Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Các biện pháp kiềm chế tài chính tại một nước đang phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 18 trang )

ĐỀ TÀI: Các biện pháp kiềm chế tài chính tại một nước đang phát triển Việt Nam
I. Giới thiệu chung
a.
Khái niệm

Kiềm chế tài chính là khái niệm để chỉ luật và chính sách của chính phủ
hoặc những biện pháp phi thị trường nhằm ngăn chặn các tổ chức trung gian tài
chính của một kinh nền kinh tế vận hành tối đa năng lực.
Các chính sách dùng trong việc kiềm chế tài chính bao gồm:
+ Kiểm soát ngân hàng
+ Dự trữ bắt buộc
+ Kiểm soát dòng vốn
+ Áp trần lãi suất
+ Kiểm soát tín dụng
Mục tiêu của kiềm chế tài chính
Kiểm soát nguồn lực tài chính khi đó chính phủ có thể chủ động rót vốn
b.

mà không cần thông qua những thủ tục pháp lý.
Đảm bảo tỷ lệ tăng trưởng cao và giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng như các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác.
Đảm bảo khả năng tài trợ cho các ngân hàng đối với các nhu cầu tài chính
của Nhà nước.
Chính phủ có thể tạo ra sự độc quyền hoặc những hoạt động tín dụng cho
vay cho các ngân hàng.
c.Tác động thực tế đến Việt Nam
Chính phủ dễ dàng kiểm soát tài chính áp dụng lãi suất trần để tránh lạm
phát xảy ra.
Áp dụng các biện pháp kiểm soát dòng vốn giúp Việt Nam thu hút các
nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn tăng ngân sách nhà nước và có tính dài
hạn.


Kiểm soát tín dụng cũng giúp Chính phủ hỗ trợ xóa đói giảm nghèo trên
nhiều địa phương.
Chính phủ có thể điều chỉnh đưa ra mức lãi suất trần tránh các trường hợp
các ngân hàng tự do điều chỉnh lãi suất.
II.
Kiểm soát ngân hàng:
1.

Khái niệm:

1




Là các hoạt động của Chính phủ bao gồm thanh tra, giám sát sát đối với các

Ngân Hàng Thương mại, xây dựng chính sách văn bản quy phạm pháp luật, cấp phép
thông qua Ngân Hàng nhà nước.


Mục đích:


Thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an
toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính.



Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của

tổ chức tín dụng.



Duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ
chức tín dụng.



Bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.



Góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực
tiền tệ và ngân hàng từ đó kiềm chế tài chính.

2.


Các biện pháp kiểm soát ngân hàng của chính phủ:

Ngân hàng Nhà nước ban hành các văn bản nhằm hạ dần lãi suất đối với tiền

gửi huy động nhằm hạ lãi suất cho vay, kích thích cho việc tăng trưởng tín dụng trở lại
ở các ngân hàng thương mại.


Dự trữ bắt buộc cũng là công cụ để chính phủ các nước áp dụng đối với hệ

thống các tổ chức tín dụng, chủ yếu là các ngân hàng thương mại nhằm đảm bảo an

toàn khi xảy ra khủng hoảng tài chính vì nếu khủng hoảng tài chính xảy ra thường kéo
theo việc rút tiền ồ ạt và để giảm chi phí các khoản nợ cho Chính phủ.


Từ năm 2012 đến nay, nhiều ngân hàng thương mại đã tham gia quá trình tái cơ

cấu, xử lý các ngân hàng yếu kém, theo đó, cơ chế trên mở ra khả năng nhiều thành
viên có thể được giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong thời gian tới. Với thị trường tài
chính, khả năng một nguồn vốn từ dự trữ bắt buộc sẽ được “thả” ra.


Các mức lãi suất Ngân hàng công bố năm 2009:

2


3.


Thực trạng, tác động của áp dụng biện pháp kiểm soát ngân hàng:

Nhiều ngân hàng áp dụng chuẩn mực Basel 2 (bao gồm các nguyên tắc chung

và các luật ngân hàng của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng), chất lượng tài sản
tăng ổn định biểu hiện bằng tỷ lệ nợ xấu giảm đều đặn, khả năng sinh lời được cải
thiện đáng kể, thanh khoản hệ thống khá ổn định,...


