Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Ths luật giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài vụ việc theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.1 KB, 89 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Có thể nói đặc trưng quan trọng, cơ bản, nổi bật nhất của kinh tế thế
giới hiện nay là xu hướng toàn cầu hóa, trong đó quan hệ hợp tác kinh tế quốc
tế luôn được củng cố và phát triển. Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra
mạnh mẽ đó thì cũng phát sinh ngày càng nhiều những tranh chấp thương mại
không chỉ dừng lại ở sự gia tăng về số lượng mà độ phức tạp của các tranh
chấp cũng ngày một nâng cao. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, trong kinh
doanh thương mại… tranh chấp phát sinh luôn là hiện tượng đương nhiên,
giải quyết tranh chấp là việc làm tất yếu và đang là một vấn đề được bàn đến
nhiều của nền kinh tế thế giới hiện nay. Điều đó cũng giúp định hướng tư duy
của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ kinh tế có phát sinh tranh chấp
các phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu trong đó có trọng tài. Theo đánh
giá của Tổng thư ký Tòa án trọng tài quốc tế thì trọng tài được coi là lựa chọn
có nhiều ưu thế nổi bật là tính liên tục, mềm dẻo, bí mật và phán quyết trọng
tài có giá trị chung thẩm…Với tính năng ưu việt của mình mà phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được coi là lựa chọn được ưa chuộng của
các doanh nghiệp trên thế giới. Tuy nhiên, thực trạng Việt Nam lại cho thấy
các doanh nghiệp chưa thực sự "mặn mà" với việc đem tranh chấp của mình
ra giải quyết tại trọng tài, theo thống kê có hơn 95% tranh chấp thương mại
trong nước được đưa ra Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Sở dĩ có tình trạng trên thì bên cạnh
nguyên nhân chủ quan từ phía các doanh nghiệp còn có nguyên nhân xuất
phát từ hệ thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam, đó là hệ thống chưa thực
sự tạo ra một hành lang pháp lý an toàn, hiệu quả để doanh nghiệp trong và
ngoài nước tự tin khi lựa chọn trọng tài.
Sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại (TTTM) năm 2003 đã
đánh dấu một bước tiến mới trong việc hình thành và hoàn thiện pháp luật về

0




trọng tài tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp của cộng đồng doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng Pháp lệnh trong hơn 6
năm qua, tuy được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ cùng với sự xuất hiện của
nhiều nhân tố mới như việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), việc ban hành Luật Thương mại năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005…
nhưng một số quy định của Pháp lệnh đã bộc lộ sự bất cập như thẩm quyền
của trọng tài còn nhiều hạn chế, đội ngũ trọng tài viên trong nước chưa phát
triển, cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài chưa hiệu quả…
Xuất phát từ thực tế trên đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang thực
thi các cam kết khi gia nhập WTO thì việc ban hành Luật TTTM là một tất
yếu khách quan. Sự ra đời của Luật TTTM với nhiều quy định mới về cơ bản
phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế góp phần tạo niềm tin cho các cá
nhân, tổ chức khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Một trong những điểm mới đáng ghi nhận là Luật TTTM chính thức quy định
hai hình thức hoạt động trọng tài là trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc và
có các quy định nhằm hỗ trợ cho cả hai hình thức trọng tài có cơ hội phát triển
ngang bằng nhau và khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng cả hai hình
thức này. Tuy nhiên để các quy định này không chỉ có hiệu lực trên giấy thì
cần có sự đánh giá khách quan, chính xác những cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc ban hành các quy định về hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài vụ việc để thực tiễn hóa các quy định này vào đời sống kinh tế của các cá
nhân, tổ chức. Với mong muốn được luận bàn chuyên sâu, góp phần hoàn
thiện pháp luật trọng tài ở Việt Nam, tác giả chọn đề tài: "Giải quyết tranh
chấp trong thương mại bằng trọng tài vụ việc theo pháp luật Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thực tiễn và trong khoa học pháp lý đã có một số bài viết và
một số công trình nghiên cứu ở cấp độ khác nhau về phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, có thể nêu một số công trình như: "Hoàn thiện


1


pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế", Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Đình Thơ, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2007; "Pháp luật giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng
tài", Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Thị Phương Thủy, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2004; "Những vấn đề pháp lý về thỏa thuận trọng tài và thực
tiễn áp dụng ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị Kim Liên,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006; "Trọng tài thương mại Việt Nam trong
tiến trình đổi mới", của Dương Văn Hậu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
1999; và một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành… Tuy nhiên các công
trình trên chỉ đề cập một cách khái quát về phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài nói chung mà chưa có công trình nào đề cập một cách chuyên
sâu về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc. Từ đó có thể
khẳng định đây là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học
nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức
trọng tài vụ việc vào giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam, đề xuất
hướng hoàn thiện những quy định pháp luật về phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài nói chung và trọng tài vụ việc nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đặt ra các nghiên cứu:
- Luận giải cơ sở lý luận của các quy định về phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc.
- Phân tích các quy định hiện hành của pháp luật về trọng tài vụ việc;

đánh giá thực trạng sử dụng phương thức trọng tài vụ việc trong thực tiễn giải

2


quyết các tranh chấp thương mại tại Việt Nam từ đó chỉ ra các khó khăn,
vướng mắc đang và sẽ gặp phải và các nguyên nhân liên quan đến việc sử
dụng trọng tài vụ việc giải quyết tranh chấp.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc áp
dụng và điều chỉnh pháp luật phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
nói chung và trọng tài vụ việc nói riêng nhằm lựa chọn những kinh nghiệp
hay, phù hợp cho việc áp dụng vào Việt Nam.
- Đưa ra những giải pháp nhằm thực tiễn hóa một cách hiệu quả các
quy định của pháp luật nhằm khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng
phương thức trọng tài nói chung và trọng tài vụ việc nói riêng khi cần giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những quy định pháp luật về
các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, kinh nghiệm
quốc tế và đi sâu nghiên cứu phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài vụ việc theo pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, luận văn
còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp bình
luận, diễn giải, so sánh, tổng hợp, phân tích…
6. Những kết quả nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc, luận văn có những đóng góp mới sau đây:

