Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG. NGHIÊN CỨU CÁC MÔ HÌNH THÍCH ỨNG VÀ GIẢM THIỂU. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.21 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.
NGHIÊN CỨU CÁC MÔ HÌNH THÍCH ỨNG VÀ GIẢM THIỂU
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI

Hà Nội, 2019


MỤC LỤC

2


I.
1.

Thực trạng biến đổi khí hậu trong những năm gần đây
Khái niệm và nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu
1.1.
Khái niệm biến đổi khí hậu
Theo công ước Khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu : Sự thay
đổi của khí hậu được quy trực tiếp hay gián tiếp là do hoạt động của con
người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và đóng góp thêm
vào sự biến động khí hậu tự nhiên trong các thời gian có thể so sánh
được. Theo Wikipedia thì Biến đổi khí hậu được định nghĩa là sự thay đổi
của hệ thống khí quyển, thủy quyển, sinh quyển và thạch quyển cả ở thời
điểm hiện tại và tương lai do tác động của tự nhiên và con người trong
một khoảng thời gian nhất định, khoảng thời gian này có thể được tính


bằng thấp kỉ hoặc thế kỉ. Tổng cục biển và hải đảo Việt Nam đưa ra định
nghĩa khác như sau Biến đổi khí hậu là một sự thay đổi của thời tiết thông
thường xảy ra ở một nơi nào đó. Nó có thể là biến đổi lượng mưa trong
một năm hoặc có thể là biến đổi nhiệt độ trong một tháng hoặc trong một
mùa. Bên cạnh đó thì Trung tâm nghiên cứu phát triển nông lâm nghiệp
miền núi: Biến đổi khí hậu là sự biển đổi về trạng thái của hệ thống khí
hậu, có thể được nhận biết qua sự biến đổi trung bình và sự biến động của
các thuộc tính của nó, được duy trì trong một thời gian đủ dài, điển hình
là một thập kỷ hoặc dài hơn.
1.2.
Các nguyên nhân chính của biến đổi khí hậu
Nguyên nhân của biến đổi khí hậu có thể do nguyên nhân tự nhiên hoặc
nguyên nhân nhân tạo gây ra.
Xét khía cạnh nguyên nhân tự nhiên thì biến đổi khí hậu có thể do một số
nguyên nhân như do sự biến đổi trong phân bố lục địa – biển của bề mặt
Trái Đất. Bề mặt Trái Đất có thể bị biến dạng qua các thời kỳ địa chất do
sự trôi dạt lục địa, các quá trình vận động tạo sơn, sự phun trào núi lửa…
Sự biến dạng này sẽ làm thay đổi phân bố lục địa – biển dẫn đến sự biến
đổi trong phân bố bức xạ mặt trời nhận được , trong cân bằng bức xạ và
cân bằng nhiệt của mặt đất và trong hoàn lưu chung khí quyển, đại
dương. Cũng có thể do sự biến đổi của các tham số quỹ đạo Trái Đất. Trái
Đất quay xung quanh mặt trời theo quỹ đạo elip phụ thuộc và 3 tham số
là độ lệch tâm, độ nghiêng của trục quay và tiến động. Những biến đổi
của các tham số này sẽ làm biến đổi lượng bức xạ mặt trời cung cấp cho
hệ thống khí hậu và hậu quả là làm khí hậu Trái Đất biến đổi. Trong khi
đó thì quá trình băng hà và không băng hà cũng góp phần gây nên biến
đổi khí hậu. Sự biến đổi trong tính chất phát xạ của mặt trời và hấp thụ
3



bức xạ của Trái Đất. Mặt trời là nguồn cung cấp năng lượng duy nhất cho
Trái đất. Nguồn năng lượng này cũng biến thiên theo thời gian. Từ khi
Trái đất hình thành đến nay, độ chói của mặt trời tăng khoảng 30%. Sự
phát xạ của mặt trời có thời điểm bị yếu đi tạo ra băng hà và có những
thời kỳ hoạt động mạnh gây ra khí hậu khố, nóng trên Trái đất. Biến đổi
tự nhiên của khí hậu có thể nhận thấy qua các thời kỳ băng hà, gian băng
tương ứng với những thời kỳ khí hậu lạnh giá và khí hậu ấm áp của Trái
đất.
Chúng ta không thể phụ nhận rằng nguyên nhân chính gây nên biến đổi
khí hậu là do các hoạt động của con người hay còn gọi là những nguyên
nhân nhân tạo. Đầu tiên là do các hoạt động kinh tế - xã hội của con
người như đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, sản xuất vật liệu kim loại, các
phương tiện giao thông vận tải gây phát thải các khí gây hiệu ứng nhà
kính như CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs, SF6. Khoảng 20% CO2 toàn cầu
sinh ra từ khí thải của các phương tiện giao thông vận tải, hoạt động sản
xuất nông lâm ngư nghiệp.
Trong trồng trọt, con người đã khai thác, chặt phá rừng để sản xuất nông
nghiệp làm mất nơi cư trú và suy giảm đa dạng sinh học. Con người sử
dụng quá nhiều thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật và phân bón đã làm ô
nhiễm nguồn nước, thoái hóa đất, gia tăng phát thải khí N2O. Trong chăn
nuôi, chất thải trong chăn nuôi làm ô nhiễm môi trường, giải phóng vào
bầu khí quyển khí CH4. Bên cạnh đó chăn nuôi còn làm xói mòn, giảm
đa dạng sinh học rừng, phá hủy lớp phủ thực vật. Trong thủy sản, thức ăn
thừa và các chất thải của động vật thủy sản làm ô nhiễm nguồn nước dẫn
đến phá hủy hệ sinh thái tự nhiên. Chất thải từ các nhà máy thức ăn thủy
sản, nhà máy chế biến thủy sản là tác nhân lớn gây ô nhiễm môi trường.
Mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản không theo quy hoạch có thể gây
mất các hệ thống rừng ngập nước tự nhiên.Trong khi đó con người hiện
đang khai thác, chặt phá rừng một cách bừa bãi. Việc đốt rừng làm
nương, rẫy làm nơi ở đã và đang diễn ra với nhiều vùng có trình độ dân

trí chưa cao. Các hoạt động này làm suy giảm nghiêm trọng đến quá trình
tích trữ cacbon.
1.3.
Tình hình biến đổi khí hậu trong những năm qua trên toàn cầu
Tình hình biến đối khí hậu trong những năm qua trên toàn cầu ngày càng
biểu hiện rõ. Hiện tượng băng tan ở hai cực Greeland. Trong những năm
gần đây vùng biển Bắc Cực nóng lên nhanh gấp 2 lần mức nóng trung
bình trên toàn cầu, diện tích của biển Bắc Cực được bao phủ bởi băng
trong mỗi mùa hè đang dần thu hẹp lại. Chúng ta có thể thấy rõ ràng nhất
4


là nền nhiệt độ liên tục thay đổi, nhiệt độ trung bình mỗi năm của thập
niên 90 cao hơn nhiệt độ trung bình của thập niên 80. Bước sang thế kỷ
XXI, mỗi một năm nhiệt độ trung bình lại tăng, 10 năm đầu đã có sự gia
tăng nhiệt độ lớn với sức nóng kỉ lục của Trái đất. Nhiệt độ trung bình
toàn cầu tính trên mật đất và mặt biển đã tăng khoảng 0,74 độ C. Trong
thế kỷ 20, nhiệt độ có xu hướng tăng rõ rệt , tốc độ của xu thế biến đổi
nhiệt độc ả thế kỷ là 0,75 độ C, nhanh hơn bất kỳ thế kỉ năm trong lịch
sử, kể từ thế kỷ 11 đến nay. Vào 5 thập kỷ gần đây 1956 – 2005, nhiệt độ
tăng khoảng 0,64 độ C, gấp đôi thế kỷ 20. Điều đó chứng minh su thế
biến đổi nhiệt độ ngày càng nhanh hơn. Giai đoạn 1995 – 2006 có 11 năm
(trừ 1996) được xếp vào danh sách 12 năm nhiệt độ cao nhất trong lịch sử
quan trắc nhiệt độ kể từ năm 1850, nóng nhất là năm 1998 và 2005. %
năm 2001 – 2005 có nhiệt độ trung bình cao hơn 0,44 độ C so với chuẩn
trung bình của thời kỳ 1961 – 1990. Đáng chú ý là mức tăng nhiệt độ của
Bắc Cực gấp 2 lần mức tăng nhiệt của toàn cầu.
Vài năm trở lại đây, nồng độ carbon dioxide trong khí quyển đang tăng
lên. Theo phân tích các bong bóng ở Nam Cực và Greenland, trong
650.000 năm qua, nồng độ khí carbon dioxide (CO2) dao động từ 180 –