Việc giám sát, đảm bảo an toàn hệ thống còn bất cập chủ yếu gồm: giám sát, ổn


định tài chính tiền tệ do nhiều nơi đảm trách; vai trò của Uỷ ban Giám sát Tài chính
quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi còn mờ nhạt; rủi ro hệ thống chưa được kiểm soát chặt
chẽ, đầy đủ, chưa có cơ chế xử lý khủng hoảng; hoạt động thanh tra giám sát chủ yếu
theo phương thức giám sát hành chính, giám sát trên cơ sở rủi ro chưa nhiều; văn bản
pháp quy còn thiếu tính nhất quán, thiếu cơ chế chia sẻ thông tin; chế tài xử lý vi
phạm chưa đủ mạnh.


Lãi suất liên ngân hàng tiếp tục ổn định ở mức thấp
3




Phát triển các dịch vụ, phương tiện thanh toán, dịch vụ thanh toán mới, hiện đại

4


III.

Dự trữ bắt buộc:

1.

Khái niệm:



Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung


ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải
tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản.


Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc

nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân
hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để đảm
bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
5




Mục đích Việt Nam sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc:
+ Sự phát triển của thị trường tài chính
+ Việt Nam là 1 trong những quốc gia áp dụng khuôn khổ chính sách tiền
tệ theo khối lượng cung tiền
+ Dự trữ bắt buộc tác động lên lãi suất nhanh hơn khi hệ thống ngân hàng
ở giai đoạn đầu của cạnh tranh (mức độ cạnh tranh không cao và lợi nhuận phụ
thuộc nhiều từ tín dụng).
+ Dự trữ bắt buộc tác dộng tức thời lên hành vi cho vay của các ngân
hàng thương mại.
2.



Các biện pháp thực hiện dự trữ bắt buộc tại Việt Nam:


Thông qua hoạt động tạo tiền, từ tiền cơ sở (gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ

thống ngân hàng cộng với tiền mặt dự trữ trong hệ thống ngân hàng), các cửa tiền mặt
so với tiền gửi (C/D) của các ngân hàng; r là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.


Do đó khi r thay đổi thì số nhân tiền thay đổi theo tỷ lệ nghịch. Chính vì thế

bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể thay đổi số nhân
tiền để điều tiết cung tiền với một tiền cơ sở bất kỳ.
3.

Tác động:

Dự trữ bắt buộc được NHNN sử dụng rất linh hoạt trong khoảng thời gian
2007 – 2010 để ngăn ngừa sự tăng trưởng tín dụng quá nóng và kiềm chế lạm
phát. Trong đó, giai đoạn 2007 – 2008, tỷ lệ dự trữ bắt buộc điều chỉnh khá
mạnh tay (từ 5% lên 10% và 11% đầu năm 2008), đồng thời các thời gian tiếp
theo điều chỉnh giảm linh hoạt và thận trọng để phù hợp với các mục tiêu của
chinh sách tiền tệ.

6


Tuy nhiên, sau 2011, dự trữ bắt buộc trở nên dần lãng quên trong các
công cụ sách tiền tệ. Nên chăng, NHNN cần xác định rõ hơn nữa vai trò quan
trọng của công cụ dự trữ bắt buộc và khai thác một cách thận trọng để nâng cao
hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ
Năm 2012-2014, NHNN đã tiến hành giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho 7 tổ
chức tín dụng (TCTD) và tái cấp vốn để khuyến khích các TCTD hỗ trợ vốn tín

dụng cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.Tại những năm này công cụ tỷ lệ
DTBB không phát huy tác dụng điều chỉnh nguồn vốn thanh toán và cho vay
của TCTD
=> Hạn chế vai trò, tác dụng của tỷ lệ DTBB trong việc điều chỉnh lãi
suất cho vay, lượng tiền cung ứng và hệ số tạo tiền của TCTD.
Năm 2015-2016, NHNN thay đổi 1 số diều khoản trong quy chế DTBB
đối với các TCTD: Đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho tổ
chức tín dụng đến mức tối thiểu 0%. Đối với tổ chức tín dụng đang thực hiện
7


