này rất nguy hiểm đối với nhà quản lý ngân hàng.
Với loại rủi ro này, Ngân hàng luôn đề phòng bằng việc tính toán, duy trì
một hệ thống vốn khả dụng phù hợp với ngân hàng mình. Hệ số này được xây
dựng trên cơ sở phân tích cụ thể tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn theo tính
chất khả chi và khả dụng thực sự của chúng. Chẳng hạn tiền gửi có kỳ hạn
thường ổn định hơn tiền gửi không kỳ hạn; tiền gửi giữa các ngân hàng
thường bấp bênh hơn tiền gửi của khách hàng....
Như vậy, trong năm loại rủi ro kể trên, rủi ro tín dụng là có tác động
mạnh mẽ đến sự tồn tại của ngân hàng. nếu như cho vay là chức năng chính
của nhà ngân hàng và nó đem lại nguồn lợi nhuận lớn thì đi kèm với nó rủi ro

×