Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Ths luật giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cơ quan hành chính ở thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.88 KB, 105 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
ở mục 1 phần IX của Báo cáo Chính trị đã ghi: "Nhà nước là công cụ chủ yếu để
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân", "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ,
công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật".
Để có được "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân" ở nước ta hiện
nay, điều quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công
chức vừa có đức vừa có tài. Đó là những con người có bản lĩnh chính trị vững vàng
trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng
cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có ý thức và
năng lực đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, nắm vững chính sách
và pháp luật của Nhà nước. Giáo dục ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý, hình thành
lối sống theo pháp luật là một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với mọi nhà nước
trong quá trình phát triển. Điều 12 Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định: "Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN". Trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, ngoài các tiêu chí
như hệ thống pháp luật phải đầy đủ, pháp luật phải nhân đạo, vì con người… thì
yêu cầu giáo dục ý thức pháp luật là một nội dung quan trọng. Điều này không chỉ
góp phần khắc phục những tiêu cực của xã hội do ý thức pháp luật kém gây ra, mà
còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng một xã hội trật tự, ổn định và phát
triển.
Để quản lý được Nhà nước và xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí của một nhà
nước pháp quyền, cán bộ, công chức phải được trang bị những kiến thức về nhà
nước và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời. Nhưng hiện nay, qua các phương
tiện thông tin đại chúng cho thấy: ở nhiều địa phương, việc vi phạm pháp luật, làm
trái pháp luật của cán bộ, công chức không phải là ít. Trong nhiều nguyên nhân dẫn
đến sự vi phạm đó, có một nguyên nhân cơ bản, đó là cán bộ, công chức chưa nắm
vững kiến thức về nhà nước và pháp luật.
1




Ở Thành phố Hà Nội, những năm gần đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức nói chung, đào tạo, bồi
dưỡng, giáo dục pháp luật nói riêng đã được cấp ủy Đảng và chính quyền địa
phương quan tâm hơn. Việc mở các lớp đào tạo cán bộ, công chức tại Thành phố
và tham gia thi tuyển, cử tuyển cán bộ, công chức đi học ở các cơ sở đào tạo
chuyên ngành về nhà nước và pháp luật ngày càng nhiều hơn. Tuy vậy, việc đào
tạo, bồi dưỡng, giáo dục ý thức pháp luật để đáp ứng yêu cầu của công tác quản
lý nhà nước và quản lý xã hội cho đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay đang còn
là vấn đề bức xúc. Làm thế nào để tất cả cán bộ, công chức trong các cơ quan
hành chính sự nghiệp của Thành phố Hà Nội khi đã tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội phải nắm bắt, am hiểu pháp luật một cách chặt chẽ, áp dụng pháp
luật một cách đúng đắn, trước hết là trong lĩnh vực mình quản lý, là một vấn đề
hết sức quan trọng.
Qua hai năm học tập, nghiên cứu tại Khoa Luật, trường Đại học Quốc gia Hà
Nội, kết hợp giữa lý luận đã học và thực tiễn, tôi lựa chọn đề tài: " Giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức cơ quan hành chính ở Thành phố Hà Nội hiện nay "
làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào công tác giáo
dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Thành phố Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu:
Giáo dục pháp luật là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý quan tâm.
Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố, như: "Nâng cao ý
thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước hiện nay", Luận
án tiến sĩ của Lê Đình Khiên, 1993; "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật",
Đào Trí úc chủ biên, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục
pháp luật trong công cuộc đổi mới", của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ
Tư pháp, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân
tộc thiểu số", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; "Giáo dục pháp luật trong

các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở
nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học của Đinh Xuân Thảo, 1996; "Giáo dục
2


pháp luật qua hoạt động tư pháp - hình thức đặc thù của giáo dục pháp luật",
Luận án tiến sĩ của Dương Thanh Mai, 1996; "Công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật ở nước ta - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng,
1997; "Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay", của Vụ Phổ
biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; "Đổi mới giáo dục
pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta hiện nay", Đề tài khoa học
cấp Bộ, Khoa Nhà nước pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
1999; "Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện
nay", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000. Đề tài "Cơ sở khoa học
của việc xây dựng ý thức và lối sống theo luật pháp" trong chương trình khoa học
công nghệ cấp Nhà nước KX-07; ; tác giả Đào Duy Tấn trong luận án tiến sĩ triết
học "Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện
nay", Hà Nội 2000. Một số bài viết trên các tạp chí, như: "Làm thế nào để xây
dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật", tác giả Đào Trí Úc - Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 4/1993; "Xây dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ
lịch sử truyền thống" của tác giả Vũ Minh Giang, tạp chí Nhà nước và pháp luật
1993… Các giáo trình: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Luật hành chính
của các cơ sở đào tạo luật học, hành chính cũng có một số chương đề cập đến vấn
đề ý thức pháp luật.
Các công trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực
tiễn trong hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, có thể nói
rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ
thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói chung và Thành phố Hà Nội
nói riêng. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống vấn đề này trên địa
bàn Thành phố Hà Nội. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn kế thừa có chọn lọc

kết quả nghiên cứu của các công trình, tài liệu khoa học trên và các tài liệu khác có
liên quan. Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu một cách hệ thống việc giáo dục ý
thức pháp luật nói chung và trong đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ quan hành chính
sự nghiệp của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.