phương án cơ cấu lại đã được phê duyệt, tổ chức tín dụng tham gia cơ cấu lại tổ
chức tín dụng yếu kém theo chỉ định, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét
quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cụ thể cho từng tổ chức tín dụng”.
Năm 2017-2018, ngân hàng Nhà nước điều chỉnh theo hướng: về đối
tượng sẽ không áp dụng quy định về dự trữ bắt buộc cho một số đối tượng,
gồm tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt; tổ chức tín dụng chưa khai
trương hoạt động; tổ chức tín dụng có quyết định thanh lý tài sản, hoặc giải thể,
hoặc chấm dứt hoạt động hoặc thu hồi giấy phép hoạt động của cấp có thẩm
quyền.
Nhóm đối tượng trên hiện có Ngân hàng Đông Á (sau khi đặt vào diện
kiểm soát đặc biệt từ năm 2015 và tiến hành tái cơ cấu), ba ngân hàng thương
mại mà Ngân hàng Nhà nước mua lại giá 0 đồng.
Nhóm đối tượng này cũng được dẫn chiếu đến nhóm các ngân hàng
thương mại khác được giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong chính sách dự kiến ban
hành. Đó là những trường hợp tham gia hỗ trợ tái cơ cấu hệ thống.
Cụ thể, đối tượng được giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, trên cơ sở quy định tại
Luật số 17/2017/QH14, tổ chức tín dụng hỗ trợ sẽ được giảm 50% tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với tất cả các loại tiền gửi theo phương án phục hồi đã được phê

duyệt.
Ở quy định này, tổ chức tín dụng hỗ trợ là tổ chức tín dụng được chỉ định
tham gia quản trị, kiểm soát, điều hành, hỗ trợ tổ chức và hoạt động của tổ chức
tín dụng được kiểm soát đặc biệt.
Chiếu theo quy định trên, trong những năm qua Ngân hàng Ngoại thương
(Vietcombank), Ngân hàng Công thương (VietinBank), Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển (BIDV) đã lần lượt tham gia hỗ trợ tái cơ cấu tại DongA Bank, CB
Bank, Ocean Bank và GP Bank, qua hỗ trợ thanh khoản, cử nhân sự quả trị

8


điều hành, hợp tác kinh doanh… ngay khi các tổ chức này thực hiện tái cơ cấu
bắt buộc.
Tuy nhiên, việc xác định cụ thể sẽ chờ chính sách từ Ngân hàng Nhà
nước.
Bước đầu, với gợi mở từ định hướng trên, dù số lượng thành viên được
miễn và giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc không nhiều, nhưng phạm vi lượng tiền gửi
dự kiến sẽ là một bộ phận lớn, do những thành viên nói trên (nếu cả
Vietcombank, VietinBank và BIDV cùng được giảm) đang chiếm thị phần huy
động lớn trong hệ thống.
Theo đó, hướng điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc lần này dự kiến sẽ có tác
động lớn tới thị trường, nhất là sau khi lãi suất huy động VND có xu hướng lên
cao trong năm 2018, cũng như có giá trị kích thích quá trình hồi phục tại những
trường hợp đang kiểm soát đặc biệt.
IV.

Khái niệm:

1.



Kiểm soát dòng vốn:

Kiểm soát vốn là hình thức chính phủ can thiệp vào dòng vốn nước ngoài chảy

vào quốc gia đó dưới nhiều góc độ và biện pháp khác nhau để nhằm đạt được chỉ tiêu
và mong muốn nhất định của chính phủ.


Kiểm soát vốn có 2 hình thức là kiểm soát vốn trực tiếp và kiểm soát vốn gián

tiếp:


Kiểm soát vốn trực tiếp không chỉ hạn chế giao dịch vốn mà còn tác
động đến số lượng những giao dịch tài chính từ nước này qua nước
khác. Kiểm soát vốn trực tiếp có thể kiểm tra dòng vốn thông qua các hệ
thống ngân hàng. Từ đó giúp chính phủ dễ dàng hơn trong việc quản kí
dòng vốn từ nước ngoài vào quốc gia được nhận dòng vốn.