Thứ nhất: Luận văn giải quyết những vấn đề lý luận về tranh chấp
trong hoạt động thương mại và các hình thức giải quyết tranh chấp, nghiên

3


cứu một cách khái quát về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
vụ việc với những phân tích về đặc điểm của trọng tài vụ việc, ưu và nhược
điểm của trọng tài vụ việc và khi nào thì nên dùng trọng tài vụ việc để giải
quyết tranh chấp.
Thứ hai: Luận văn đã phân tích một cách sâu sắc những quy định pháp
luật hiện hành về trọng tài vụ việc, bắt đầu từ việc đánh giá khái quát hiệu quả
của pháp luật đối với hoạt động trọng tài và trọng tài vụ việc, các nguyên tắc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc, thẩm quyền của trọng tài vụ việc
và thủ tục của trọng tài vụ việc. Bên cạnh đó, luận văn còn phân tích chi tiết
thực trạng sử dụng trọng tài vụ việc trong giải quyết tranh chấp tại Việt Nam,
các bất cập và các nguyên nhân cụ thể của các bất cập đó.
Thứ ba: Luận văn bước đầu đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng phương thức trọng tài vụ việc nhằm giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại bao gồm những giải pháp về mặt cơ
chế, chính sách, pháp luật; các giải pháp từ phía các trọng tài viên, từ phía
doanh nghiệp, từ phía tòa án và cơ quan thi hành án…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp trong thương
mại bằng trọng tài vụ việc.
Chương 2: Pháp luật và thực trạng giải quyết tranh chấp trong thương
mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng trọng tài

vụ việc giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Việt Nam.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ TRỌNG TÀI VỤ VIỆC

1.1. Tranh chấp trong thương mại và các hình thức giải quyết
tranh chấp
1.1.1. Khái niệm tranh chấp trong thương mại
Tranh chấp, theo cách hiểu thông thường, đó là sự bất đồng, sự mâu
thuẫn về một vấn đề nào đó giữa hai hay nhiều bên liên quan. Tranh chấp
thường biểu hiện rất đa dạng và sinh động trong xã hội, trong đời sống: tranh
chấp về chủ thực sự của vật nuôi chạy từ nhà này sang nhà khác, tranh chấp
về ngõ đi chung, tranh chấp về thỏa thuận mua bán đồ vật, về thanh toán, thời
hạn thanh toán… và trong quan hệ quốc tế là tranh chấp về chủ quyền quốc
gia- biên giới, biển đảo… Suy cho cùng, tranh chấp là những mâu thuẫn, bất
đồng về lợi ích mà các bên không thống nhất được với nhau. Tranh chấp, theo
Từ điển tiếng Việt, là sự "đấu tranh, giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường
là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên" [46, tr. 1024]. Từ góc độ pháp luật,
tranh chấp được giải thích "là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ hợp
pháp giữa các bên trong quan hệ pháp luật" [42, tr. 443]. Pháp luật thực định
của Việt Nam hiện nay chưa có quy định nào giải thích thuật ngữ tranh chấp.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi không tập trung lý
giải và nghiên cứu sâu về thuật ngữ này mà chỉ đề cập khi liên quan đến đối
tượng nghiên cứu. Hiện nay, có rất nhiều cách diễn đạt tranh chấp trong
thương mại như: tranh chấp kinh doanh-thương mại (Điều 29 BLTTDS năm
2004 - cách dùng được chính thức hóa trong BLTTDS), tranh chấp trong hoạt

động thương mại, tranh chấp kinh tế, tranh chấp trong thương mại… Trong
luận văn, tác giả sử dụng thuật ngữ "tranh chấp trong thương mại".

5


Theo Điều 29 BLTTDS năm 2004 có quy định các loại tranh chấp
trong kinh doanh, thương mại - đây được coi như định nghĩa về tranh chấp
kinh doanh - thương mại:
Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương
mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận bao gồm: a) Mua bán hàng hóa; b) Cung ứng
dịch vụ; c) Phân phối; d) Ðại diện, đại lý; đ) Ký gửi; e) Thuê, cho
thuê, thuê mua;g) Xây dựng; h) Tư vấn, kỹ thuật; i) Vận chuyển
hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội
địa; k) Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không,
đường biển; l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Ðầu tư, tài chính, ngân hàng; n) Bảo hiểm; o) Thăm dò, khai
thác.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công
nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty,
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi
hình thức tổ chức của công ty.
4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp
luật có quy định [2].
Luật TTTM 2010 cũng quy định tranh chấp thương mại theo hướng

xác định những tranh chấp trong thương mại thuộc thẩm quyền của TTTM,
bao gồm:
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