3


3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Thực hiện đề tài này, luận văn đặt ra những mục đích nghiên cứu:
Đánh giá đúng thực trạng và xác định được phương hướng, giải pháp nhằm bổ
sung, hoàn thiện việc giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức trong cơ
quan hành chính sự nghiệp của Thành phố Hà Nội hiện nay.
3.2. Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận chung về giáo dục pháp luật;
- Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở
Thành phố Hà Nội;
- Từ thực trạng đó, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường
hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan
hành chính ở Thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Trên địa bàn Thành phố Hà Nội, ngoài cán bộ, công chức trong hệ thống
chính trị ở địa phương còn có các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn. Luận văn
này chỉ tập trung chủ yếu nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường
giáo dục ý thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính
của Thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử...). Trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng những
phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, tiếp cận hệ

thống...
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giáo
dục pháp luật cho cán bộ công chức cơ quan hành chính; đánh giá về thực trạng,
tìm ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp cơ bản trong công tác xây dựng ý
thức pháp luật. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho học tập,
giảng dạy về nhà nước và pháp luật tại các cơ sở đào tạo.
4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03
chương:
Chương 1 - Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành
chính.
Chương 2 - Thực trạng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong các
cơ quan hành chính ở Thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3 - Phương hướng và giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho
cán bộ, công chức hành chính ở Thành phố Hà Nội

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
1.1. Khái quát về giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật và giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức hành chính
Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay còn nhiều mặt chưa

đáp ứng được yêu cầu đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức còn có
những hạn chế nhất định, chưa theo kịp và chưa được nâng tầm tương xứng với sự
đổi mới của hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, giáo dục pháp luật cho cán bộ công
chức hành chính là một biện pháp hữu hiệu nhằm trang bị kiến thức, hiểu biết pháp
luật, nâng cao ý thức pháp luật, hình thành lối sống và làm việc theo pháp luật cho
cán bộ, công chức hành chính; góp phần bảo đảm cho Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật có hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong
sạch, vững mạnh.
Xây dựng nền hành chính Việt Nam trong sạch, vững mạnh là một tất yếu
khách quan trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Nền hành chính đó đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ công chức hành chính
không chỉ vững vàng về bản lĩnh chính trị, có đạo đức, lối sống lành mạnh, mà còn
phải có kiến thức, hiểu biết pháp luật ở trình độ cao và tinh thông nghiệp vụ. Cán
bộ, công chức hành chính là khâu chủ yếu thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, chính sách của Nhà
nước phải được cán bộ, công chức hành chính triển khai thì mới có thể đi vào trong
đời sống xã hội được. Cán bộ, công chức hành chính là những người trực tiếp
chuyển “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động”. Vì vậy, đội ngũ
cán bộ, công chức hành chính phải được trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật và
có ý thức pháp luật ở trình độ cao để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng cho cán bộ,
công chức hành chính nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng và được coi là một bộ
6


phận của quá trình giáo dục tổng thể. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ
chức, cán bộ, công chức và mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và
pháp luật”. Để mọi người dân và cán bộ, công chức hành chính có ý thức pháp

luật, biết sống và làm việc theo pháp luật thì vấn đề giáo dục pháp luật phải được
đặt ra một cách nghiêm túc và phải được giải quyết đúng đắn cả về mặt lý luận
cũng như thực tiễn.
Hiện nay, khái niệm giáo dục pháp luật được tiếp cận từ nhiều góc độ rộng,
hẹp khác nhau tùy theo cơ sở xuất phát để nghiên cứu và vận dụng vào quá trình
giáo dục pháp luật cụ thể.
Thứ nhất, giáo dục pháp luật được coi là một bộ phận - một hệ thống con của
hệ thống giáo dục nói chung. Giáo dục pháp luật được khẳng định là một bộ phận,
một hoạt động có tính độc lập tương đối và có mối quan hệ tương hỗ với các hệ
thống con như kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức... tạo nên một hệ thống các mối
quan hệ xã hội tác động đến các cá nhân, làm hình thành nên bản chất người - xã
hội - lịch sử. Quan niệm này về giáo dục pháp luật xuất phát từ nghĩa rộng nhất của
thuật ngữ giáo dục, đồng nhất nó với quá trình xã hội hóa cá nhân. Nhân cách con
người được hình thành và phát triển là do tác động, ảnh hưởng của tổ hợp các nhân
tố xã hội, như môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, pháp luật, đạo đức...
trong quá trình con người tham gia vào các quan hệ xã hội. Quan niệm giáo dục
pháp luật theo nghĩa rộng này có hai ý nghĩa quan trọng sau đây:
Một là, thấy được quá trình xã hội hóa cá nhân nói chung và giáo dục pháp
luật nói riêng chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố xã hội. Chủ thể giáo dục
có thể chủ động khai thác, phát huy các yếu tố tích cực và hạn chế ảnh hưởng của
các yếu tố tiêu cực, có tính tự phát, làm hạn chế hoặc suy giảm hiệu quả của giáo
dục pháp luật trong thực tiễn hiện nay.
Hai là, không đồng nhất, không coi giáo dục pháp luật đã có trong giáo dục
chính trị, giáo dục đạo đức, do đó đã hạ thấp vai trò của giáo dục pháp luật. Ví dụ,
quan niệm đạo đức là pháp luật tối đa, còn pháp luật chỉ là đạo đức tối thiểu nên
không cần phải giáo dục pháp luật, mọi người dân phải có nghĩa vụ chấp hành
7


pháp luật. Quan niệm như vậy rõ ràng là đã bó hẹp phạm vi của giáo dục pháp luật,

coi giáo dục pháp luật chỉ còn là việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật
của Nhà nước, là việc mọi công dân phải chấp hành pháp luật.
Thứ hai, giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp là quá trình tác động (hoạt động) có
mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của nhà giáo dục (chủ thể giáo dục pháp luật) để
chuyển tải, truyền đạt những nội dung (thông tin, tri thức về các bộ luật, đạo luật...),
thông qua các phương pháp giáo dục khoa học và hình thức giáo dục phù hợp tới đối
tượng tiếp nhận giáo dục (khách thể giáo dục pháp luật) nhằm đạt được những mục
tiêu, hiệu quả giáo dục nhất định.
Theo nghĩa hẹp nói trên, có thể định nghĩa: Giáo dục pháp luật là quá trình
tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua những
phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể giáo dục đến khách thể giáo dục
nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu
biết (nhận thức) về pháp luật, tình cảm, thói quen và hành vi xử sự theo các chuẩn
mực pháp luật.
Nội dung định nghĩa giáo dục pháp luật nêu trên đề cập đến những khía cạnh
sau:
- Hoạt động giáo dục pháp luật là hoạt động có mục đích (chỉ bao hàm những
tác động mang tính chất tự giác) của chủ thể giáo dục pháp luật lên đối tượng (cá
nhân, tổ chức) cần và được giáo dục pháp luật với các nội dung, nhiệm vụ cụ thể
khác nhau. Tính có mục đích trong hoạt động của chủ thể giáo dục pháp luật mang
tính khách quan, thể hiện những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội về pháp luật, được chủ
thể giáo dục pháp luật chuyển tải và biến nó thành nhu cầu, động cơ bên trong của
đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật. Quá trình giáo dục pháp luật chỉ đạt được
hiệu quả khi đối tượng được giáo dục pháp luật thực sự tự giác biến những yêu cầu
pháp luật khách quan thành nhu cầu nội tại của bản thân người được giáo dục
pháp luật.
- Quá trình giáo dục pháp luật luôn luôn là hoạt động có tổ chức, có kế hoạch,
tuân theo nội dung và chương trình nhất định, dựa trên các phương pháp giáo dục
khoa học, hiện đại và các hình thức giáo dục phù hợp nhằm hiện thực hóa tối ưu
8