Kiểm soát vốn gián tiếp: chỉ hạn chế những biến động của dòng vốn và
những giao dịch khác thông qua các biện pháp thị trường, mục đích của
việc này làm cho tốn kém nhiều chi phí hơn trong quá trình giao dịch
9


diễn ra. Nó có thể xảy ra dưới nhiều hình thức như hệ thống đa tỷ giá,

đánh thuế ngầm, nhưng chủ yếu là đánh thuế vào các dòng vốn ngắn hạn
và khuyến khích các dòng vốn dài hạn.
Mục đích:


Những mục tiêu kiểm soát dòng vốn ở Việt Nam bao gồm



Thu hút vốn



Kiềm chế tài trợ



Phân phối tín dụng



Điều chỉnh thâm hụt cán cân thanh toán



Ngăn ngừa những bất ổn tiềm tàng của dòng vốn vào



Hạn chế sử dụng nước ngoài đối với các sản phẩm trong nước




Bảo vệ các định chế tài chính trong nước



Giảm thiểu rủi ro về tiền tệ, rủi ro về sự tháo chạy của đầu tư, rủi ro lây
lan…
Các biện pháp kiểm soát dòng vốn:
Đổi mới luật lệ và các chính sách: Ngày 29/2/2005, bằng quyết định
2.

238/2005/QG-TTg Thủ tướng chính phủ cho phép nâng tỷ lệ sở hữu cho người
nước ngoài nắm giữ từ 30% lến đến 49%.
Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, thực thi chính sách mở cửa thu hút
nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Khuyến khích dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bằng cách phát
hành trái phiếu.
- Chính phủ chính thức phát hành trái phiếu vào tháng 10 năm 2005 và
kéo theo đó là hàng loạt các phương án phát hành trái phiếu của các tổng công
ty lớn lúc bây giờ như: Vinashin, EVN và…
Thực hiện chính tiền tệ chặt chẽ thận trọng nhằm ổn định tỷ giá
- Thực hiện nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2011. Ngân Hàng Nhà Nước đã
điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 20.690VNĐ (tăng 9,3% so
với mức 18.932VNĐ trước đó). Điều này sẽ giúp NHNN tránh được lạm phát
khi phải bơm tiền nội tệ để đổi ngoại tệ quá nhiều.

10



Thực hiện các chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm
bội chi ngân sách. Một số biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội bao gồm:
+ Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng.
+ Thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập
siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng.
+ Điều chỉnh giá điện, xăng, dầu đối với hộ nghèo.
+ Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên
truyền.
3.

Tác động của kiểm soát dòng vốn
Tổng vốn FDI vào Việt Nam năm 2017 đạt 35,88 tỷ USD, tăng 44,4% so

với năm 2016. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã giải ngân được 17,5 tỷ USD trong 12 tháng qua, cao nhất từ trước đến
nay.
Biểu đồ thể hiện vốn FDI đăng kí vào Việt Nam từ 2009-2017

Nhà đầu tư nước ngoài đã rót vốn vào 19 ngành, trong đó công nghiệp
chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư
nước ngoài với 15,87 tỷ USD, chiếm 44,2% tổng vốn đăng ký. Lĩnh vực sản
xuất, phân phối điện đứng thứ hai với 8,37 tỷ USD, chiếm 23,3% tổng vốn đầu

11


tư đăng ký. Đứng thứ ba là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 3,05 tỷ USD,
chiếm 8,5% tổng vốn đăng ký.

- Biểu đồ thể hiện mức độ đầu tư của các nước vào Việt Nam:

Biểu đồ thể hiện sự gia tăng nhanh chóng của FII vào Việt Nam trong
năm 2016 - 2018:

12


V.

Áp trần lãi suất:

Khái niệm:

1.

Áp trần lãi suất được coi là một trong những công cụ áp chế tài chính
được sử dụng phổ biến nhất, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.


Mức lãi suất trần là mức lãi suất cao nhất một tổ chức tài chính áp dụng để thu

hút tiền gửi vào tổ chức của mình.