6


1. Tranh chấp phát sinh giữa các bên, trong đó ít nhất một
bên có hoạt động thương mại
2. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định
được giải quyết bằng trọng tài [26].
Tranh chấp trong thương mại, có thể được hiểu như sau:
Tranh chấp trong thương mại là những bất đồng, xung đột về lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể có liên quan đến lĩnh vực hợp đồng thương mại hoặc
các hoạt động kinh tế khác mà theo quy định pháp luật là tranh chấp thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan tài phán kinh tế.
Nội dung khái niệm tranh chấp trong thương mại bao hàm những nội dung:
Thứ nhất, là những bất đồng, xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ
thể có liên quan đến lĩnh vực hợp đồng thương mại;
Thứ hai, là tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng thương mại
hoặc các hoạt động kinh tế khác
Thứ ba, theo quy định pháp luật những tranh chấp này thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan tài phán kinh tế (Tòa án hoặc trọng tài).
1.1.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp có thể hiểu là việc dàn xếp, giải quyết các mâu
thuẫn, bất đồng phát sinh từ quan hệ pháp luật bằng những phương thức khác
nhau do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn hoặc do pháp luật quy định.
Phương thức giải quyết tranh chấp do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn
đã được giới doanh nhân thừa nhận và sử dụng rộng rãi, đặc biệt trong lĩnh
vực thương mại là thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Nội dung của

các phương thức này cụ thể như sau:
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, hai bên
tranh chấp tự mình đàm phán, thỏa thuận về các giải pháp nhằm dàn xếp, giải
quyết ổn thỏa tranh chấp phát sinh giữa họ mà không có sự can thiệp, giúp đỡ

7


của bên thứ ba dưới bất kỳ hình thức và mức độ nào. Thương lượng là
phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất, thông dụng và phổ
biến nhất được các bên áp dụng rộng rãi để giải quyết mọi tranh chấp phát
sinh trong đời sống đặc biệt là trong hoạt động thương mại. Thương lượng có
thể được các bên áp dụng trước khi phát sinh tranh chấp. Điều này được lý
giải bởi trong thực hiện hợp đồng đã ký kết, khởi nguồn của các tranh chấp là
việc vi phạm hợp đồng. Khi một bên vi phạm hợp đồng, các bên thường gặp
gỡ, trao đổi nhằm xác định rõ ai vi phạm, vi phạm gì, mức độ nào, hậu quả
đến đâu...và nếu như quá trình này diễn ra suôn sẻ, bên vi phạm công nhận và
tự giác khắc phục hậu quả thì sẽ không phát sinh tranh chấp. Do vậy, trong
khoa học pháp lý và trong thực tiễn thường cũng có phân biệt rõ vi phạm và
tranh chấp. Quá trình thương lượng có thể kéo dài từ khi vi phạm cho đến khi
các bên hóa giải xong tranh chấp phát sinh.
- Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, hai bên
tranh chấp nhờ bên thứ ba giúp đỡ để họ gặp gỡ, thảo luận và thỏa thuận về
các giải pháp nhằm dàn xếp, giải quyết ổn thỏa tranh chấp phát sinh. Hòa giải
và trung gian hòa giải thông thường được đánh đồng với nhau. Tuy nhiên
trong thực tiễn giữa hòa giải và trung gian hòa giải cũng có những điểm khác
nhau về phương pháp tiến hành. Người đóng vai trò trung gian và hòa giải
thường đều có những cuộc tiếp xúc với các bên tranh chấp, tuy nhiên, người
trung gian thì tiếp xúc riêng với từng bên để nắm bắt quan điểm, khả năng hòa
giải của từng bên sau đó mới tổ chức buổi hòa giải. Người hòa giải (hòa giải

viên) thường gặp gỡ trực tiếp hai bên ngay từ đầu, có thể đưa ra gợi ý, đề xuất
một hoặc một vài giải pháp, phương án khác nhau để các bên suy nghĩ, thảo
luận và tự quyết định phương án nào mà họ cho là phù hợp nhất nhằm giải quyết
tranh chấp. Thỏa thuận hòa giải không có giá trị bắt buộc. Việc thi hành thỏa
thuận hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp.
Nói đến hòa giải thì cần thiết phải phân biệt hòa giải trước (tiền) tố
tụng và hòa giải trong tố tụng Hòa giải tiền tố tụng là việc hòa giải được tiến

8


hành trước khi các bên khởi kiện ra tòa hoặc gửi đơn đến trọng tài. Sau khi
nhận đơn, thụ lý đơn, Tòa án hoặc Trọng tài có nghĩa vụ hòa giải giữa các bên
để giải quyết tranh chấp. Đây là hai quá trình, hai giai đoạn khác nhau trong
giải quyết tranh chấp dân sự nói chung, trong đó có giải quyết tranh chấp
trong thương mại.
- Xét xử của tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó,
một bên tranh chấp có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp mà không
cần có sự đồng ý, thỏa thuận của bên kia. Tòa án, cụ thể là thẩm phán/hội
đồng xét xử, thụ lý và giải quyết tranh chấp theo đúng quy định của pháp luật,
bản án do tòa án tuyên có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên tranh
chấp và với mọi cá nhân, tổ chức có liên quan.
- Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, bên trung
gian thứ ba (trọng tài viên) do các bên lựa chọn sẽ đưa ra một quyết định sau
khi hai bên tranh chấp đã có cơ hội bình đẳng để trình bày các vấn đề liên
quan đến tranh chấp. Nếu quá trình trọng tài bảo đảm nguyên tắc tự nguyện,
công bằng thì quyết định của trọng tài viên có hiệu lực bắt buộc thi hành đối
với các bên. Khoản 1, Điều 3, Luật TTTM năm 2010 quy định "Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và
được tiến hành theo quy định của Luật này" [26].