300 ppm (đơn vị đo lường để diễn đạt nồng độ theo khối lượng, tính theo
phần triệu). Xu thế lượng mưa cũng có những biến đổi khác nhau giữa
các khu vực trên và giữa các giai đoạn các nhau trên các khu vực. Ví dụ ở
Bắc Mỹ lượng mưa tăng lên ở nhiều nơi nhất là Bắc Canada nhưng lại
giảm đi ở Tây Nam nước Mỹ, Đông Bắc Mexico với tốc độ khoảng 2%
mỗi thập kỷ, gây ra hạn hạn trong nhiều năm gần đây. Trên phạm vi toàn
cầu lượng mưa tăng lên ở các đới phía Bắc vĩ độ 30 độ N thời kỳ 1901 –
2005 và giảm đi ở các vĩ độ nhiệt đới kể từ thập kỷ 1990. Tần số mưa lớn
tăng lên nhiều nơi kể cả những nơi có lượng mưa giảm. Bên cạnh đó thì
hạn hán cũng có xu thế phổ biến từ giữa thập kỷ 1950 trên phần lớn vùng
Bắc Phi và ở bán cầu Nam có biểu hiện rõ rệt trong những năm 1974 –
1998. Ở miền Tây nước Mỹ, mặc dù lượng mưa có xu thế tăng trong
nhiều thập kỷ gần đây nhưng hạn nặng xảy ra từ năm 1999 đến cuối năm
2004.
Dòng chảy các sông đều có những biến đổi sâu sắc từ thập kỷ này sang
thập kỷ khác và giữa những năm trong từng thập kỷ. Dòng chảy tăng lên
trên nhiều sông thuộc Mỹ song lại giảm đi nhiều ở lưu vực sông thuộc
Canada trong 30 – 50 năm gần đây. Ở lưu vực sông Hoàng Hà, dòng chảy
giảm đi trong những năm cuối thế kỉ 20 do lượng nước tiêu thụ tăng lên,
nhiệt độ và lượng nước bốc hơi tăng lên khi lượng mưa không có xu thế
5


tăng hay giảm. Ở châu Phi, dòng chảy các sông ở Senegal và Dambia đều
sa sút đi.
1.4.
Tình hình biến đổi khí hậu những năm qua ở Việt Nam
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia đang phải chịu
những hậu quả nghiêm trọng nhất của biến đổi khí hậu. Theo đánh giá
hàng năm về những nước chịu ảnh hưởng nặng nhất bởi các hiện tượng

cực đoan giai đoạn 1997 – 2016 thì Việt Nam là nước đứng thứ 5 về Chỉ
số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2018 và thứ 8 về Chỉ số rủi ro dài hạn. Việt
Nam đã chứng kiến những thảm họa nghiêm trọng: bão lụt, lũ quét và hạn
hán, trong khi những tranh luận về biến đổi khí hậu vẫn đang diễn ra gay
gắt.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009) thì nhiệt độ trung bình ở nước
ta trong 50 năm qua (1951-2000) đã tăng khoảng 0,7 độ C.Nhiệt độn trung
bình tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện tại cao hơn 0,5-1,0 độ
C so với nhiệt độ trung bình của các năm trước. Nhiệt độ tháng cao nhất
tăng từ 27,1 độ C trong giai đoạn 1901-1930 lên 27,5 độ C trong giai đoạn
1991-2015. Mặc dù vậy, miền Bắc nước ta lại phải trải qua nhiều đợt rét
đậm, rét hại kéo dài. Biểu hiện có thể được thấy rõ nhất là số cơn bão có
cường độ và sức tàn phá lớn trở nên nhiều hơn. Trung bình mỗi năm nước
ta phải chịu từ 7-10 trận bão và áp thấp nhiệt đới. Năm 2017 được coi là
năm kỷ lục về thảm họa thiên tai của nước ta với hơn 16 cơn bão, lũ lịch
sử. Có sự thay đổi trong tần suất xuất hiện các cơn bão và áp thấp nhiệt
đới ngày càng rõ rệt. Có năm xảy ra tới 18 – 19 cơn lốc và áp thấp nhiệt
đới những cũng có năm chỉ xảy ra từ 4 – 6 cơn lốc và áo thấp nhiệt đới
trên biển Đông. Số cơn bão với sức gió đạt cấp 12 trở lên đã tăng từ năm
1990 đến 2015. Lượng mưa trên từng địa điểm và xu thế biến đổi của
lượng mưa trong 9 thập kỷ qua (1911- 2000) không rõ rệt, xu thế biến đổi
lượng mưa cũng rất khác nhau tại các khu vực, vùng miền. Lượng mưa
tháng cao nhất tăng từ 270mm trong giai đoạn 1901 – 1930 lên 281mm
trong giai đoạn 1991-2015. Theo phân tích, những biến đổi trong nguồn
nước (lượng mưa, mực nước sông) trong năm 2018 cũng tăng so với trung
bình năm 2017. Năm 2018 cũng là năm ghi nhận con số kỉ lục về nhiệt độ
trong 46 năm qua tại Hà Nội với nhiệt độ cao nhất ghi nhận được có lúc
đạt tới 42 độ C. Nước biển dâng cũng là một hiện tượng điển hình của
BĐKH ở Việt Nam. Số liệu của trạm quốc gia Hòn Dấu ghi nhận được
trong vòng 50 năm mực nước biển dâng khoảng 20cm. Mực nước biển

quan trắc tại các trạm hải văn đạt 2,45mm/năm và 3,34mm/năm tương ứng
trong giai đoạn 1960 – 2014 và 1993 – 2014. Dữ liệu vệ tinh cho thấy
6


2.

mực nước biển đã tăng lên 3,5mm/năm vào năm 2014 so với năm 1993.
Trong những năm gần đây, hạn hán ở nước ta cũng có xu hướng mở rộng
ở hầu hết các vùng, dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc hóa. Hiện
tượng El-Nino và La-Nina diễn ra gây ảnh hưởng nghiêm trọng hơn ở các
vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu
Những tác động nghiêm trọng

2.1.

2.1.1. Tác động của nước biển dâng

Việt Nam có bờ biển dài 3.260km, hơn một triệu km2 lãnh hải và trên
3.000 hòn đảo gần bờ và hai quần đảo xa bờ, nhiều vùng đất thấp ven
biển, trong đó có trên 80% diện tích đồng bằng sông Cửu Long và trên
30% diện tích đồng bằng sông Hồng – Thái Bình có độ cao dưới 2,5m so
với mặt biển. Những vùng này hàng năm phải chịu ngập lụt nặng nề trong
mùa mưa và hạn hán, xâm nhập mặn trong mùa khô. Biến đổi khí hậu và
nước biển dâng có thể làm trầm trọng thêm tình trạng nói trên, làm tăng
diện tích ngập lụt, gây khó khăn cho thoát nước, tăng xói lở bờ biển và
nhiễm mặn nguồn nước ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nước
sinh hoạt, gây rủi ro lớn đến các công trình xây dựng ven biển như đê
biển, đường giao thông, bến cảng, các nhà máy, các đô thị và khu vực dân

cư ven biển.
Mực nước biển dâng và nhiệt độ nước biển tăng làm ảnh hưởng đến các
hệ sinh thái biển và ven biển, gây nguy cơ đối với các rạn san hô và rừng
ngập mặn, ảnh hưởng xấu đến nền tảng sinh học cho các hoạt động khai
thác và nuôi trồng thuỷ sản ven biển. Tất cả những điều trên đây đòi hỏi
phải có đầu tư rất lớn để xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, nhằm
ứng phó với mực nước biển dâng, phát triển hạ tầng kỹ thuật, di dời và
xây dựng các khu dân cư và đô thị có khả năng thích ứng cao với nước
biển dâng.
2.1.2. Tác động của sự nóng lên toàn cầu