Mục đích:
Áp đặt trần lãi suất đối với nguồn vốn huy động đảm bảo cho sự
tăng trưởng ổn định của hệ thống ngân hàng thông qua việc giảm bớt sự
cạnh tranh. Hơn nữa, khi các ngân hàng không chịu áp lực từ chi phí
phải trả trên nguồn vốn huy động thì cũng sẽ giảm những khoản cho vay

có rủi ro cao, từ đó giảm rủi ro cho ngân hàng.
Việc đặt ra trần lãi suất huy động cũng giống như một sự kiểm soát về giá
và nó đem lại cho ngân hàng một mức “tô kinh tế” nhất định do sự không hoàn
hảo của thị trường. Khoản tô này không chỉ làm giảm tỷ suất sinh lợi thực tế
của những người tiết kiệm nhận được mà còn làm giảm các khoản cho vay hiện
tại, vì vậy có thể làm tăng lãi suất cho vay đối với cá nhân vay nợ.
Hơn nữa, một khi lạm phát cao sẽ dẫn đến lãi suất thực tế nhận được thấp
và có thể âm làm giảm mong muốn tiết kiệm trong công chúng. Lãi suất cho
vay và mức độ đầu tư của khu vực tư nhân có mối quan hệ nghịch chiều. việc
áp đặt trần lãi suất làm hạn chế tín dụng và có tác động tiêu cực lên đầu tư.
Như vậy, phương pháp này đã góp phần kìm hãm sự phát triển tài chính ở quốc
gia này.
2.



Các biện pháp áp trần lãi suất ở Việt Nam:

Chính sách lãi suất được NHNN điều hành tăng giảm theo những biến động

của thị trường. Cụ thể:


Vào nửa đầu năm 2008, NHNN đã áp dụng mức trần lãi suất cho vay tối

đa là 150% lãi suất cơ bản của NHNN.

13



LSCB được điều chỉnh giảm về mức 7%/năm từ ngày 1/2/2009 đưa lãi
suất cho vay tối đa về mức 10,5%/năm nhằm tạo điều kiện cho các NHTM mở
rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh trong nền
kinh tế.
- Tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt, ngăn chặn tình trạng vượt trần lãi suất
của các NHTM (Văn bản số 9484/2009/VB-NHNN ban hành ngày 21/2/2009).
Nguyên nhân là do những khó khăn trong thanh khoản của các NHTM dẫn đến
công tác huy động vốn trở nên ngày càng căng thẳng. Với mức LSCB duy trì ở
7%/năm, các NHTM đã nâng lãi suất huy động lên đỉnh điểm ở mức
10,5%/năm. Ngoài ra, nhiều NHTM đã áp lãi suất tiền gửi ở mức cao nhất có
thể là 10,49% hay 10,50%/năm cho hầu hết các kỳ hạn.
Thúc đẩy các NHTM kiểm soát rủi ro tín dụng một cách chặt chẽ và khắt
khe trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, hạn chế và tập trung xử lý nợ xấu
thông qua việc thực hiện CSTT thắt chặt bằng cách điều chỉnh tăng LSCB.
Việc điều chỉnh tăng LSCB đã kéo theo sự gia tăng lãi suất huy động và lãi suất
cho vay. Chính điều này làm cho các NHTM khắt khe trong việc lựa chọn đối
tượng cho vay hay nói một cách khác là tập trung vào những đối tượng khách
hàng có uy tín, hoạt động kinh doanh hiệu quả, tỷ suất sinh lời cao và có khả
năng trang trải chi phí sử dụng vốn cao.
3.

Tác động:
Giai đoạn 2016-2018, tăng trưởng GDP liên tục gia tăng, và lần lượt đạt

các mốc cao nhất trong 10 năm qua (với GDP năm 2017 tăng 6,81% - mức cao

14


nhất kể năm 2008, và năm 2018 tăng trưởng tiếp tục đạt mức cao hơn, khoảng

7,08%).



Năm 2018, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất chào mua trên thị trường mở từ

5%/năm xuống còn 4,75%/năm để góp phần giảm chi phí vốn cho tổ chức tín dụng.
Kết quả là, mặt bằng lãi suất của các TCTD năm 2018 về cơ bản ổn định, lãi suất cho
vay phổ biến khoảng 6 - 9%/năm đối với ngắn hạn, lãi suất cho vay trung - dài hạn
khoảng 9 - 11%/năm.


Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các nhu cầu vốn phục vụ

nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa,
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao giảm từ 6,5%/năm xuống 6,0%/năm; lãi suất
cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi
mô đối với các nhu cầu vốn này giảm từ 7,5%/năm xuống 7,0%/năm.
VI.
1.


Kiểm soát tín dụng:

Khái niệm:

Kiểm soát tín dụng là khái niệm dùng để chỉ các biện pháp được cơ quan hữu

trách về tiền tệ sử dụng nhằm kiểm soát khối lượng cho vay của những loại hình định
chế tài chính nhất định (ví dụ tín dụng ngân hàng, tín dụng thuê mua).