1.1.3. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ, chỉ nhận giải
quyết các vụ tranh chấp khi các bên có thỏa thuận bằng văn bản về việc chọn
trọng tài. Quá trình giải quyết, được thực hiện theo nguyên tắc "phân xử trọng
tài" phù hợp với quy định trong Luật TTTM và quy chế của Tổ chức trọng tài
mà các bên đã lựa chọn.
Trọng tài cũng là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
mang tính tài phán. Không giống như tòa án quốc gia, không có hội đồng
trọng tài cố định để giải quyết tranh chấp thương mại mà ở đó cùng một số

9


trọng tài viên nhất định giải quyết nhiều vụ. Trọng tài là một phương thức giải
quyết tranh chấp tư, dựa trên thỏa thuận giữa các bên.
i) Đặc điểm của TTTM
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối
với việc giải quyết tranh chấp
Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm TTTM có ưu điểm nổi bật so
với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có giá trị
chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử thì phải 2 - 3 lần,
từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn
khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác (như Viện
kiểm sát...). Còn cách thức giải quyết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và
linh động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt
buộc đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án
hay kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán
quyết xong, Ủy ban Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và
chấm dứt sự tồn tại của mình. Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với
hoạt động đầu tư thương mại. Chính những ưu điểm đó bảo đảm rằng nếu các

bên ưu tiên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi
ro cho bên nước ngoài khi quyết định tham gia đầu tư thương mại tại Việt
Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước ngoài và cả bên Việt Nam thông qua
việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục
nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết định
trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của Tòa
án. Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế
thi hành, nên bên đương sự nào không chấp nhận phán quyết của trọng tài thì
có thể kiện ra Tòa kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án.

10


Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật
Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt.
Hầu hết pháp luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng
tài xử kín (in camera) nếu các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện
rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu
cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện
cạnh tranh.
Đây là ưu điểm đối với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết
trong vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ trước Tòa án (hoặc
công chúng) - điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động
kinh doanh của mình.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục
Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa
chọn trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong
quá trình tố tụng. Hoạt động trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài
(Ủy ban trọng tài) xét xử vụ kiện đã được các bên lựa chọn, hoặc được chỉ

định để giải quyết vụ kiện đó. Khi mang một vụ việc ra xét xử ở Tòa án, có
khả năng thẩm phán được chỉ định giải quyết vụ việc không có trình độ
chuyên môn liên quan đến đối tượng tranh chấp, đặc biệt các ngành có đặc
thù chuyên môn cao như: dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu tư, bảo hiểm…
Khi giải quyết bằng trọng tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn trọng tài viên
có trình độ chuyên môn (4) phù hợp với đối tượng tranh chấp, góp phần nâng
cao hiệu quả, công bằng và chính xác trong giải quyết tranh chấp. Trọng tài
viên - người chủ trì phân xử tranh chấp theo suốt vụ kiện từ đầu đến cuối, vì
vậy, họ có cơ hội tìm hiểu tình tiết vụ việc. Điều này có lợi ngay cả khi các
bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài
có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận.

11


Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh
chóng, linh hoạt cho các bên
Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của
Tòa án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định
trước đó. Trong khi đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa
chọn thủ tục, thời gian, địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo
phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn
khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng
hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, tiết kiệm thời gian
Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi các
bên không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng được
do luôn phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách
tắc hồ sơ.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền

kháng án cũng làm cho tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, ví dụ như giải quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo dài tối
đa là 6 tháng, còn tại Tòa án có thể kéo dài hàng năm trời.
Thứ sáu, duy trì được quan hệ đối tác
Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối
hòa khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan
hệ hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.
Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của
những bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín
đáo, nhẹ nhàng… Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được
quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi
hành quyết định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt
hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai.

12


Thứ bảy, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của
các chuyên gia
Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên
đương sự, điều mà không tồn tại ở Tòa án.
Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu
biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực
chuyên ngành có tính chuyên sâu như chứng khoán, licensing, leasing, xuất
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ…
Thứ tám, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một
tổ chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Tòa án
trên các mặt sau:
Xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại
về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp

tạm thời; xét đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài; công nhận và thi hành
quyết định trọng tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một
bên bị xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm: bảo toàn chứng cứ trong trường
hợp chứng cứ bị tiêu hủy hoặc có nguy cơ bị tiêu hủy; kê biên tài sản tranh
chấp để ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
cấm thay đổi hiện trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản
ở nơi gửi giữ; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng.
Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan trọng tài
rộng hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện cho các bên làm
sáng tỏ những vấn đề nhạy cảm. Trong khi đó, Tòa án áp dụng các chứng cứ
để tố tụng bị ràng buộc hơn về mặt pháp lý, làm cho các bên tham gia tố tụng
không có cơ hội làm sáng tỏ hết được nhiều vấn đề khúc mắc, không thể hiện
trên các chứng cứ "pháp lý".

13


(ii) Các hình thức tổ chức TTTM
Theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như quốc tế, hiện có hai
hình thức trọng tài được sử dụng là Trọng tài vụ việc và Trọng tài quy chế. Tùy
thuộc vào ý chí, điều kiện thực tế, thói quen hay nội dung của tranh chấp, các
bên đương sự sẽ quyết định lựa chọn cho mình một hình thức trọng tài phù hợp.
Trọng tài vụ việc
Trong trọng tài vụ việc, các bên tự chịu trách nhiệm thành lập hội
đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp và phải quy định các quy tắc sẽ điều
chỉnh cách thức tiến hành tố tụng trọng tài. Khi gặp khó khăn, đôi khi các bên
có thể nhờ một tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp. Bởi các bên tự tiến
hành trọng tài vụ việc nên họ phải thỏa thuận trực tiếp vấn đề thù lao và chi

phí với trọng tài viên.
Trọng tài quy chế
Trong trọng tài quy chế, các bên nhờ một trung tâm trọng tài hoặc một
tổ chức trọng tài quy chế giám sát tố tụng theo quy tắc tố tụng trọng tài của tổ
chức đó.
Mức độ giám sát tố tụng trọng tài của mỗi tổ chức là khác nhau. Nói
chung, tổ chức trọng tài quy chế giám sát một phần tố tụng trọng tài, và giới
hạn sự trợ giúp trong việc thành lập hội đồng trọng tài (chỉ định các trọng tài
viên), dựa trên nguyện vọng của các bên cũng như các quy tắc tố tụng trọng
tài của chính tổ chức đó.
Tổ chức trọng tài có thể thông báo đơn kiện cho bên kia và yêu cầu
bên đó trình bày rõ quan điểm về vụ kiện và việc thành lập hội đồng trọng tài.
Đôi khi, tổ chức trọng tài có quyền ấn định một khoản tiền ước tính đủ để trả
chi phí trọng tài, có quyền yêu cầu các bên thanh toán và khi kết thúc tố tụng,
có quyền quyết định các chi phí cuối cùng. Tổ chức trọng tài quy chế cũng có
thể giám sát quá trình thông báo cho các bên về quyết định được hội đồng