Nhiệt độ tăng lên ảnh hưởng đến các hệ sinh thái tự nhiên, làm dịch
chuyển các ranh giới nhiệt của các hệ sinh thái lục địa và hệ sinh thái
nước ngọt, làm thay đổi cơ cấu các loài thực vật và động vật ở một số
vùng, một số loài có nguồn gốc ôn đới và á nhiệt đới có thể bị mất đi dẫn
đến suy giảm tính đa dạng sinh học.
Đối với sản xuất nông nghiệp, cơ cấu cây trồng vật nuôi và mùa vụ có thể
thay đổi ở một số vùng, trong đó vụ đông ở miền Bắc có thể bị rút ngắn
7


lại, thậm chí không có vụ đông, vụ mùa thì kéo dài hơn. Điều đó đòi hỏi
phải thay đổi kỹ thuật canh tác. Nhiệt độ tăng và tính biến động của nhiệt
độ lớn hơn, kể cả các nhiệt độ cực đại và cực tiểu, cùng với biến đổi của
các yếu tố thời tiết khác và thiên tai làm tăng khả năng phát triển sâu
bệnh, dịch bệnh, dẫn đến giảm năng suất và sản lượng, tăng nguy cơ rủi
ro đối với nông nghiệp và an ninh lương thực.
Nhiệt độ và độ ẩm tăng cao làm gia tăng làm gia tăng sức ép về nhiệt độ
với cơ thể con người, nhất là người già và trẻ em, làm tăng bệnh tật, đặc
biệt là các bệnh nhiệt đới, bệnh truyền nhiễm thông qua sự phát triển của

các loài vi khuẩn, các côn trùng và vật mang bệnh, chế độ dinh dưỡng và
vệ sinh môi trường suy giảm.
Sự gia tăng nhiệt độ còn ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác như năng
lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng, du lịch, thương mại,...
liên quan đến chi phí gia tăng cho việc làm mát, thông gió, bảo quản thiết
bị, phương tiện, sức bền vật liệu.
2.1.3. Tác động của các hiện tượng thời tiết cực đoan

Sự gia tăng của các hiện tượng thời tiết cực đoan và thiên tai, cả về tần số
và cường độ do biến đổi khí hậu là mối đe doạ thường xuyên, trước mắt
và lâu dài đối với tất cả các lĩnh vực, các vùng và các cộng đồng. Bão, lũ
lụt, hạn hán, mưa lớn, nắng nóng, tố, lốc là thiên tai xảy ra hàng năm ở
nhiều vùng trong cả nước, gây thiệt hại cho sản xuất và đời sốn
BĐKH sẽ làm cho các thiên tai nói trên trở nên khốc liệt hơn và có thể trở
thành thảm hoạ, gây rủi ro lớn cho phát triển kinh tế - xã hội hoặc xoá đi
những thành quả nhiều năm của sự phát triển. Những khu vực được dự
tính chịu tác động lớn nhất của các hiện tượng khí hậu cực đoan nói trên
là dải ven biển Trung Bộ, vùng núi Bắc và Bắc Trung Bộ, vùng đồng
bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Dự báo tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh
vực và khu vực

2.2.

2.2.1. Tác động đối với tài nguyên nước

Tài nguyên nước đang đứng trước nguy cơ suy giảm do hạn hán ngày một
tăng ở một số vùng, miền. Khó khăn này sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp,
cung cấp nước ở nông thôn, thành thị và sản xuất điện.
Việt Nam nằm ở hạ lưu hai sông liên quốc gia lớn là sông Hồng và sông

Cửu Long. So với hiện nay, năm 2070, dòng chảy năm của sông Hồng
8


biến đổi từ +5,8 đến -19% và của sông Mê Kông từ +4,2 đến -14,5%;
dòng chảy mùa cạn của sông Hồng biến đổi từ -10,3 đến -14,5%, của
sông Mê Kông từ -2,0 đến -24%; dòng chảy lũ biến động tương ứng là
+12 đến -5,0% và +5 đến +7,0%.
Như vậy, trên cả 2 sông lớn, tác động của biến đổi khí hậu làm cho dòng
chảy năm của sông Hồng và sông Cửu Long giảm đi. Điều đó có nghĩa là
khả năng lũ trong mùa mưa và cạn kiệt trong mùa khô đều trở nên khắc
nghiệt hơn (chưa tính đến khả năng khai thác nước ở thượng nguồn các
sông này tăng lên do biến đổi khí hậu).
2.2.2. Tác động đối với nông nghiệp và an ninh lương thực

BĐKH có tác động đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo
trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng. Biến đổi khí hậu
ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả
năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm. Ngành nông nghiệp đối
mặt với nhu cầu lớn về phát triển giống cây trồng và vật nuôi nhằm giảm
thiểu rủi ro do biến đổi khí hậu và các hiện tượng khí hậu cực đoan.
Vì sự nóng lên trên phạm vi toàn lãnh thổ, thời gian thích nghi của cây
trồng nhiệt đới mở rộng và của cây trồng á nhiệt đới bị thu hẹp lại. Ranh
giới của cây trồng nhiệt đới dịch chuyển về phía núi cao hơn và các vĩ độ
phía Bắc. Phạm vi thích nghi của cây trồng nhiệt đới dịch chuyển về phía
núi cao và các vĩ độ phía Bắc. Phạm vi thích nghi của các cây trồng á
nhiệt đới bị thu hẹp lại.
Vào những năm 2070, cây á nhiệt đới ở vùng núi chỉ có thể sinh trưởng ở
những độ cao trên 100 – 500m và lùi xa hơn về phía Bắc 100 – 200km so
với hiện nay.

Biến đổi khí hậu có khả năng làm tăng tần số, cường độ, tính biến động
và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như bão, tố, lốc,
các thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mùa như thời tiết khô nóng, lũ,
ngập úng hay hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn, sâu bệnh, làm giảm năng
suất và sản lượng cây trồng vật nuôi.
Biến đổi khí hậu gây nguy cơ thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Một
phần đáng kể diện tích đất nông nghiệp ở vùng đất thấp đồng bằng ven
biển, đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long bị ngập mặn do nước biển
dâng, nếu không có biện pháp ứng phó thích hợp.
2.2.3. Tác động đối với lâm nghiệp

9


Nước biển dâng lên làm giảm diện tích rừng ngập mặn hiện có, tác động
xấu đến rừng tràm và rừng trồng trên đất bị ô nhiễm phèn ở các tỉnh Nam
Bộ. Ranh giới rừng nguyên sinh cũng như rừng thứ sinh có thể chuyển
dịch. Rừng cây họ dầu mở rộng lên phía Bắc và các dải cao hơn, rừng
rụng lá với nhiều cây chịu hạn phát triển mạnh.
Nhiệt độ cao kết hợp với ánh sáng mặt trời dồi dào thúc đẩy quá trình
quang hợp dẫn đến tăng cường quá trình đồng hoá cây xanh. Tuy vậy, chỉ
số tăng trưởng sinh khối của cây rừng có thể giảm do độ ẩm giảm.Việc
này dẫn đến nguy cơ diệt chủng của động vật và thực vật gia tăng, một số
loài thực vật quan trọng như trầm hương, hoàng đàn, pơmu, gỗ đỏ, lát
hoa, gụ mật,… có thể bị suy kiệt. Ngoài ra nhiệt độ cao và mức độ khô
hạn gia tăng làm tăng nguy cơ cháy rừng, phát triển dịch bệnh, sâu bệnh,