mục đích giáo dục pháp luật đã định. Khía cạnh này của khái niệm giáo dục pháp
luật có một số vấn đề cần lưu ý: giáo dục pháp luật có những điểm chung của quá
trình giáo dục, như cũng có nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức tổ
chức..., nhưng chúng chưa được xác định thật sự rõ ràng, ổn định trong một hệ
thống. Điều đó đòi hỏi phải tìm ra cách tiếp cận quá trình giáo dục pháp luật phù
hợp. Bên cạnh đó, không được đồng nhất chương trình đào tạo của các trường luật
(đào tạo những người làm nghề luật) với chương trình giáo dục pháp luật theo khái
niệm giáo dục pháp luật cho mọi công dân. Ngược lại, việc đào tạo những người
làm việc trong các lĩnh vực chuyên về luật hoặc có liên quan đến pháp luật, tuy
cũng là giáo dục - đào tạo về pháp luật, nhưng không thể xem đó là đối tượng giáo
dục pháp luật theo chương trình giáo dục pháp luật chung.
- Suy cho cùng, quá trình giáo dục pháp luật phải đạt được hiệu quả đặt ra.
Hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật phải được nhìn nhận, đánh giá qua
những mục tiêu đạt được từ quá trình này. Đó là mục tiêu về nhận thức (sự tiếp thu,
tích lũy những thông tin, tri thức, hiểu biết về pháp luật); mục tiêu về thái độ, tình
cảm (làm hình thành ở đối tượng được giáo dục sự tôn trọng pháp luật; sự phê
phán, lên án các hành vi phạm pháp, phạm tội; sự công phẫn trước các tội ác dã
man; niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật...); mục tiêu về hành
vi (kỹ năng vận dụng tri thức, hiểu biết pháp luật để giải quyết công việc chuyên
môn, hành vi pháp luật tích cực, lối sống theo pháp luật...).
Xuất phát từ định nghĩa giáo dục pháp luật và vai trò của giáo dục pháp luật
có thể khẳng định, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính là hoạt
động có định hướng, có tổ chức, thông qua các phương pháp đặc thù và bằng
nhiều hình thức khác nhau, hướng tới cung cấp, trang bị cho cán bộ, công chức
hành chính những tri thức, hiểu biết về các vấn đề pháp luật nói chung, về các vấn
đề pháp luật cụ thể liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng, nhằm làm hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với những
yêu cầu, đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.


9


1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Hoạt động giáo dục luôn có tính mục đích. Trong cấu trúc của giáo dục pháp
luật, mục đích là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng. Việc xác định mục
đích của giáo dục pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng cả về mặt lý luận và thực
tiễn bởi lẽ mỗi mục đích cần được thực hiện bằng những hình thức, những phương
pháp cụ thể, phù hợp. Các phạm trù, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục
pháp luật phần lớn phụ thuộc vào việc xác định những mục đích xã hội nào được
đặt ra trước quá trình giáo dục. Mục đích của giáo dục pháp luật phải đáp ứng được
các yêu cầu cụ thể của xã hội đối với giáo dục pháp luật ở từng giai đoạn, trong các
điều kiện lịch sử cụ thể. Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, giáo dục
pháp luật bao gồm các mục đích cơ bản sau đây:
- Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật
của công dân (mục đích nhận thức). Đây là mục đích đầu tiên của giáo dục pháp
luật. Điều này xuất phát từ mối quan hệ giữa nhận thức với thái độ và hành vi của
chủ thể. Chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai
trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và
lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa, tri thức pháp luật còn giúp cho
con người tổ chức một cách có ý thức hoạt động của mình và tự đánh giá kiểm tra,
đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng
trong điều kiện như nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật của công dân còn
thấp, còn chịu ảnh hưởng tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ, nhận thức
về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác, công tác giáo dục pháp
luật chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, làm giảm hiệu
lực của pháp luật; dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Do đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn
coi trọng công tác giáo dục pháp luật, "coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền,

giải thích pháp luật... Cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương đến đơn vị cơ sở phải
có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều
hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp
luật cho nhân dân" [Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu
10


toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 121], "thường xuyên giáo dục pháp
luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật" [Đảng Cộng sản Việt Nam
(1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.
92], "phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế,
quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật" [Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 135].
- Hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật (mục đích cảm xúc hay
thái độ). Mục đích này rất quan trọng, vì nếu có tri thức pháp luật mà không có
tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng như các cơ quan bảo vệ pháp
luật thì con người rất dễ hành động chệch khỏi các chuẩn mực pháp luật vì lợi
ích riêng tư. Nội hàm của mục đích cảm xúc đạt được thông qua việc: Một là,
giáo dục tình cảm công bằng, biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính công
bằng của pháp luật, biết đối xử với người khác và với chính mình bằng các tiêu
chuẩn công bằng thể hiện qua các quy phạm pháp luật. Hai là, giáo dục tình
cảm trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi nơi mọi lúc. Phê phán, lên án
những biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp. Đồng thời ủng hộ
và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Có được tình cảm
trên, con người sẽ có được lòng tin vững chắc vào sự cần thiết tuân theo những
quy phạm pháp luật. Khi đã có lòng tin vào pháp luật, con người sẽ có những
hành vi hợp pháp.
- Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật (mục đích
hành vi). Động cơ và hành vi hợp pháp là kết quả cuối cùng của cả quá trình nhận

thức pháp luật, đấu tranh nội tâm dưới tác động của những yếu tố tâm lý, tình cảm,
lòng tin... Thói quen xử sự hợp pháp được hiểu là thói quen tuân thủ các quy phạm
hướng dẫn của pháp luật, thói quen thực hiện đúng đắn, tận tâm các quyền và
nghĩa vụ pháp lý, thói quen sử dụng và áp dụng các tri thức pháp luật và các quy
phạm pháp luật cụ thể để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình, của
người khác, của Nhà nước và của xã hội.