14


trọng tài ban hành. Tuy nhiên, tổ chức trọng tài quy chế cũng có thể không
thực hiện nhiều công việc như vậy. Loại trọng tài này thường được coi là
trọng tài được giám sát một phần.
Trọng tài quy chế cũng có thể là trọng tài được giám sát toàn bộ.
Trong trường hợp này, tổ chức trọng tài không chỉ chịu trách nhiệm nhận đơn
kiện và thông báo cho bên kia, mà còn thành lập hội đồng trọng tài, ấn định
khoản phí ứng trước và có thể còn xác định địa điểm tiến hành trọng tài. Như
vậy, tổ chức trọng tài giám sát toàn bộ quá trình tố tụng và sẽ giải quyết một
số khó khăn nhất định chẳng hạn như quyết định thay thế các trọng tài viên
thiên vị. Đôi khi, tổ chức trọng tài quy chế thậm chí phải bảo đảm nội dung

quyết định trọng tài được chấp nhận về mặt bố cục và có thể lưu ý trọng tài
viên vào một số điểm của nội dung vụ kiện. Tổ chức trọng tài còn giám sát cả
việc thông báo quyết định trọng tài cho các bên và sau khi đã ấn định phí
trọng tài, tổ chức trọng tài bảo đảm các trọng tài viên được trả thù lao. Tóm
lại, tổ chức trọng tài bảo đảm các trọng tài viên được trả thù lao và bảo đảm
các bước của tố tụng trọng tài của tổ chức đó.
iii) Tố tụng TTTM
Trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc là những phương pháp khác biệt
của quá trình tố tụng. Các bên trong trọng tài vụ việc thiết lập quy tắc tố tụng
riêng mà họ cho là có thể phù hợp với diễn biến và sự việc của vụ tranh chấp,
trong khi đó các bên trong trọng tài quy chế phải tiến hành trọng tài theo các
trình tự của tổ chức trọng tài mà các bên lựa chọn.
Tuy nhiên, quy tắc chung là "không có thỏa thuận giải quyết bằng
phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài". Trừ một số ngoại lệ, các
bên phải thỏa thuận trong hợp đồng sử dụng phương thức trọng tài, và quy
định chi tiết các quy tắc điều chỉnh quá trình tố tụng (chỉ định trọng tài
viên…) hoặc sử dụng các quy tắc tố tụng trọng tài dưới sự giám sát của một
tổ chức trọng tài quy chế. Trong trọng tài vụ việc, các bên tự quyết định tố

15


tụng trọng tài sẽ được tiến hành như thế nào và không có sự trợ giúp của tổ
chức trọng tài quy chế. Trong trọng tài quy chế (cũng được coi như trọng tài
được giám sát), tố tụng trọng tài được tiến hành với sự trợ giúp của một tổ
chức trọng tài quy chế.
Tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các bên, cách thức tiến hành tố tụng
trọng tài có thể khác hoặc không khác với cách thức tiến hành tố tụng tại một
tòa án quốc gia. Tuy nhiên, tự các bên (hoặc tổ chức trọng tài quy chế, hoặc
bất kỳ bên thứ ba nào khác được các bên chỉ định) tự thành lập hội đồng trọng

tài. Hơn nữa, các quy tắc tố tụng trọng tài thường linh hoạt hơn và ít nghi thức
hơn các quy tắc của pháp luật quốc gia.
Luật TTTM 2010 đã quy định khá chặt chẽ các giai đoạn tố tụng của
trọng tài. Có thể tóm tắt tố tụng trọng tài sẽ gồm các bước sau đây:
- Bước thứ nhất: Gửi đơn khởi kiện
- Bước thứ hai: Thành lập Hội đồng trọng tài
- Bước thứ ba: Nghiên cứu hồ sơ
- Bước thứ tư: Mở phiên họp trọng tài: Phiên họp giải quyết tranh
chấp (không công khai)
- Bước thứ năm: ban hành phán quyết trọng tài.
Trong phạm vi của luận văn, những nội dung cụ thể liên quan tới thủ tục
trọng tài vụ việc sẽ được đề cập một cách cụ thể và chi tiết hơn ở chương sau.
1.2. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc
1.2.1 . Trọng tài vụ việc (Trọng tài ad-hoc) là gì?
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về thuật ngữ "Trọng tài vụ việc".
"Trọng tài vụ việc" có thể được hiểu là hình thức trọng tài được lập ra theo
yêu cầu của các đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể
khi tranh chấp đó đã được giải quyết.