2.2.4. Tác động đối với thuỷ sản

Hiện tượng nước biển dâng và ngập mặn gia tăng dẫn đến việc nước mặn

lấn sâu vào nội địa, làm mất nơi sinh sống thích hợp của một số loài thuỷ
sản nước ngọt.Rừng ngập mặn hiện có bị thu hẹp, ảnh hưởng đến hệ sinh
thái của một số loài thuỷ sản.Khả năng cố định chất hữu cơ của hệ sinh
thái rong biển giảm, dẫn đến giảm nguồn cung cấp sản phẩm quang hợp
và chất dinh dưỡng cho sinh vật đáy. Do vậy, chất lượng môi trường sống
của nhiều loại thuỷ sản xấu đi.
Nếu nhiệt độ tăng thì sẽ gây ra hiện tượng phân tầng nhiệt độ rõ rệt trong
thuỷ vực nước đứng, ảnh hưởng đến quá trình sinh sống của sinh vật.Quá
trình quang hoá và phân huỷ các chất hữu cơ nhanh hơn, ảnh hưởng đến
nguồn thức ăn của sinh vật. Các sinh vật tiêu tốn nhiều năng lượng hơn
cho quá trình hô hấp cũng như các hoạt động sống khác làm giảm năng
suất và chất lượng thuỷ sản.Suy thoái và phá huỷ rạn san hô, thay đổi các
quá trình sinh lý, sinh hoá diễn ra trong mối quan hệ cộng sinh giữa san
hô và tảo.Cường độ và lượng mưa lớn làm cho nồng độ muối giảm đi
trong một thời gian dài dẫn đến sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt là
nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò,…) bị chết hàng loạt do không chống
chịu nổi với nồng độ muối thay đổi.
Việc nước biển dâng làm cho chế độ thuỷ lý, thuỷ hoá và thuỷ sinh xấu
đi. Kết quả là quần xã hiệu hữu thay đổi cấu trúc và thành phần, trữ lượng
giảm sút.
Nhiệt độ tăng làm cho nguồn lợi thuỷ hải sản bị phân tán. Các loại cá cận
nhiệt đới có giá trị kinh tế cao bị giảm bớt hoặc mất đi, các rạn san hô đa
phần bị tiêu diệt.Các loài thực vật nổi, mắt xích đầu tiên của chuỗi thức
10


ăn cho động vật nổi bị huỷ diệt, làm giảm mạnh động vật nổi, do đó làm
giảm nguồn thức ăn chủ yếu của các động vật tầng giữa và tầng trên.
2.2.5. Tác động đối với năng lượng


Nước biển dâng gây ảnh hưởng tới hoạt động của các giàn khoan được
xây dựng trên biển, hệ thống dẫn khí và các nhà máy điện chạy khí được
xây dựng ven biển, làm tăng chi phí bảo dưỡng, duy tu, vận hành máy
móc, phương tiện…Các trạm phân phối điện trên các vùng ven biển phải
tăng thêm năng lượng tiêu hao cho bơm tiêu nước ở các vùng thấp ven
biển. Mặt khác, dòng chảy các sông lớn có công trình thuỷ điện cũng chịu
ảnh hưởng đáng kể.
Nhiệt độ tăng cũng làm tăng chi phí thông gió, làm mát hầm lò khai thác
và làm giảm hiệu suất, sản lượng của các nhà máy điện. Lượng điện tiêu
thụ cho sinh hoạt gia tăng và chi phí làm mát trong các ngành công
nghiệp, giao thông, thương mại và các lĩnh vực khác cũng gia tăng đáng
kể. Ngoài ra, nhiệt độ tăng kèm theo lượng bốc hơi tăng kết hợp với sự
thất thường trong chế độ mưa dẫn đến thay đổi lượng nước dự trữ và lưu
lượng vào các hồ thuỷ điện.
BĐKH theo hướng gia tăng cường độ mưa và lượng mưa bão cũng ảnh
hưởng, trước hết đến hệ thống giàn khoan ngoài khơi, hệ thống vận
chuyển dầu và khí vào bờ, hệ thống truyền tải và phân phối điện,…

2.2.6. Tác động đối với giao thông vận tải:

Biến đổi khí hậu có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến giao thông vận tải, một
ngành tiêu thụ nhiều năng lượng và phát thải khí nhà kính không ngừng
tăng lên trong tương lai nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc kiểm soát và hạn chế
tốc độ tăng phát thải khí nhà kính đòi hỏi ngành phải đổi mới và áp dụng
các công nghệ ít chất thải và công nghệ sạch dẫn đến tăng chi phí lớn.
Để ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và các thiên tai gia tăng,
ngành giao thông vận tải cần quy hoạch, thiết kế lại hệ thống hạ tầng kỹ
thuật giao thông trên đất liền, trên biển và ven biển, các bến cảng, kho
bãi, luồng lạch, giao thông thuỷ nội địa, nhất là ở các vùng đồng bằng ven

biển và miền núi. Xây dựng các tiêu chuẩn, quy phạm kỹ thuật phù hợp
với biến đổi khí hậu.

11


Nhiệt độ tăng làm tiêu hao năng lượng của các động cơ, trong đó có các
yêu cầu làm mát, thông gió trong các phương tiện giao thông cũng góp
phần tăng chi phí trong ngành giao thông vận tải.
2.2.7. Tác động đối với công nghiệp và xây dựng

Công nghiệp là ngành kinh kế quan trọng, phát triển nhanh trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các khu công nghiệp là các cơ sở
kinh tế quan trọng của đất nước đang và sẽ được xây dựng nhiều ở vùng
đồng bằng phải đối diện nhiều hơn với nguy cơ ngập lụt và thách thức
trong thoát nước do nước lũ từ sông và tăng mực nước biển. Vấn đề này
đòi hỏi các đánh giá và tăng đầu tư lớn trong xây dựng các khu công
nghiệp và đô thị, các hệ thống đê biển, đê sông để bảo vệ hệ thống tiêu
thoát nước, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro, đặc biệt những
khu công nghiệp có rác thải và hoá chất độc hại được xây dựng trên vùng
đất thấp.
Biến đổi khí hậu làm tăng khó khăn trong việc cung cấp nước và nguyên
vật liệu cho các ngành công nghiệp và xây dựng như dệt may, chế tạo,
khai thác và chế biến khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, xây dựng
công nghiệp và dân dụng, công nghệ hạt nhân, thông tin, truyền thông,
v.v... Các điều kiện khí hậu cực đoan gia tăng cùng với thiên tai làm cho
tuổi thọ của vật liệu, linh kiện, máy móc, thiết bị và các công trình giảm
đi, đòi hỏi những chi phí tăng lên để khắc phục.
Biến đổi khí hậu còn đòi hỏi các ngành này phải xem xét lại các quy
hoạch, các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành nhằm thích ứng với biến

đổi khí hậu.
2.2.8. Tác động đối với sức khỏe con người

Nhiệt độ tăng làm tăng tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người, dẫn
đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc bệnh tim mạch,
bệnh thần kinh. Tình trạng nóng lên làm thay đổi cấu trúc mùa nhiệt hàng
năm. Ở miền Bắc, mùa đông sẽ ấm lên, dẫn tới thay đổi đặc tính trong
nhịp sinh học của con người.
Biến đổi khí hậu làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới: sốt rét,
sốt xuất huyết, làm tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi
khuẩn và côn trùng, vật chủ mang bệnh, làm tăng số lượng người bị bệnh
nhiễm khuẩn dễ lây lan…
Thiên tai như bão, tố, nước dâng, ngập lụt, hạn hán, mưa lớn và sạt lở đất
v.v… gia tăng về cường độ và tần số làm tăng số người bị thiệt mạng và
12


ảnh hưởng gián tiếp đến sức khoẻ thông qua ô nhiễm môi trường, suy
dinh dưỡng, bệnh tật do những đổ vỡ của kế hoạch dân số, kinh tế - xã
hội, cơ hội việc làm và thu nhập. Những đối tượng dễ bị tổn thương nhất
là những nông dân nghèo, các dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, trẻ
em và phụ nữ.
2.2.9. Tác động đến văn hoá, thể thao, du lịch, thương mại và dịch vụ
BĐKH có tác động trực tiếp đến các hoạt động văn hoá, thể thao, du lịch,
thương mại và dịch vụ, có ảnh hưởng gián tiếp thông qua các tác động
tiêu cực đến các lĩnh vực khác như giao thông vận tải, xây dựng, nông
nghiệp, sức khoẻ cộng đồng… Nước biển dâng ảnh hưởng đến các bãi
tắm ven biển, một số bãi có thể mất đi, một số khác bị đẩy sâu vào đất
liền, ảnh hưởng đến việc khai thác, làm tổn hại đến các công trình di sản
văn hoá, lịch sử, các khu bảo tồn, các khu du lịch sinh thái, các sân golf ở

vùng thấp ven biển và các công trình hạ tầng liên quan khác có thể bị
ngập, di chuyển hay ngừng trệ làm gia tăng chi phí cho việc cải tạo, di
chuyển và bảo dưỡng.
Nhiệt độ tăng và sự rút ngắn mùa lạnh làm giảm tính hấp dẫn của các khu
du lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng trên núi cao, trong khi mùa du lịch mùa hè
có thể kéo dài thêm.
3.