11


Có thể khẳng định rằng việc phân chia các mục đích giáo dục pháp luật trên
đây chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ đan xem qua lại trong
mối liên hệ hữu cơ thống nhất. Bản thân quá trình nhận thức, thay đổi thái độ, hành
vi, điều chỉnh hành chinh theo chuẩn mực pháp luật là một quá trình có sự liên
quan chặt chẽ và sự chuyển hóa. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ tính tự
giác đến tính tích cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược
lại, khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật lại được
củng cố. Do đó, khi tiến hành giáo dục pháp luật đều phải hướng hoạt động vào cả
ba mục đích của giáo dục pháp luật.
1.1.3. Nội dung và hình thức của giáo dục pháp luật
1.1.3.1. Nội dung của giáo dục pháp luật
Để hiện thực hóa các mục tiêu của giáo dục pháp luật thì vấn đề quan trọng là
xây dựng nội dung giáo dục pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật là một thành tố
quan trọng của quá trình giáo dục pháp luật, nó được xác định trên cơ sở mục đích,
nhiệm vụ và đồng thời xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp
luật. Xác định đúng nội dung của giáo dục pháp luật sẽ bảo đảm cho giáo dục pháp
luật có chất lượng, đạt được các mục đích của giáo dục pháp luật, tạo ra sự chuyển
biến tích cực về nhận thức, thái độ và hành vi của các đối tượng được giáo dục.
Bản thân hoạt động giáo dục pháp luật hướng đến nhiều đối tượng khác nhau
với những mục đích cụ thể. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về nội dung giáo dục

pháp luật, lý luận về giáo dục pháp luật khẳng định cần làm rõ được các vấn đề chủ
yếu là phạm vi, đặc điểm, những yếu tố chủ yếu của nội dung giáo dục pháp luật.
Phạm vi của nội dung giáo dục pháp luật theo quan điểm chung hiện nay bao
gồm:
- Các thông tin về pháp luật gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp luật
thực định;
- Các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp luật và
tội phạm, về việc điều tra xử lý các vi phạm pháp luật;
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực hiện áp
dụng pháp luật đối với đời sống kinh tế xã hội, đối với từng đối tượng, các tầng lớp
12


dân cư. Đồng thời phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng, ý kiến, đề xuất của nhân
dân, của các chuyên gia pháp luật trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật;
- Các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân (như các
quyền, các nghĩa vụ pháp luật, các quy trình thủ tục để bảo vệ các quyền hợp
pháp).
Bản thân phạm vi nội dung giáo dục pháp luật cũng cần được cụ thể hóa hơn
đối với mỗi nhóm đối tượng, những hoạt động giáo dục pháp luật cụ thể. Từ phạm
vi nội dung giáo dục pháp luật nêu trên, trong thực tiễn pháp luật ở nước ta hiện
nay cũng cần lưu ý tới những đặc điểm của nội dung giáo dục pháp luật. Đó là
trạng thái động của các thông tin trong nội dung giáo dục pháp luật. Những đặc
điểm này cần được nhận thức đầy đủ đối với những người làm công tác giáo dục
pháp luật. Trên cơ sở đó họ lựa chọn phương pháp tiếp cận tới nội dung giáo dục
pháp luật của từng đối tượng một cách phù hợp, giúp cho đối tượng giáo dục có
cách nhìn nhận đúng đắn, biện chứng về quá trình hoàn thiện pháp luật, đưa pháp
luật vào cuộc sống, cũng như những điểm mâu thuẫn và thống nhất của tiến trình
đổi mới, phát triển khoa học pháp lý và pháp luật thực định ở nước ta.
Những nội dung chủ yếu của giáo dục pháp luật, trên cơ sở lý luận và thực

tiễn, được xác định theo những mức độ, tầng cấp độ khác nhau tùy theo từng loại
đối tượng phù hợp với những nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật.
Căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật, người ta phân
định nội dung giáo dục pháp luật thành ba cấp độ khác nhau sau đây:
Cấp độ thứ nhất là mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật phổ cập cho mọi
công dân. Sống trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì mỗi công dân
phải cơ những hiểu biết tối thiể u về pháp luật và có những kỹ năng tối thiểu để sử
dụng pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện
nghĩa vụ của mình.
Cấp độ thứ hai là mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề của các
công dân hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế kỹ thuật, văn hóa xã hội. Họ cần
những hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức độ cao hơn, mang tính định
hướng nghề nghiệp rõ hơn thì ngoài những khái niệm pháp lý cơ bản thường gặp
13


trong thực tiễn, nội dung giáo dục pháp luật theo ngành nghề còn bao gồm một số
luật thực định, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng. Các quyền
và nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực hoạt động và các trình tự giải quyết các tranh
chấp phổ biến liên quan trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Cấp độ thứ ba là mức độ giáo dục chuyên luật, đây là mức độ cao nhất của
nội dung giáo dục pháp luật, nhằm mục đích đào tạo các luật gia cho bộ máy nhà
nước và các tổ chức mang tính nghề nghiệp về pháp luật. Sự hiểu biết của đối
tượng này bao gồm cả những quan điểm, những học thuyết về nhà nước và pháp
luật trong lịch sử và hiện tại. Những hiểu biết tương đối toàn diện về hệ thống pháp
luật trong nước và quốc tế trong lĩnh vực chuyên sâu của từng người (về hình sự,
về dân sự, về kinh tế, về hôn nhân gia đình, về luật quốc tế,...). Kỹ năng của họ
không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ pháp luật mà chủ yếu là vận dụng chính xác,
linh hoạt các quan hệ pháp luật vào việc xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến
pháp luật (hoặc tư vấn cho việc giải quyết các vấn đề về pháp luật, như các tranh