16


Trọng tài vụ việc có nghĩa là trọng tài không được tiến hành
theo quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực. Do các bên
không bắt buộc phải tiến hành trọng tài theo quy tắc của một tổ
chức trọng tài thường trực, họ có thể tự do quy định quy tắc tố tụng
riêng. Nói cách khác, trọng tài vụ việc là trọng tài tự tiến hành (do it
yourself arbitration) [49].
Theo Khoản 7 Điều 3 Luật TTTM năm 2010 thì ‘Trọng tài vụ việc là
hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục

do các bên thỏa thuận" [26].
Địa điểm tổ chức trọng tài vụ việc giữ vai trò vô cùng quan trọng bởi
hầu hết các khó khăn liên quan đến tiến hành trọng tài vụ việc sẽ phải giải
quyết theo luật quốc gia của nơi tiến hành trọng tài. Chẳng hạn như khi các
bên đã thỏa thuận sẽ tiến hành trọng tài vụ việc trước một hoặc ba trọng tài
viên và một bên không tham gia vào tố tụng trọng tài. Vậy sẽ chỉ định bao
nhiêu trọng tài viên? Câu trả lời phụ thuộc chủ yếu vào nơi sẽ diễn ra tố tụng
trọng tài.
Ví dụ, nếu nơi tiến hành trọng tài là Ấn Độ, theo Luật Trọng tài Ấn độ
năm 1996, nếu các bên không quyết định được số lượng trọng tài viên thì Hội
đồng trọng tài sẽ chỉ có một trọng tài viên. Trọng tài viên đó sẽ được chỉ định bởi
Chánh án Tòa án Tối cao Ấn Độ hoặc Chánh án một Tòa án Phúc thẩm Ấn Độ.
Nếu nơi tiến hành trọng tài là Cairo, theo Luật Trọng tài Ai Cập năm
1994, các bên không quyết định được số lượng trọng tài viên thì số lượng
trọng tài viên là ba người và Tòa thượng thẩm Cairo sẽ chỉ định trọng tài viên
cho bên không chỉ định được. Hai trọng tài viên sẽ có 30 ngày để chỉ định
trọng tài viên thứ ba; nếu họ không chỉ định được, Tòa thượng thẩm Cairo sẽ
chỉ định trọng tài viên thứ ba.
Bởi các bên trong trọng tài vụ việc không áp dụng quy tắc của bất kỳ
tổ chức trọng tài quy chế nào, họ nên xác định luật áp dụng càng cụ thể càng

17


tốt nhằm tránh sự gián đoạn trong khi tiến hành tố tụng trọng tài. Các bên nên
quy định hội đồng trọng tài sẽ được thành lập như thế nào, tố tụng trọng tài sẽ
diễn ra ở đâu, và thời hạn (cùng với khoảng gia hạn có thể) để ban hành quyết
định trọng tài. Các bên cũng phải thỏa thuận với trọng tài viên được chỉ định
về các khoản thù lao.
1.2.2 . Đặc điểm của trọng tài vụ việc

Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa
thuận thành lập để giải quyết tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm
dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ việc. Đối với trọng tài vụ việc, Ủy ban trọng
tài là do các bên hoặc do đại diện của các bên chỉ định. Sau khi Ủy ban trọng
tài được thành lập, việc phân xử sẽ do Ủy ban trọng tài thực hiện và các bên
không được tham gia vào việc phân xử đó.
Ví dụ về trọng tài vụ việc có thể lấy ngay trong các Hiệp định trong
khuôn khổ ASEAN cộng, trong đó các bên quy định khi có tranh chấp phát
sinh, tranh chấp có thể được đưa ra một Ủy ban trọng tài (thường gồm 3 thành
viên, mỗi thành viên đại diện cho một bên tranh chấp (2) và thành viên thứ ba
làm Chủ tịch Ủy ban trọng tài) phân xử. Nội dung này sẽ được đề cập sâu hơn
ở phần sau của đề tài.
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản
sau đây:
- Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự
chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
- Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều
hành (vì chỉ được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thỏa thuận của
các bên) và không có danh sách trọng tài viên riêng.
- Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.

18


1.2.3. Trọng tài vụ việc - ưu điểm và nhược điểm
Trọng tài vụ việc có một số ưu điểm và nhược điểm cơ bản sau đây:
i) Ưu điểm
Một là, ưu điểm cơ bản của hình thức Trọng tài vụ việc đó là quyền tự
định đoạt của các bên là rất lớn. Thủ tục giải quyết của Trọng tài vụ việc hoàn
toàn do các bên tự thỏa thuận cho riêng họ và các Trọng tài viên phải tuân theo.

Điều này đòi hỏi sự hợp tác của các bên để thực hiện một cách đầy đủ và hiệu
quả vì các bên phải thỏa thuận chi tiết về việc tiến hành quá trình tố tụng.
Hai là, việc tiến hành Trọng tài vụ việc có chi phí thấp và thời gian
giải quyết nhanh. Với việc lựa chọn hình thức trọng tài này, các bên sẽ không
phải trả thêm các khoản chi phí hành chính cho các trung tâm trọng tài (thông
thường khoản chi phí này không nhỏ). Ví dụ, theo Quy tắc tố tụng của Tòa án
Trọng tài quốc tế ICC, khi nộp đơn kiện, Nguyên đơn phải nộp một khoản phí
đăng ký là 2.500 USD và khoản phí này sẽ không được hoàn lại trong bất kỳ
điều kiện nào. Mức phí hành chính tối đa mà ICC yêu cầu "các bên phải nộp
có thể lên tới 75.800 USD" [34]. Theo Quy tắc tố tụng của Viện trọng tài
Stockhoml, Thụy Điển, "khi nộp đơn kiện, Nguyên đơn cũng phải nộp một
khoản phí đăng ký là 1.500 Euro và khoản phí này sẽ không được hoàn lại
trong bất kỳ trường hợp nào" [35].
Ngoài ra, đối với Trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận bỏ qua
một số thủ tục tố tụng không cần thiết để rút ngắn thời gian giải quyết vụ
tranh chấp.
ii) Nhược điểm
Nhược điểm lớn nhất của Trọng tài vụ việc (có thể là yếu tố bất lợi
nghiêm trọng) đó là phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu
một bên không có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn,
và nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì không có
quy tắc tố tụng nào được áp dụng.