Biện pháp giảm thiểu, đối phó với biến đổi khí hậu
3.1.
Biện pháp hiện nay và xu thế tương lai
3.1.1. Biện pháp hiện nay
Tại Việt Nam, để giảm thiểu biến đổi khí hậu Chính phủ và Nhà nước đã
đề ra và áp dụng một số biện pháp như:
Cải tạo nâng cấp hạ tầng: Các chuyên gia nhận định rằng, cơ sở hạ tầng
chiếm gần ⅓ lượng phát tán khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên trái đất.
Do đó, việc cải tạo cơ sở hạ tầng thân thiện với môi trường sẽ giúp cải
thiện tình trạng biến đổi khí hậu. Ngoài ra, hệ thống giao thông thuận lợi
cũng sẽ góp một phần nhỏ trong việc giảm tải lượng khí thải do xe cộ thải
ra môi trường. Các khu công nghiệp cần quy hoạch khoa học, xử lý khí
thải để giảm lượng ô nhiễm môi trường.
Hạn chế sử dụng nguyên liệu hóa thạch: Sử dụng nhiên liệu hóa thạch
như than, dầu, khí thiên nhiên… Đang gây ra hiệu ứng nhà kính rất lớn.
Chính vì vậy, để khắc phục biến đổi khí hậu cần phải tìm ra giải pháp an
toàn. Hoặc sử dụng các nguồn nhiên liệu thay thế an toàn như nhiên liệu
sinh học,…
13


Giảm chi tiêu: Sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than, dầu, khí thiên

nhiên… Đang gây ra hiệu ứng nhà kính rất lớn. Chính vì vậy, để khắc
phục biến đổi khí hậu cần phải tìm ra giải pháp an toàn. Hoặc sử dụng các
nguồn nhiên liệu thay thế an toàn như nhiên liệu sinh học,…
Bảo vệ tài nguyên rừng: Hiện nay, nạn chặt phá rừng đang ngày càng gia
tăng không chỉ ở nước ta mà còn trên thế giới. Do đó, việc ngăn chặn tình
trạng chặt phá rừng sẽ giúp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Thêm nữa,
chúng ta cần phải nâng cao ý thức, trồng cây xanh; Không xả rác thải ra
môi trường để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên quý giá này.
Tiết kiệm điện, nước: Tiết kiệm điện sẽ giúp giảm sự ô nhiễm môi trường
khá hiệu quả. Người dân có thể sử dụng các thiết bị điện tiết kiệm, tắt khi
không sử dụng. Thêm nữa, nguồn nước không phải là tài nguyên vô tận.
Chúng ta cần phải sử dụng tiết kiệm nguồn nước để không làm suy kiệt
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
3.1.2. Xu thế trong tương lai:
Trước sự biến đổi khôn lường của biến đổi khí hậu, xu thế tất yếu cần có
hiện nay chính là thích ứng được với những hệ quả mà biến đổi khí hậu
gây ra. Và để chủ động thích ứng, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một số
yêu cầu khẩn cấp đối với các cấp chính quyền.
Cảnh báo sớm và sát sao trong công tác phòng chống thiên tai để giảm
thiệt hại do thiên tai gây ra. Đảm bảo cho nhân dân về mặt an ninh lương
thực và tài nguyên nước, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới, an sinh xã
hội, sức khỏe cộng đồng, nâng cao đời sống của nhân dân. Tích cực ứng
phó với tình trạng nước biển dâng tại các tỉnh ven biển, đặc biệt là những
vùng dễ bị tổn thương.
Giảm nhẹ khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính. Đây là một trong những
mục tiêu hàng đầu không chỉ riêng Việt Nam mà còn cả các quốc gia khác
trên thế giới bởi hiệu ứng nhà kính là một trong những nguyên nhân
chính gây nên biến đổi khí hậu. Bằng cách bảo vệ, phát triển bền vững tài
nguyên rừng, tăng cường hấp thụ khí nhà kính và bảo tồn đa dạng sinh
học, phát triển nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới; sử dụng tiết

kiệm, hiệu quả các nguồn năng lượng; quản lý chất thải các ngành nông
nghiệp và công nghiệp Việt Nam hi vọng có thể chung tay góp phần giảm
thiểu hệ quả của hiệu ứng nhà kính. Lấy tăng trưởng xanh làm xu thế chủ
đạo, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực ứng phó với biến đổi
khí hậu; tận dụng các cơ hội từ biến đổi khí hậu để phát triển kinh tế - xã
hội; phát triển và nhân rộng lối sống, mẫu hình tiêu thụ thân thiện với hệ
thống khí hậu. Góp phần tích cực với cộng đồng quốc tế trong ứng phó
14


với biến đổi khí hậu; tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế của Việt
Nam để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
3.2.
Các chính sách và hợp tác quốc tế
3.2.1. Các chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Theo ý kiến chuyên gia tại Bộ Tài nguyên và Môi trường, vấn đề biến đổi
khí hậu trong chính sách và pháp luật Việt Nam được tiếp cận theo cả hai
hướng: chính sách pháp luật chuyên về biến đổi khí hậu (bao gồm 3 trụ
cột: thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, liên
ngành) và bước đầu được lồng ghép trong chính sách pháp luật của một
số ngành, lĩnh vực có liên quan trực tiếp.
Kể từ năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã triển khai Chương trình mục
tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (NTP-RCC). Năm 2011,
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Năm 2012, Chiến lược quốc gia
về tăng trưởng xanh được phê duyệt, nhằm giảm phát thải khí nhà kính và
đề ra các giải pháp triển khai bao gồm ban hành các quy định liên quan
tới thị trường các-bon quốc tế. Năm 2013, Luật Phòng, chống thiên tai
được ban hành nhằm ứng phó với những thảm họa thiên nhiên tác động
tới đất nước, chủ yếu là những hiện tượng do biến đổi khí hậu. Luật Bảo
vệ Môi trường năm 2014 đưa ra một chương thảo luận về biến đổi khí

hậu. Những hành động mới nhất bao gồm phê duyệt Chương trình mục
tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016 –
2020; phê duyệt Chương trình quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính
thông qua hạn chế mất và suy thoái rừng; bảo tồn, nâng cao trữ lượng các
bon và quản lý bền vững tài nguyên rừng (REDD+) tới 2030; và công bố
Đóng góp dự kiến do Quốc gia tự quyết định của Việt Nam (INDC).Dự
thảo Nghị định quy định lộ trình và phương thức giảm nhẹ phát thải khí
nhà kính đã được đưa ra lấy ý kiến trong năm 2018.
3.2.2. Hợp tác quốc tế
Phối hợp với cộng đồng quốc tế trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu
là một trong bốn mục tiêu của Chiến lược quốc gia về biến đổi khí
hậu. Cùng với việc đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia phát triển như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Hà Lan và Mỹ, Việt Nam cũng tích cực phối
hợp với Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Liên hợp
quốc, và nhiều tổ chức quốc tế khác để đạt được những mục tiêu đề ra về
vấn đề biến đổi khí hậu.
Quỹ Khí hậu xanh và các tổ chức tương tự vẫn chưa dành tỷ lệ đáng kể
viện trợ cho Việt Nam, tuy nhiên theo UNDP, thực trạng này sẽ được cải