chấp, các vi phạm pháp luật...). Kỹ năng quan trọng và đặc thù của đối tượng là
sáng tạo pháp luật, là khả năng tham gia vào việc hoàn thiện pháp luật.
1.1.3.2. Hình thức giáo dục pháp luật
Từ những phân tích về mục đích, nội dung của pháp luật có thể nhận thấy để
hiện thực hóa được những điều này cần có những hình thức, phương pháp giáo dục
pháp luật phù hợp, cần phải có sự phối hợp nhiều hình thức, phương tiện, chương
trình, mục tiêu giáo dục pháp luật của các chủ thể khác nhau để hỗ trợ, bổ sung cho
nhau nhằm đạt được mục đích của giáo dục pháp luật mà nội dung giáo dục pháp
luật đề ra. Mục đích và nội dung của giáo dục pháp luật không thể tự thân đi vào
nhận thức, tình cảm của người được giáo dục pháp luật, mà phải qua những kênh
chuyển tải thông tin, là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình giáo dục
pháp luật, thể hiện nội dung giáo dục pháp luật. Các dạng hoạt động cụ thể đó
phải phù hợp với khả năng tiếp cận của đối tượng. Do đó, hiệu quả của giáo dục
pháp luật không chỉ phụ thuộc vào việc xác định đúng mục đích và nội dung giáo
dục pháp luật mà còn phụ thuộc vào việc xác định đúng hình thức giáo dục pháp
luật.
14


Trong giáo dục học, hình thức giáo dục được quan niệm là các hình thức tổ
chức hoạt động phối hợp giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm
chiếm lĩnh nội dung giáo dục và đạt mục đích giáo dục. Trên cơ sở của khái niệm
này, hình thức giáo dục pháp luật được coi là các dạng cụ thể, có tổ chức phối
hợp giữa chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật để thể hiện
nội dung giáo dục pháp luật và đạt mục đích giáo dục pháp luật.
Từ khái niệm hình thức giáo dục pháp luật, người ta còn phân chia hình thức
giáo dục pháp luật ra thành nhiều loại khác nhau. Qua thực tiễn cũng như qua
nghiên cứu lý luận về nguyên tắc, nội dung, chủ thể, đối tượng giáo dục pháp
luật, hình thức giáo dục pháp luật được chia làm hai loại:
- Các hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến, truyền thống của giáo

dục chính trị tư tưởng như: Phổ biến, nói chuyện pháp luật tại các cơ quan nhà
nước, các tổ chức quần chúng, các địa bàn dân cư; các hội nghị, hội thảo pháp luật;
các câu lạc bộ pháp luật; các đội thông tin cổ động pháp luật; các cuộc thi tìm hiểu
pháp luật; tuyên truyền qua báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác;
các hình thức văn học nghệ thuật; dạy và học pháp luật trong các nhà trường;
- Các hình thức giáo dục pháp luật đặc thù như: Các hoạt động định hướng
giáo dục pháp luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của các cơ
quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát); giáo dục pháp luật
qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức quần chúng
(tổ hòa giải, tư vấn pháp lý...).
1.1.4. Chủ thể, khách thể, đối tượng giáo dục pháp luật
1.1.4.1. Chủ thể giáo dục pháp luật
Trong quan niệm của giáo dục học thì chủ thể giáo dục là thầy cô giáo và tất
cả những người làm công tác giáo dục khác. Trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện
nay người học được coi là chủ thể của quá trình giáo dục. Tuy nhiên, xét từ góc độ
chủ thể truyền giảng kiến thức thì giáo viên và các chủ thể khác đóng vai trò chủ
thể giáo dục. Từ cách tiếp cận này có thể hiểu: Chủ thể giáo dục pháp luật là tất cả
những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia
vào việc thực hiện các mục đích giáo dục pháp luật. Các nghiên cứu lý luận và
15


thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ thể
chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu trình
độ và kỹ năng giáo dục pháp luật khác nhau.
Chủ thể chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà chức năng,
nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện các mục đích, nội dung giáo dục
pháp luật (giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật...).
Chủ thể không chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà chức
năng chính không phải là giáo dục pháp luật, nhưng một trong các nhiệm vụ của họ

là thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện mục đích giáo dục
pháp luật (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ, công chức thuộc
các cơ quan hành pháp, tư pháp...).
1.1.4.2. Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật
Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra khái niệm về khách thể: “Khách thể là đối
tượng của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của chủ thể. Khách
thể không phải là toàn bộ thế giới hiện thực, mà chỉ là một bộ phận nhất định của
thế giới đó - bộ phận đang tác động qua lại với chủ thể”. Điều này cho thấy khái
niệm khách thể luôn được đặt trong mối quan hệ với chủ thể nhất định.
Quá trình giáo dục pháp luật thực chất là quan hệ xã hội giữa một bên là
người giáo dục (chủ thể) và một bên là người được giáo dục (khách thể hay đối
tượng). Mối quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên tham gia
trong mối quan hệ. Song chiều tác động chủ yếu vẫn là sự tác động, chi phối của
người giáo dục (chủ thể). Sự tác động giáo dục là những hoạt động có ý thức, có
định hướng, có kế hoạch, nhằm đạt tới những mục tiêu, mục đích nhất định (bao
gồm mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc, mục đích hành vi, thói quen xử sự
theo pháp luật). Nói cách khác, chủ thể giáo dục pháp luật tác động lên khách thể
(đối tượng) giáo dục với những mong muốn cụ thể là xây dựng được ý thức và
những hành vi hợp pháp cho khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật.
Như vậy, khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật ở đây không chỉ là cá
nhân, những nhóm cộng đồng xã hội mà còn bào hàm cả những yếu tố bên trong