19


Tiếp theo trong Trọng tài vụ việc, không có tổ chức nào giám sát việc
tiến hành trọng tài và giám sát các Trọng tài viên. Vì vậy, kết quả phần lớn
phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố tụng
của các Trọng tài viên. Cả Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận

được sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng tài thường trực trong
trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các
Trọng tài viên không thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các
bên có thể nhận được là từ các Tòa án.
Do vậy, chỉ khi có tồn tại một Hội đồng Trọng tài và một quy tắc tố
tụng cụ thể được xác lập thì quá trình tố tụng mới có thể tiến hành được suôn
sẻ như Trọng tài quy chế trong trường hợp một bên từ chối không tham gia
vào quá trình tố tụng.
iii) Trọng tài vụ việc có nhanh hơn và ít tốn kém hơn trọng tài quy
chế không?
Các bên thường có khuynh hướng lựa chọn trọng tài vụ việc để tránh
chi phí tăng thêm và sự trì hoãn có thể xảy ra (tùy từng trường hợp) liên quan
đến việc áp dụng quy tắc của một số tổ chức trọng tài quy chế. Tuy nhiên,
trọng tài vụ việc không phải bao giờ cũng là trọng tài nhanh hơn và ít tốn kém
hơn. Lý do được lý giải là vì không có tổ chức trọng tài quy chế nào đặt ra và
giám sát thời hạn và không có biểu phí cố định cho trọng tài vụ việc, các bên
sẽ phải thỏa thuận trực tiếp các vấn đề này với trọng tài viên. Vì vậy, các bên
có thể phải thỏa thuận mức thù lao theo giờ với các trọng tài viên, và kết quả
là tổng chi phí cuối cùng có thể cao hơn số tiền các bên phải trả nếu đưa tranh
chấp ra giải quyết theo quy tắc của một tổ chức trọng tài quy chế.
iv) Liệu các bên có thể nhận được trợ giúp trong trọng tài vụ việc không?
Mặc dù các bên trong trọng tài vụ việc không đưa tranh chấp ra giải
quyết theo quy tắc của bất kỳ tổ chức trọng tài quy chế nào, các bên vẫn có
thể nhờ một tổ chức trọng tài quy chế hoặc một tổ chức nào đó, vì dụ như một

20


phòng thương mại, hoặc người đứng đầu hoặc chánh án một tòa án quốc gia
(hành động với tư cách cá nhân) làm "cơ quan có thẩm quyền chỉ định".

Thỏa thuận như vậy có lợi là nếu một trong các bên không tham gia
thành lập hội đồng trọng tài, hoặc nếu không đạt được thỏa thuận về phương
pháp lựa chọn trọng tài viên (hoặc chọn những người sẽ được chọn làm trọng
tài viên), các bên không phải nhờ một tòa án quốc gia - với tất cả các quy định
thủ tục có thể bắt buộc phải tuân theo - chỉ định một hoặc nhiều trọng tài viên.
Tổ chức trọng tài quy chế hoặc một tổ chức nào đó làm cơ quan có
thẩm quyền chỉ định sẽ giải quyết vấn đề thành lập hội đồng trọng tài một
cách nhanh chóng giống như vụ kiện được tiến hành theo quy tắc trọng tài
quy chế sẽ yêu cầu trả một khoản phí nhất định cho việc chỉ định.
Tóm lại, nếu các bên không quy định quy tắc áp dụng cho việc tổ chức
và tiến hành tố tụng trọng tài, họ sẽ bị ràng buộc bởi quy tắc tố tụng trọng tài
và quy định thủ tục của quốc gia nơi diễn ra tố tụng trọng tài.
1.2.4 . Khi nào nên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc
Với những ưu điểm và nhược điểm như đã phân tích ở trên, các doanh
nghiệp sẽ đặt câu hỏi "Vậy khi nào nên sử dụng trọng tài vụ việc?". Trên thế
giới cũng như tại Việt Nam, khi quyết định giải quyết tranh chấp trong thương
mại bằng trọng tài, các doanh nghiệp thường lựa chọn trọng tài quy chế nhiều
hơn trọng tài vụ việc. Theo một cuộc khảo sát gần đây, "trong 10 năm trở lại
đây có đến 86% các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài quy chế so với
14% các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài vụ việc" [38]. Tuy nhiên,
theo phân tích thì trọng tài vụ việc cũng có những nhiều ưu điểm so với trọng
tài quy chế, và khuyến nghị các doanh nghiệp nên lựa chọn sử dụng trọng tài
vụ việc để giải quyết tranh chấp giữa các bên nếu:
- Doanh nghiệp đó hoặc tranh chấp đó không cần đến một tổ chức
đứng ra giải quyết;

21


- Doanh nghiệp có chuyên gia tư vấn pháp lý thông thái;

- Các tranh chấp nhỏ, ít phức tạp;
- Doanh nghiệp muốn tiết kiệm chi phí.
1.3. Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của một số nước
1.3.1 . Trọng tài là một loại cơ quan tài phán tư
Ở các nước có nền kinh tế thị trường, các tranh chấp trong kinh doanh
không chỉ được giải quyết bằng tòa án mà còn được giải quyết bằng nhiều
phương tiện khác, trong đó có trọng tài. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Hội đồng trọng
tài/trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập do các bên tranh chấp
thành lập nhằm giải quyết mâu thuẫn, bất đồng phát sinh giữa họ với nhau
bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành. Nếu
như tòa án là cơ quan tài phán nhà nước, được thay mặt Nhà nước đứng ra xét
xử, giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các tổ chức, cá nhân trong xã hội thì
ngược lại, trọng tài không phải là một cơ quan nhà nước, quyền lực của trọng
tài không mang tính chất nhà nước mà được hình thành trên cơ sở ý chí của
các bên tranh chấp. Quyền lực của trọng tài là "quyền lực hợp đồng" hay
"quyền lực đại diện", do các bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm, vì vậy, phán
quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước mà mang tính đại
diện cho ý chí của các bên tranh chấp.
Như vậy, trọng tài là cơ quan tài phán có quyền lực theo ủy quyền của
các bên tranh chấp, do đó, thường được gọi là cơ quan "tài phán tư". Sự ủy
quyền này được thực hiện thông qua một công cụ gọi là "thỏa thuận trọng
tài". Thỏa thuận trọng tài là sự nhất trí của các bên về việc đưa ra trọng tài
giải quyết tất cả hoặc một số tranh chấp phát sinh. Thông qua thỏa thuận trọng
tài, TTTM được các bên tranh chấp tin tưởng và giao cho quyền thay mặt các
bên tranh chấp trong việc xem xét nội dung tranh chấp và đưa ra phán quyết.