15


II.
1.

thiện trong bối cảnh các tổ chức song phương và đa phương đang điều
chỉnh trọng tâm trong chiến lược của họ.
Các mô hình giúp giảm thiểu biến đổi khí hậu trên thế giới và ở
Việt Nam
Mô hình ở Việt Nam

1.1.
Phân tích các mô hình thích ứng biến đổi khí hậu dựa trên hệ sinh
thái
1.1.1. Mô hình trồng trọt
Mục đích của mô hình là chọn tạo giống lúa để thích ứng với Biến đổi khí
hậu và an ninh lương thực. Mô hình trồng trọt tập trung nâng cao năng
lực cho nông dân về chọn giống, cải thiện giống lúa và sản xuất trao đổi
hạt giống phục vụ sản xuất ở cộng đồng bằng cách huấn luyện thiết lập
các tổ giống cộng đồng, tổ chức các mô hình trình diễn quy trình sản xuất
giống. Kỹ thuật canh tác tại ruộng nông dân.
Mô hình này được tiến hành từ năm 2006 với sự tài trợ của Dự án Bảo
tồn và phát triển đa dạng sinh học cộng đồng (CBDC). Dự án đã chi
khoảng 40 tỉ đồng để triển khai nghiên cứu cho các giống lúa thích ứng
biến đổi khí hậu,thực hiện tại vùng đồng bằng Sông Cửu Long, một số
vùng tại Đông Nam Bộ và Duyên hải NTB. Đặc biệt với ĐBSCL là một
trong những vùng sản xuất lúa trọng điểm của nước ta, do tác động xấu
của biến đổi khí hậu như thiên tai, thiếu nước, lưu lượng dòng chảy thấp
gây ngập mặn đã khiến sản lượng sản xuất lúa của ĐBSCL giảm đáng
kể.
Các giống lúa được nghiên cứu cho mô hình thích ứng trên ĐBSCL được
phân thành nhiều nhóm: giống lúa cực ngắn ngày, giống lúa chịu mặn,
giống lúa chịu hạn và giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng. Việc áp dụng
các giống lúa vào trồng tọt đã đem lại lợi ích đáng kể cho nông dân canh
tác trên khu vực này. Ta có thể kể đến các kết quả mà giống lúa nghiên
cứu mang lại như:
 Giống lúa ngập mặn đều có khả năng chịu mặn trong điều kiện nhân
tạo ở nồng độ muối 4‰- 6‰ (tương đương và cao hơn giống chuẩn
kháng quốc tế Pokkali), năng suất cao, phẩm chất gạo tốt đạt tiêu chuẩn
xuất khẩu,khả năng chịu khô hạn tốt .Trong thực tế sản xuất các giống
này cho năng suất cao hơn một số giống chịu mặn cũ đang được nông

dân trồng phổ biến trên vùng đất nhiễm mặn (OM2517, OM1490,
OM576) trung bình là 0,4 tấn/ha. Ví dụ như Giống lúa OM8017 có thân
rạ cứng, khả năng đẻ nhánh khỏe, năng suất: 7-9 tấn/ha. Tỷ lệ gạo
nguyên cao 51-53%, không bạc bụng, dài hạt, chất lượng gạo tốt, cơm
16


mềm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Hàm lượng amylose : 22%, hàm lượng
sắt trong gạo trắng: 6, 70- 6,90 mg/kg. Giống hơi kháng với rầu nâu(cấp
3-5) và đạo ôn (cấp 3-4) , chịu mặn 3-4 ‰, chịu phèn khá, thích hợp cho
các tiểu vùng sinh thái ở ĐBSCL.

(Mô hình thử nghiệm giống lúa OM 8017 tại ĐBSCL
 Nhóm giống lúa chịu hạn có khả năng chịu điều kiện khô hạn từ cấp 1cấp 3 (ở giai đoạn mạ và giai đoạn trổ), năng suất cao, phẩm chất gạo tốt
(đạt tiêu chuẩn xuất khẩu) và còn có khả năng chịu phèn mặn tốt. tiêu
biểu là OM6162 và OM7347 là giống lúa thơm, chất lượng cao, ngoài
khả năng chịu hạn tốt còn có khả năng chịu được phèn mặn. giống lúa
này được bà con áp dụng gieo trồng nhiều ( 160.000ha từ năm 20072012) trên vùng ĐBSLC và một số vùng ĐNB và NTB,đem lại năng suất
cao so với các giống cũ trung bình là 0,4-0,5tấn/ha, đem lại lợi nhuận
khoảng 400 tỷ đồng.

17


(Giống lúa OM6162 được trồng tại ĐBSCL)
 Bộ giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng gồm các giống lúa OM6976,
OM5451, OM5472, OM3995, OM6561 có TGST từ 85-110 ngày có có
hàm lượng sắt trong hạt gạo cao hơn các giống hiện nay đồng thời có
năng suất và chất lượng cao để phục vụ sản xuất lúa nói chung. Có thể
nói đến giống OM6976 – giống lúa được ưa chuộng vì cho năng suất rất

cao, thích nghi rộng và chịu mặn nên đã trở thành giống lúa chủ lực của
ĐBSCL. Tính từ năm 2007 đến năm 2012, tổng diện tích gieo trồng các
giống lúa trong bộ giống giàu vi chất dinh dưỡng đạt trên 1,57 triệu ha
(trong cả hai vụ đông xuân và hè thu) tại các tỉnh ĐBSCL, Đông Nam bộ
và Duyên hải Nam Trung bộ (theo số liệu xác nhận của Sở Nông nghiệp
và PTNT các tỉnh và Cty Giống Cây trồng Trung ương), năng suất tăng
hơn so với giống lúa cũ trung bình là 0,4 – 1,0 tấn/ha, đem lại lợi nhuận
khoảng 8.500 tỷ đồng cho người dân sản nuôi trồng.
1.1.2. Mô hình nuôi trồng kết hợp tôm – lúa

Theo các chuyên gia về nông nghiệp đánh giá, mô hình sản xuất tôm –
lúa là mô hình sản xuất thân thiện với môi trường trong bối cảnh tình
hình dịch bệnh trên tôm ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với tác động
bất lợi của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt như: xâm nhập mặn, hạn
hán, nước biển dâng, môi trường bị ô nhiễm. Từ mô hình này, người nông
dân tạo được nguồn lợi kinh tế chủ lực là tôm và lúa trên cùng diện tích
sản xuất với mức ổn định từ 60 đến 70 triệu đồng/ha/năm, giúp xóa đói
giảm nghèo nhanh, bền vững.Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
có nhiều chương trình thúc đẩy mô hình sản xuất nông nghiệp này, ở khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long phát triển. Theo đó, chương trình Khuyến
nông Quốc gia và các chương trình khuyến nông tại địa phương đã tổ
chức các lớp tập huấn hướng dẫn tiến bộ khoa học kỹ thuật nuôi tôm - lúa
và xây dựng các mô hình trình diễn, để người dân có điều kiện được tham
quan, học tập trao đổi kinh nghiệm sản xuất.