16


của họ như nhận thức, tình cảm, cảm xúc, hành vi cụ thể của họ phù hợp với pháp
luật.
Từ phân tích trên cho thấy, khách thể của giáo dục pháp luật cũng giống như
khách thể của giáo dục nói chung, nó mang tính đồng nhất với đối tượng giáo dục
pháp luật. Vậy khách thể của giáo dục pháp luật được hiểu là những cá nhân, nhóm

cộng đồng xã hội cùng với ý thức và hành vi pháp luật của họ.
Việc xác định chủ thể, khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật có ý nghĩa
quan trọng trong lý luận và thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật trên cơ sở
mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể trong quá trình
giáo dục pháp luật. Trong đó, chủ yếu là sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch của người giáo dục pháp luật lên người được giáo dục pháp luật. Điều đó tạo
cho chủ thể xác định các nội dung, hình thức, phương tiện, biện pháp phù hợp để
tiếp cận với khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật một cách có hiệu quả nhất.
1.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị tư
tưởng, giáo dục đạo đức và các dạng giáo dục khác
Giáo dục pháp luật tuy có những nét đặc thù riêng, nhưng phải được đặt trong
mối quan hệ chung được coi như một dạng giáo dục trong hệ thống giáo dục. Giáo
dục pháp luật khi đặt trong tổng thể của hệ thống giáo dục thì giáo dục pháp luật có
mối quan hệ khá mật thiết với các dạng giáo dục khác như: giáo dục chính trị, đạo
đức, lao động, kinh tế...
- Giáo dục pháp luật tác động tương hỗ một cách sâu sắc với giáo dục chính
trị tư tưởng. V.I. Lênin đã chỉ rõ rằng: "Luật là biện pháp chính trị, là chính trị"
[V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 99]. Hiện nay,
đường lối chính trị của Đảng ta - chỗ dựa của đổi mới mọi mặt về chính trị, kinh tế,
xã hội đã đi vào tất cả các mặt hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có thể
nói rằng, mỗi một quy phạm pháp luật đều là phương tiện để củng cố, ghi nhận,
một quy tắc mà xã hội cần, xã hội ủng hộ nhằm bảo vệ không những lợi ích của
Nhà nước mà còn là của mỗi công dân. Bởi vậy, khi thực hiện giáo dục pháp luật
sẽ tạo ra khả năng cho việc giáo dục chính trị tư tưởng, góp phần hình thành ở đối
tượng giáo dục những quan hệ giá trị xác định với chính trị tư tưởng. Ngược lại,
17


trong giáo dục chính trị tư tưởng có chức năng đan xen trong nội dung của mình
những hiện tượng của pháp luật, củng cố những quan hệ tích cực đối với những đòi

hỏi của pháp luật, kích thích lợi ích điều chỉnh bằng pháp luật. Mối quan hệ mật
thiết qua lại chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật và giáo dục chính trị tư tưởng đòi hỏi
các chủ thể giáo dục pháp luật phải biết kết hợp và bổ sung cho nhau trong quá
trình giáo dục.
- Giáo dục pháp luật có quan hệ chặt chẽ với giáo dục đạo đức, Đảng ta đã
nhận thức rõ điều đó, nên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: "Tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng
thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức" [Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
45]. Giữa pháp luật và đạo đức không có sự đối lập nhau, pháp luật là chỗ dựa và
là cơ sở của việc hình thành đạo đức; các nguyên tắc căn bản của đạo đức được thể
chế hòa thành các quy phạm pháp luật. Do đó, pháp luật bảo vệ và phát triển đạo
đức, bảo vệ tính công bằng, nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người. Vì
vậy, giáo dục đạo đức tạo nên những tiền đề cần thiết để hình thành ở công dân sự
tôn trọng sâu sắc đối với pháp luật. Ngược lại, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng
thiết lập trên thực tế những nguyên tắc đạo đức mới. Quy phạm pháp luật và quy
phạm đạo đức đều hướng tới điều chỉnh hành vi của con người, giữa chúng có một
số điểm chung là cùng tác động lên con người, những điểm chung đó là:
+ Tạo ra lòng tin và giá trị xã hội của pháp luật;
+ Tạo ra thói quen xử sự trong các hoàn cảnh cụ thể theo các chuẩn mực đạo
đức và pháp luật.
Như vậy, sự thống nhất giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức thể hiện
ở hành vi của con người. Sự thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổng hợp của cả hai
dạng giáo dục. Do đó, trong hoạt động thực tiễn, các tổ chức chính trị, các cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội phải sử dụng đồng bộ các hình thức, các biện
pháp của cả hai dạng giáo dục để bổ sung cho nhau, tác động lẫn nhau với mục
đích hình thành các hành vi hợp pháp, hợp đạo đức ở các đối tượng được giáo dục.
18



- Hiện nay, "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 23]. Để thực hiện đường lối kinh tế nói trên của
Đảng và Nhà nước, cần đẩy mạnh hoạt động giáo dục kinh tế trong mối quan hệ
với sự nghiệp đổi mới. Tất nhiên, giáo dục kinh tế trong giai đoạn hiện nay là
những tư duy và phương pháp của "cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa". Các quan hệ kinh tế ở nước ta ở mức độ này hay mức độ khác được thể
hiện thành các hình thức pháp lý. Thiếu các hình thức pháp lý thích hợp, các quan
hệ kinh tế khó lòng thực hiện. Điều đó có nghĩa rằng, bên cạnh giáo dục kinh tế,
cần phải tiến hành giáo dục pháp luật bao gồm việc giải thích, phổ biến, học tập,
nghiên cứu những văn kiện liên quan trực tiếp đến việc điều chỉnh các quan hệ
kinh tế.
Ngoài những dạng giáo dục có mối quan hệ mật thiết với giáo dục pháp luật
như đã nêu trên, còn nhiều dạng giáo dục khác. Trong điều kiện đổi mới hiện nay,
việc nghiên cứu mối quan hệ tổ hợp, đan xen giữa các dạng giáo dục có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp bách. Việc giáo dục pháp luật chỉ có thể đạt được mục đích và
hiệu quả trong mối quan hệ thống nhất, tổ hợp của cả hệ thống các hình thức giáo
dục. Tất cả các dạng giáo dục phải được phối hợp và tiến hành thường xuyên trong
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
1.2. Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính
1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức hành chính
1.2.1.1. Khái niệm cán bộ
Cán bộ, công chức, viên chức là những thuật ngữ cơ bản của chế độ công vụ,
công chức, thường xuyên xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong
khoa học hành chính, theo các cách tiếp cận khác nhau, người ta đã đưa ra các cách
giải thích khác nhau về các thuật ngữ “cán bộ”, “công chức” và “viên chức”. Thuật
ngữ “cán bộ” được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội chủ nghĩa và bao hàm trong