Gồm 4 yếu tố chính:



Thời hạn tín dụng: Đó là khoảng thời gian mà khách hàng phải trả

15




Chiết khấu tiền mặt: Một số doanh nghiệp cung cấp phần trăm giảm giá chiết

khấu từ giá bán nếu người mua thanh toán bằng tiền mặt trước khi kết thúc giai đoạn
chiết khấu.


Tiêu chuẩn tín dụng: Bao gồm sức mạnh tài chính bắt buộc mà khách hàng phải

có để đủ điều kiện nhận tín dụng.


Chính sách thu tiền: Đo lường chính sách thắt chặt hoặc thoải mái trong việc cố

gắng thu hồi các tài khoản trả chậm.
2.



Các biện pháp kiểm soát tín dụng tại Việt Nam:

Yêu cầu các Tổ chức tín dụng rà soát và cân đối khả năng tài chính để áp dụng

mức lãi suất cho vay hợp lý trên cơ sở lãi suất huy động và mức độ rủi ro của khoản
vay, tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh để có điều kiện giảm
lãi suất cho vay


Đẩy mạnh chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp và chương trình bình

ổn giá nhằm tháo gỡ kịp thời cho phù hợp với đặc thù hoạt động của các DN, hợp tác
xã thông qua các biện pháp như tăng cường cho vay mới, thực hiện cơ cấu lại nợ vay,
giảm lãi suất cho vay, nâng hạn mức cho vay,... tạo điều kiện cho các DN, hợp tác xã
tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất hợp lý phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh.


Cải tiến quy trình cho vay, thủ tục vay vốn, nâng cao khả năng thẩm định để rút

ngắn thời gian giải quyết cho vay, tạo điều kiện cho người dân, DN tiếp cận vốn
nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay.


Tập trung tín dụng cho những lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ góp

phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế do Quốc hội đề ra là 6,6-6,8%, kiểm soát
lạm phát ở mức 4% (2019).


Triển khai một số chương trình tín dụng đặc thù như:




cho vay nông nghiệp, nông thôn;



cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông

nghiệp sạch;


chính sách tín dụng hỗ trợ ngư dân đóng mới, nâng cấp tàu phục vụ khai thác

hải sản xa bờ;

16




chính sách tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc,

thiết bị phục vụ sản xuất nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp;


các chương trình tín dụng chính sách của ngân hàng Chính sách xã hội... tập

trung vốn đầu tư cho các lĩnh vực ưu tiên như xuất khẩu, DNNVV, doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo…

3.


Tác động:

Tăng trưởng dư nợ tín dụng đến cuối năm 2018 tăng 14% so với cuối năm

2017.


Cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vốn cho

lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên:


Dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng 15,5%, xuất khẩu

tăng 3,5%, lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tăng 17%, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ
cao tăng khoảng 0,3%, doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 13,5%.


Tín dụng đối với ngành công nghiệp và xây dựng cuối năm 2018 tăng 12,1%,

ngành thương mại, dịch vụ tăng 15,9% so với năm 2017, lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản cuối năm 2018 tăng 8,88%, trong đó, dư nợ đối với một số sản
phẩm thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như: lúa gạo tăng 25%, thủy sản tăng 14,1%,
cà phê tăng 13,65%,...

17



KẾT LUẬN
Mặc dù các biện pháp kiềm chế tài chính nàynày mang lại lợi ích cho chính phủ
nhưng chúng cũng để lại những hệ lụy cho sự phát triển của thị trường tài chính và
làm cho sự phân bổ các nguồn lực trở nên kém hiệu quả. thực trạng ở Việt Nam cũng
cho thấy việc áp dụng một cách cứng nhắc các biện pháp áp chế tài chính sẽ kiềm hãm
sự phát triển tự do của thị trường tài chính này. Vì vậy, có thể nói rằng, để nền kinh tế
phát triển thì Chính phủ nên nới lỏng các quy định áp đặt về tài chính. Các biện pháp
này chỉ nên được sử dụng như là cách thức để bảo vệ nền kinh tế thoát khỏi tác động
tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa mà thôi.

18



×