18


(Mô
trồng kết hợp

của hộ gia đình

hình nuôi
tôm-lúa
ĐBSCL)

Mô hình
đang được
áp dụng trên đồng bằng sông Cửu Long với mục tiêuđến năm 2020 sẽ
nâng diện tích mô hình nuôi tôm – lúa lên 200 nghìn ha, sản lượng đạt từ
100 nghìn đến 120 nghìn tấn. Ngoài ra năm 2011-2013, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn cũng đã phê duyệt dự án khuyến ngư “Phát triển
nuôi tôm lúa” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Trung tâm
Khuyến nông tỉnh Sóc Trăng thực hiện. Dự án được thực hiện với quy mô
4 tỉnh là: Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu và Sóc Trăng, với diện tích 190
ha và 190 hộ dân tham gia.
Mô hình này mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân như giảm chi phí
làm đất, giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật, tạo sản phẩm lúa và
tôm an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, mô hình nuôi
bền vững, thân thiện môi trường. Mô hình tôm lúa nuôi với mật độ thưa
nên tôm nhanh lớn, ít dịch bệnh, do cấy lúa cải tạo được đất đáy, tạo môi
trường tốt cho tôm phát triển. Lợi ích đạt được từ việc áp dụng mô hình
nuôi trồng kết hợp tôm- lúa rất đáng kể như đầu tư thấp, ít rủi ro hơn
phương pháp nuôi tôm thâm canh,bán thâm canh sẽ tạo nhiều cơ hội cho
người dân trong việc đầu tư nuôi trồng,mang lại hiệu quả sản phẩm
cao,nâng cao cạnh tranh trên thị trường. Từ năm 2000, thực hiện Nghị
quyết về chuyển đổi một số diện tích đất sản xuất lúa kém hiệu quả và các
vùng sản xuất lúa, đầm lầy đang phát triển nuôi tôm, các tỉnh khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long đã chuyển hơn 310 nghìn ha diện tích thực
hiện mô hình tôm - lúa; trung bình mỗi năm đạt sản lượng trên 150 nghìn

tấn tôm nuôi, trong đó các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Tiền
Giang, Sóc Trăng, Bến Tre có diện tích nuôi tôm lớn nhất trong khu vực.
19


Mô hình nhà nổi
Mô hình nhà nổi được áp dụng tại các vùng hay chịu thiên tai như bão,
ngập lụt,… cụ thể như ở các vùng miền Trung, mô hình này được một tổ
chức xã hội lập ra từ năm 2014 và kêu gọi đóng góp từ người dân trên
khắp cả nước để giúp người dân miền Trung vượt qua khó khăn trong
thiên tai.
Nhà nổi được thiết kế với kết cấu nhẹ, gồm tre, nứa, khung gỗ/sắt,.. kết
hợp thùng phuy phía dưới giúp ngôi nhà nổi lên theo mực nước dâng. Ưu
điểm mô hình này là khi nước ngập đến đâu thì nhà nổi lên đến đấy nên
không bị ảnh hưởng của lũ, lụt. Tuy nhiên mô hình có nhiều bất cập
trong quá trình sử dụng. Khi nước lớn thì nhà nổi, khi nước rút thì nhà
nằm trên mặt đất. Khi nhà nằm trên lớp phù sa dày do trọng lượng của
nhà không đều ở mọi vị trí nên nhà có thể bị nghiêng, lệch. Ngoài ra, đối
với những nơi có lớp phù sa dày thì khi khô sẽ tạo thành một lớp đất
cứng bao bọc, giữ chặt lấy nhà, do đó, khi chưa có lũ thì nhà bị nằm sâu
trong đất, khi lũ về thì nhà lại không tự nổi lên được. Mô hình nhà nổi
còn nhiều điểm chưa đáp ứng được lợi ích cho người dân vào mùa
bão,nhưng phần nào giúp người dân bớt lo lắng và thiệt hại hơn khi đối
phó với thiên tai này.
Ưu điểm của mô hình này là khi nước ngập đến đâu thì nhà nổi lên đến
đấy nên không bị ảnh hưởng của lũ lụt. Tuy nhiên mô hình có nhiều bất
cập trong quá trình sử dụng. Khi nước lớn thì nhà nổi, khi nước rút thì
nhà nằm trên mặt đất. Khi nhà nằm trên lớp phù sa dày do trọng lượng
của nhà không đều ở mọi vị trí nên nhà có thể bị nghiêng, lệch. Ngoài ra
đối với những nơi có phù sa dày thì khi khô sẽ tạo thành một lớp đất

cứng bao bọc, giữ chặt lấy nhà, do đó, khi chưa có lũ thì nhà nằm sâu
trong đất, khi lũ về nhà có thể không tự nổi lên được. Mô hình nhà nổi
còn nhiều điểm chưa đáp ứng được lợi ích cho người dân vào mùa bão,
nhưng phần nào giúp người dân bớt lo lắng và thiệt hại hơn khi đối phó
với thiên tai.
(Nhà chống lũ tại Quảng Bình)
1.1.3.

20


Mô hình thích ứng biến đổi khí hậu dựa trên cộng đồng
Mô hình 1: Mô hình trồng và chăm sóc rừng ngập mặn dựa vào
cộng đồng.
Địa điểm thực hiện mô hình này là tại rừng ngập mặn tại các tỉnh miền
núi phía Bắc. Do Hội chữ thập đỏ thực hiện.
Chương trình này đã góp phần phục hồi hơn 9.032 ha rừng ngập mặn ở
các tỉnh ven biển phía Bắc (khoảng 23,8 % diện tích rừng ngập mặn trên
toàn miền Bắc) sau hơn 15 năm triển khai (1994-2010). Chương trình này
đã góp phần không nhỏ trong giảm nhẹ rủi ro thiên tai, nâng cao nhận
thức và đem lại nguồn sinh kế bổ trợ cho người dân vùng ven biển.
1.2.2. Mô hình 2: Mô hình hầm tránh bão ở các tỉnh miền Trung
Mô hình này được thực hiện tại khu vực miền Trung vùng đồng bằng,
vùng cát ven biển, vùng gò đồi. Mô hình được thực hiện: Hầm tránh bão
được đào sâu khoảng 2m, xung quang chèn những bao cát, bên trên đặt
ngang những thanh gỗ và tạo các mái che đậy tránh nước mưa xối vào. Ở
vùng gò đồi hầm được khoét sâu vào đồi hoặc núi theo hình chữ chi và
tạo các lỗ thông hơi để tránh gió bão quét mạnh.
1.2.3. Mô hình 3: Mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm trên đệm lót sinh
học.

Mô hình được thực hiện ở một vài tỉnh miền Bắc. Đây là hình thức chăn
nuôi mới, sử dụng một ố loại men sinh học như chế phẩm men Balasa
N01, không phải sử dụng nước rửa chuồng đối với chăn nuôi heo, ít phải
thay đệm lót đối với chăn nuôi gia cầm, chi phí xây dựng chuồng trại ít
tốn kém, vật nuôi ít bị bệnh ngoài da và bệnh đường hô hấp, nhất là đối
với nuôi gia cầm. Tuy nhiên do đệm lót lên men, tỏa nhiệt, nên phải có
biện pháp chống nóng cho vật nuôi như có hệ thống quạt gió đối với gia
cầm hay có bể tắm nước cho heo.
1.2.4. Mô Hình 4: Mô hình quản lý tổng hợp dinh dưỡng và sâu bệnh
hại trên hồ cây tiêu (gọi tắt là mô hình ICM).
Nội dung mô hình: 02 hộ nông dân tại tổ 2 thị trấn Kon Dơng với diện
tích 1ha hồ tiêu để thực hiện. Sau đó tổ chức tập huấn cho 30 hộ nông dân
trồng tiêu, hướng dẫn kỹ thuật áp dụng mô hình quản lý dinh dưỡng và
phòng trừ tổng hợp sâu bệnh trên cây hồ tiêu. Mô hình này do Trạm
BVTV huyện Mang hướng dẫn. Hiệu quả đạt được của mô hình: Từ mô
hình ICM trên cây tiêu ở huyện MangYang bước đầu cho thấy so với
vườn tiêu đối chứng thì vườn tiêu áp dụng mô hình ICM với việc được
áp dụng quy trình kỹ thuật, cắt tỉa cành chồi hợp lý đã giúp tỷ lệ sâu bệnh
hại thấp hơn, tỷ lệ rụng quả cũng thấp hơn. Ngoài ra với việc áp dụng quy
trình phân bón hợp lý, cân đối, phân bổ đều trong cả giai đoạn sinh
trưởng và phát triển của cây tiêu nên cho năng suất cao hơn so với vườn
đối chứng; hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn so với vườn không áp dụng
mô hình gần 100 triệu đồng/ha.
Mô hình trên thế giới

1.2.
1.2.1.

2.


21


2.1.
2.1.1.