phạm vi rộng những người làm việc thuộc khu vực nhà nước và tổ chức chính trị
19


và các tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, xác định cụ thể ai với những tiêu chí
nào là cán bộ thì chỉ đến khi có Luật Cán bộ, công chức năm 2008 mới được quy
định chính thức.
Khoản 1 Điều 4 của Luật cán bộ, công chức quy định cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, ở cấp, ở cấp huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước. Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ các tiêu
chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan
của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ. Thực tế
cho thấy, cán bộ luôn gắn liền với chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; hoạt động
của họ gắn với quyền lực chính trị được nhân dân hoặc các thành viên trao cho và
chịu trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc quản lý cán bộ
phải thực hiện theo các văn bản pháp luật chuyên ngành tương ứng điều chỉnh
hoặc theo Điều lệ. Do đó, căn cứ vào các tiêu chí do Luật cán bộ, công chức quy
định, những ai là cán bộ trong cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội sẽ được
các cơ quan có thẩm quyền của Đảng căn cứ Điều lệ của Đảng, của tổ chức chính
trị - xã hội quy định cụ thể. Những ai là cán bộ trong cơ quan nhà nước sẽ được
xác định theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật
Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.
1.2.1.2. Khái niệm công chức, công chức
Ở Việt Nam, trải qua một thời gian dài cho đến trước khi Luật cán bộ, công

chức được ban hành năm 2008, trong nhận thức cũng như trong các hoạt động
quản lý chưa xác định được rõ ràng công chức với các khái niệm về cán bộ, viên
chức.

20


Nhìn lại lịch sử, năm 1950 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 76/SL ban
hành Quy chế công chức, khái niệm công chức Việt Nam chỉ được xác định trong
phạm vi các cơ quan chính phủ. Do hoàn cảnh kháng chiến, tuy không có văn bản
nào bãi bỏ Sắc lệnh 76/SL nhưng trên thực tế các nội dung của Quy chế đó không
được áp dụng. Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, thống nhất đất nước, chế
độ cán bộ được thực hiện trên phạm vi cả nước, theo đó tất cả những người làm
việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, doanh
nghiệp nhà nước, nông trường, lâm trường và lực lượng vũ trang đều được gọi
chung trong một cụm từ là “cán bộ, công nhân viên nhà nước”. Hầu như mọi người
khi kê khai lý lịch nếu đang làm việc trong các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp nhà nước... đều ghi ở mục thành
phần bản thân là "cán bộ, công nhân viên nhà nước".
Đến năm 1998, khi Pháp lệnh cán bộ, công chức được ban hành, những người
làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước, đoàn thể được
gọi chung trong một cụm từ là” cán bộ, công chức”. Lúc này, phạm vi và đối tượng
đã được thu hẹp hơn so với trước nhưng vẫn gồm cả khu vực hành chính, khu vực
sự nghiệp và các cơ quan của Đảng, đoàn thể. Vấn đề ai là cán bộ, ai là công chức
cũng chưa xác định được. Những người làm việc trong các tổ chức, đơn vị còn lại
như doanh nghiệp nhà nước, lực lượng vũ trang thì do các văn bản pháp luật về lao
động, về sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, về công an nhân dân... điều chỉnh.
Với quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức, các tiêu chí: công dân Việt Nam,
trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước mới chỉ là những căn cứ để
xác định một người có phải là "cán bộ, công chức" hay không. Tuy nhiên, vấn đề ai

là cán bộ, ai là công chức vẫn chưa được giải quyết.
Năm 2003, khi sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức,
Nhà nước đã thực hiện việc phân định biên chế hành chính với biên chế sự nghiệp.
Việc phân định này đã tạo cơ sở để bước đầu đổi mới cơ chế quản lý đối với cán
bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức trong các đơn vị
sự nghiệp của Nhà nước. Nhưng vấn đề làm rõ thuật ngữ “công chức” và thuật ngữ
“viên chức” cũng chưa được giải quyết. Có chăng, trong Nghị định số
21


116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ đã gọi tắt cán bộ, công chức làm
việc trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước là viên chức và Nghị định số
117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ đã gọi tắt cán bộ, công chức làm
việc trong các cơ quan nhà nước là công chức. Nhưng như thế, cách gọi tắt này
không giải quyết được vấn đề làm rõ thuật ngữ “cán bộ”, “công chức”, “viên
chức”.
Vì không xác định và phân biệt được rõ thuật ngữ “cán bộ”, “công chức”,
“viên chức” nên dẫn đến những hạn chế và khó khăn trong quá trình xác định
những điểm khác nhau (bên cạnh những điểm chung) liên quan đến quyền và nghĩa
vụ, đến cơ chế và các quy định quản lý, tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng,
kỷ luật, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ phù hợp với tính chất, đặc điểm
hoạt động của cán bộ cũng như của công chức, viên chức. Do đó, nhiệm vụ cơ bản,
quan trọng và đầu tiên của Luật cán bộ, công chức là làm rõ được những tiêu chí
xác định ai là cán bộ, ai là công chức... Từ đó, tạo cơ sở và căn cứ cho những nội
dung đổi mới và cải cách thể hiện trong Luật cán bộ, công chức, tạo cơ sở để giải
quyết những vấn đề mà thực tiễn quản lý đang đặt ra. Đồng thời đây cũng là căn cứ
để xác định rõ phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Luật; theo đó, đội ngũ viên chức
trong các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ do một văn bản luật khác điều chỉnh.
Khái niệm công chức đã được đưa ra hoàn chỉnh trong Khoản 1 Điều 4 của
Luật cán bộ, công chức quy định cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê

chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở cấp tỉnh,
ở cấp huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Theo quy định
này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ,
công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức
danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ. Thực tế cho thấy, cán bộ luôn gắn
liền với chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; hoạt động của họ gắn với quyền lực
chính trị được nhân dân hoặc các thành viên trao cho và chịu trách nhiệm chính trị
22


trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc quản lý cán bộ phải thực hiện theo các
văn bản pháp luật chuyên ngành tương ứng điều chỉnh hoặc theo Điều lệ. Do đó,
căn cứ vào các tiêu chí do Luật cán bộ, công chức quy định, những ai là cán bộ
trong cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội sẽ được các cơ quan có thẩm
quyền của Đảng căn cứ Điều lệ của Đảng, của tổ chức chính trị - xã hội quy định
cụ thể. Những ai là cán bộ trong cơ quan nhà nước sẽ được xác định theo quy định
của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Toà án nhân
dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Khái niệm công chức trong Luật Cán bộ, công chức thực tế bao hàm cả công
chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, công chức làm việc trong các cơ quan, đơn vị của quân đội nhân dân, công
an nhân dân. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, công chức hành chính hướng
đến đối tượng công chức đang làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước ở
các cấp chính quyền.
1.2.2. Đặc điểm, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật
cho cán bộ, công chức hành chính