22



Vì vậy, muốn đưa một tranh chấp ra trọng tài giải quyết thì trước hoặc sau khi
phát sinh tranh chấp các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Điều đó có nghĩa là,
cơ quan trọng tài chỉ được giải quyết các vụ tranh chấp thương mại trên cơ sở
có sự thỏa thuận của các bên và chỉ khi vụ việc tranh chấp được các bên yêu
cầu đưa ra cơ quan trọng tài nào thì cơ quan trọng tài đó mới được thụ lý và
giải quyết. Đây chính là nguyên tắc quan trọng của tố tụng trọng tài thể hiện
rõ nhất tính chất tài phán tư của hình thức giải quyết tranh chấp này.
1.3.2. Thẩm quyền của trọng tài trong việc giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ hoạt động thương mại
Trọng tài là một loại hình cơ quan tài phán, do đó, vấn đề đầu tiên mà
Nhà nước nào cũng phải quan tâm giải quyết là vấn đề về thẩm quyền của
trọng tài. Trong lịch sử, trọng tài đã được sử dụng để giải quyết nhiều loại
tranh chấp khác nhau: tranh chấp giữa các quốc gia, tranh chấp thương mại và
tranh chấp lao động. Tuy nhiên, theo xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thế giới thì trọng tài được thành lập chủ yếu để giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Tùy theo quan điểm của mỗi nước,
mà thẩm quyền của trọng tài có thể được quy định khác nhau, nhưng có một
điểm chung nhất là pháp luật trọng tài các nước đều thừa nhận trọng tài là một
phương thức phổ biến và hữu hiệu trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại. Điều 2 Luật Trọng tài Trung Quốc thừa nhận:
"Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng và các tranh chấp liên quan tới quyền
sở hữu và các lợi ích phát sinh giữa các chủ thể dân sự có địa vị pháp lý
ngang nhau, như giữa các công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác có thể được
giải quyết bằng trọng tài" [25]; Điều 1 Luật Trọng tài Thụy Điển quy định:
"Mọi tranh chấp liên quan đến một vụ việc dân sự cũng như việc bồi thường
thiệt hại do hành vi tội phạm có thể được các bên thỏa thuận giải quyết bởi
một hoặc các trọng tài viên" [23]. Như vậy, phạm vi giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài rất rộng, bao gồm hầu như mọi tranh chấp phát sinh giữa các
chủ thể có địa vị pháp lý ngang bằng nhau.


23


1.3.3. Về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài thể hiện sự nhất trí của các bên cùng đưa tranh
chấp ra trọng tài giải quyết theo một quy tắc của tổ chức trọng tài nhất định
đưa ra. Đây là cơ sở cho các bên tiến hành giải quyết bằng trọng tài cũng như
giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình trọng tài. Thỏa thuận trọng tài
có hiệu lực không chỉ là hình thức pháp lý ghi nhận sự thảo thuận của các
bên, mà còn là căn cứ pháp lý để dựa vào đó bên vi phạm có quyền yêu cầu
bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ thỏa thuận. Vì thỏa thuận trọng tài có vị
trí, vai trò quan trọng mang tính quyết định đối với việc áp dụng phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nên pháp luật các nước cũng như pháp
luật quốc tế đều dành cho thỏa thuận trọng tài một sự quan tâm đặc biệt, thể
hiện ở chỗ, trong các đạo luật về trọng tài thường có một chương riêng,
thường là Chương II, để quy định về vấn đề này (Luật TTTM quốc tế Liên
bang Nga 1993; Luật Trọng tài Canada 1986; Luật Trọng tài Đức 1998; Luật
Trọng tài Croatia 2001; Luật Trọng tài Nhật Bản 2003; Luật Trọng tài
Singapore 2001). Điều này cho thấy vị trí của thỏa thuận trọng tài vô cùng
quan trọng. Tuy nhiên, các quy định về thỏa thuận trọng tài phải rõ ràng, đầy
đủ thì mới tạo cơ sở cho việc tiến hành trọng tài một cách thuận lợi.
Theo quy định của Luật TTTM 2010 thì một thỏa thuận trọng tài sẽ
có hiệu lực khi các bên tranh chấp đã thỏa thuận bằng văn bản đưa tranh chấp
của họ ra giải quyết bằng trọng tài. Điều này có khác với quan điểm của một vài
nước khác của hệ thống luật án lệ. Ví dụ ở Australia, thỏa thuận trọng tài có thể
là thỏa thuận miệng. Tương tự, theo luật án lệ, một thỏa thuận bằng miệng có thể
được thi hành ở Hồng Kông hoặc ở Anh. Ở một số nước khác, ví dụ, Đan Mạch,
Thụy Điển, thỏa thuận trọng tài không nhất thiết phải được làm bằng văn bản.
1.3.4. Về sự giám sát của tòa án đối với trọng tài trong quá trình
giải quyết vụ việc

Do bản chất phi chính phủ của mình, nên trọng tài không thể có tính
quyền lực nhà nước để thực hiện một số công việc phát sinh trong quá trình

24


×