Mô hình động lực cát
Kinh nghiệm trên thế giới

Nuôi bãi, tái tạo bãi biển là một giải pháp ứng phó với hiện tượng xói lở,
hoặc tái tạo, tái tạo và ổn định đường bờ mang tính “phi công trình” hay
còn được gọi là giải pháp công trình “mềm” đã được áp dụng thành công
ở rất nhiều nước có nền khoa học kỹ thuật biển tiên tiến trên thế giới như
Mỹ, Pháp, Hà Lan, Nhật Bản, Đức… Giải pháp nuôi bãi được áp dụng
lần đầu tiên vào những năm 30 của thế kỉ trước tại Mỹ và dần được
nghiên cứu áp dụng thành công ở nhiều nước khác trên thế giới nhằm
khôi phục các các bãi biển bị xói và mở rộng bãi biển phục vụ du lịch.
Nuôi bãi được định nghĩa là một trong các giải pháp bảo vệ, tái tạo bờ
biển bằng cách sử dụng nguồn vật liệu (chủ yếu là cát) có chất lượng phù
hợp (về thành phần, cấp phối…) để bù đắp cho lượng bùn cát bị thiếu hụt
ở bãi biển, mở rộng và tái tạo bãi biển hiện có bằng cách bổ sung trực tiếp
hoặc gián tiếp các vật liệu nuôi bãi cho bãi biển hoặc kết hợp với các
công trình cứng để tăng hiệu quả nuôi bãi, giảm lượng bùn cát thất thoát
sau nuôi bãi.
Một dải bờ biển được coi là ổn định (không xói, không bồi) khi lượng
bùn cát cung cấp cho dải bờ biển đó (từ cửa sông, đất liền…) cân bằng
với lượng bùn cát bị mất đi (do vận chuyển bùn cát dọc bờ, ngang bờ...).
Do đó, khi lượng bùn cát cung cấp nhỏ hơn lượng bùn cát mất đi thì bờ
biển sẽ bị xói và ngược lại. Để giảm thiểu mức độ xói lở bờ biển, chúng
ta thường tập trung vào hai giải pháp: một là làm giảm lượng bùn cát mất

đi do vận chuyển dọc bờ và ngang bờ bằng cách xây dựng các công trình
cứng để ngăn cát, giảm sóng hoặc trồng rừng ngập mặn; hai là làm tăng
lượng bùn cát cung cấp cho bờ biển bằng các giải pháp như nuôi bãi, vận
chuyển bùn cát nhân tạo (sand by pass).
Như vậy về bản chất nuôi bãi là giải pháp hạn chế xói lở bờ biển bằng
cách làm tăng nguồn cung bùn cát cho đoạn bờ biển đang bị xói để tiến
tới điều kiện cân bằng bùn cát. Phần bãi biển hiện hữu sẽ không bị xói,
thay vào đó phần vật liệu nuôi bãi sẽ bị mất dần theo thời gian (tùy thuộc
vào mức độ xói lở của khu vực nuôi bãi). Do đó phải tiến hành nuôi bãi
lại sau một khoảng thời gian nhất định (khoảng thời gian này gọi là chu
kỳ nuôi bãi).
Bảng 1. So sánh các thông số thống kê định lượng về số lượng dự
án, tần suất nuôi bãi và khối lượng vật liệu nuôi bãi được sử dụng kể từ
thời điểm bắt đầu nuôi bãi tính đến năm 2002 ở một số nước tiên tiến như
Hà Lan; Đức; Pháp; Italia; Tây Ban Nha; Anh; Đan Mạch; Mỹ; Nhật…

22


Sự đa dạng dễ thấy nhất giữa các quốc gia trên là tỉ lệ chiều dài bờ biển
được nuôi bãi (LN) so với tổng chiều dài bờ biển mềm (phù hợp với giải
pháp nuôi bãi, là bãi biển cát hoặc sỏi) có thể bị xói lở (LS). Ở Hà Lan, có
tới 52.1% chiều dài của toàn bộ bờ biển dạng mềm được nuôi bãi. Trong
khi đó ở Mỹ con số này chỉ có 0.6% và một số nước khác ở Châu Âu như
Pháp và Italia con số này cũng khá nhỏ. Như vậy điều này cho thấy, ngoại
trừ Hà Lan, hoạt động nuôi bãi ở các nước khác là khá nhỏ, chưa tương
xứng với tổng chiều dài bờ biển có thể nuôi bãi.

23



Quy trình nuôi bãi
 Trình tự thiết kế
2.1.2.

- Đánh giá quá trình diễn biến và hiện trạng của bãi biển.
- Tổ chức quan trắc, nghiên cứu xác định biến động của bãi.
- Xác định tổng lượng bùn cát thiếu hụt để bổ sung theo nguyên tắc khối
lượng bổ sung lớn hơn khối lượng mất đi với thành phần hạt lớn hơn.
- Xác định nguồn, khối lượng và chất lượng cát bổ sung.
- Xác định vị trí nuôi bãi (đổ cát) dọc tuyến bờ bị xói.
- Lập kế hoạch theo dõi, giám sát sau khi thực hiện nuôi bãi.
- Thời gian bổ sung khối lượng nuôi bãi phụ thuộc vào mức độ diễn biến
của bãi và điều kiện thi công.
- Kết hợp trồng cây giữ bãi.
- Lập kế hoạch theo dõi, giám sát, duy tu, bảo dưỡng, tái nuôi bãi
sau khi công trình xây dựng.
 Các thông số cơ bản của công trình nuôi bãi nhân tạo
Công trình nuôi bãi nhân tạo gồm các thông số cơ bản cần xác định như
dưới đây (Hình 1)
+ Hình dạng mặt cắt ngang: Trước khi nuôi bãi (hiện trạng) và sau khi
nuôi bãi.
+ Phạm vi nuôi bãi.
+ Cao độ và mái dốc thiết kế.
+ Cao độ, chiều rộng, mái dốc thềm bãi.
+ Thành phần hạt của bãi tự nhiên và của vật liệu bổ sung.
+ Khối lượng nuôi bãi lần đầu và khối lượng tăng cường theo định kỳ.
+ Chu kỳ nuôi bãi.

Hình 1. Các thông số cơ bản của một công trình nuôi bãi nhân tạo


24


Hình 2: Sơ đồ tiếp cận một dự án nuôi bãi
2.1.3. Áp dụng mô hình tại Việt Nam
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, các dự án tái tạo bãi biển, lấn
biển xây dựng các khu du lịch, nghỉ dưỡng và các khu công nghiệp ở ven
biển đã bắt đầu được thực hiện. Ví dụ như dự án lấn biển ở cửa Văn Úc,
Hải Phòng, dự án lấn biển Đa Phước, Đà Nẵng, dự án lấn biển Cần Giờ,
thành phố Hồ Chí Minh hay dự án lấn biển ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên
Giang, vv. Tuy nhiên các dự án trên mới chỉ thực hiện ở các bãi biển có
xu thế bồi tụ, và có kết hợp với đê bao để giữ bùn cát. Các vấn đề về sinh
thái, môi trường và tác động của các dự án lấn biển vẫn còn bỏ ngỏ.
Ngoài ra, dự án lấn biển có tính chất khác với dự án nuôi bãi vì chỉ bổ
sung bùn cát cho khu vực cần lấn biển 1 lần mà không phải tiến hành bổ
sung bùn cát định kỳ cho bãi biển như dự án nuôi bãi. Mặc dù vậy các
kiến thức thực tế, phương pháp và thiết bị sử dụng trong các dự án lấn
biển đã dần được nâng cao qua quá trình thực hiện các dự án trên và có
thể sử dụng để thực hiện các dự án nuôi bãi ở Việt Nam trong tương lai.
Mặc dù giải pháp nuôi bãi chưa từng được nghiên cứu áp dụng thử
nghiệm ở nước ta những ở các nước lân cận như Singapore, Thái Lan,
Trung Quốc, Malaixia, nuôi bãi đã được áp dụng khá thành công. Nghiên
cứu áp dụng giải pháp nuôi bãi ở Việt Nam sẽ kế thừa các thành tựu
nghiên cứu trên thế giới về công nghệ nuôi bãi dưới dạng các tài liệu, báo
cáo, mô hình, tiêu chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật và các bài báo chuyên
ngành.
Đề tài “Nghiên cứu áp dụng giải pháp Nuôi Bãi Nhân Tạo cho các đoạn
bờ biển bị xói lở ở khu vực miền Trung Việt Nam” Mã số
KC.08.TN03/11-15 đã đề xuất ba mô hình nuôi bãi phù hợp có thể sử

25


×