1.2.2.1. Đặc điểm của giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành
chính
Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính là một bộ phận cấu
thành giáo dục pháp luật nói chung, nghĩa là nó cũng phải tuân theo các quy luật
chung của quá trình giáo dục pháp luật, phải đáp ứng các yêu cầu về chủ thể, khách
thể, về nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức của quá trình này. Bên cạnh
đó, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính cũng có những đặc điểm
riêng xuất phát từ những nét đặc thù về vị trí công tác, tiêu chuẩn chuyên môn và
chức năng của họ.
Thứ nhất, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính có sự khác
biệt với cán bộ, công chức ở các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội. Cán bộ, công chức hành chính là những người trực tiếp giải quyết công
23


việc của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức, là những người áp dụng pháp luật,
đưa pháp luật vào cuộc sống. Cán bộ, công chức hành chính là hình ảnh của nhà
nước, của chính quyền trước người dân. Cán bộ, công chức hành chính biết áp
dụng pháp luật và biết giải đáp những vấn đề về pháp luật khi người dân có những
yêu cầu, những kiến nghị, hướng dẫn người dân thực hiện đúng các quy định của
pháp luật. Chính vì vậy, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính
không chỉ là phổ biến, giới thiệu pháp luật chung chung mà còn cần giúp nâng cao
nhận thức, hiểu, biết về văn bản quy phạm pháp luật và đặc biệt quan trọng là khả
năng áp dụng pháp luật của cán bộ, công chức để giải quyết công việc của người
dân.
Thứ hai, nội dung giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính có
tính đặc thù riêng so với các nhóm đối tượng cán bộ, công chức khác. Việc giáo
dục pháp luật phải hướng đến những nội dung pháp luật cụ thể liên quan đến công
việc mà cán bộ, công chức hành chính đang đảm nhiệm. Điều này là thực sự quan
trọng bởi lẽ nếu cán bộ, công chức hành chính không nắm vững pháp luật, không

cập nhật pháp luật liên quan đến công việc của mình thì sẽ dẫn đến giải quyết trái
pháp luật các công việc của người dân, làm giảm uy tín của chính quyền trước
nhân dân. Vì vậy, nội dung giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức phải thực sự
cụ thể, thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm và chiều sâu.
Thứ ba, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức đòi hỏi tính chuyên ngành,
chuyên nghiệp cao cả trên phương diện chủ thể giáo dục pháp luật và nội dung
giáo dục pháp luật. Cán bộ, công chức hành chính là những người đang làm việc
trong các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước nên họ rất cần đến kiến thức
pháp luật. Bởi vì, trong nhà nước pháp quyền, pháp luật có một vị trí độc tôn, đòi
hỏi mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, ngay cả Nhà nước - người ban hành pháp luật cũng phải đặt mình dưới sự tác động, điều chỉnh của pháp luật. Điều đó có nghĩa,
cán bộ, công chức phải gương mẫu, đi đầu trong “sống, làm việc theo pháp luật”.
Do đó, ngoài kiến thức chuyên môn, họ rất cần được trang bị kiến thức, hiểu biết
pháp luật, nhất là kiến thức pháp luật chuyên ngành. Nhận định về vấn đề này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng,
24


của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, cán bộ đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách đúng, vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ công vụ được giao, cán bộ, công chức trước hết
phải có sự hiểu biết, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải thi hành nhiệm vụ, công vụ theo đúng
quy định của pháp luật. Cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về
việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình. Cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh
đạo còn phải chịu trách nhiệm về việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức
thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật. Vì vậy, nội dung giáo
dục pháp luật cho cán bộ, công chức phải là những kiến thức pháp luật có tính hệ
thống và tính chuyên ngành, chuyên nghiệp cao.
Từ yêu cầu cao về mặt nội dung tri thức pháp luật trang bị cho cán bộ, công

chức hành chính, chủ thể giáo dục pháp luật cũng đòi hỏi phải có trình độ cao về
pháp luật và kỹ năng sư phạm tốt. Nói cách khác, chủ thể giáo dục pháp luật cho
cán bộ, công chức hành chính phải là những nhà giáo dục pháp luật chuyên nghiệp.
Thứ tư, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức đòi hỏi phải có sự lựa
chọn, phân loại cụ thể, hợp lý về đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật. Như đã
phân tích ở trên, nhu cầu giải quyết các công việc chuyên môn đòi hỏi cán bộ, công
chức hành chính phải có trình độ kiến thức pháp luật chuyên ngành cao. Tuy nhiên,
theo phân cấp hành chính hiện nay, cán bộ, công chức hành chính ở nước ta đang
đảm nhiệm công việc tại bốn cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở
(xã, phường, thị trấn) với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau và thuộc các ngành,
các lĩnh vực khác nhau. Ở mỗi cấp, mỗi lĩnh vực lại có những yêu cầu và văn bản
pháp luật điều chỉnh, quy định phạm vi, chức năng, nhiệm vụ riêng. Chính vì vậy,
nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính
ở mỗi cấp, mỗi ngành cũng đa dạng và khác nhau. Chẳng hạn, nhu cầu thông tin,
kiến thức pháp luật của cán bộ, công chức hành chính cấp xã khác với nhu cầu
thông tin, kiến thức pháp luật của cán bộ, công chức cấp huyện và cấp tỉnh; nhu
cầu về thông tin pháp luật cho cán bộ, công chức ngành văn hóa - thông tin chắc
25


×