Giải pháp tăng cường huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công
thương Bến Thuỷ
Trong bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào thì việc huy động vốn trong
nước thơng qua hệ thống ngân hàng ln có tầm quan trọng. Vì ngân hàng
đóng vai trị thu gom vốn trong nền kinh tế từ những người có vốn sang người
cần vốn. Điều này lại càng có ý nghĩa hơn đối với các nước đang phát triển như
Việt Nam. Muốn thu gom được nhiều vốn trong nền kinh tế thì ngân hàng phải
tìm hiểu được những u cầu của cơng chúng khi đem tiền đến gửi ở ngân
hàng là gì và đáp ứng tốt các nhu cầu đó. Sau đây là các giải pháp cho Chi
nhánh NHCT Bến Thuỷ để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng nhằm huy
động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế .
I. MỤC TIÊU CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BẾN THUỶ NĂM TỚI.
Thực hiện sự chỉ đạo của Thủ Tướng Chính Phủ, Thống đốc NHNN, Chủ tịch
Hội đồng Quản trị NHCT Việt nam và kết luận của Tổng giám đốc NHCT Việt
nam tại hội nghị tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2002và triển khai nhiệm
vụ công tác năm 2003 của NHCT Việt nam. Căn cứ trên tình hình thực tế và kết
quả hoạt động kinh doanh năm 2002, với mục tiêu “ phát triển, an toàn và hiệu
quả”, Chi nhánh đặt ra nhiệm vụ cơ bản cho năm 2003, đó là:
- Tổng nguồn vốn huy động tại chỗ tăng 20-25%. Tăng khả năng chủ động
về nguồn vốn lên 70-75% tổng vốn kinh doanh.
- Tổng dư nợ đầu tư, cho vay nền kinh tế tăng 22-25%. Tiếp tục chuyển
dịch cơ cấu tín dụng nhằm đáp ứng đủ vốn cho các nhu cầu hợp lý. Trong
đó:
+ Tỷ trọng đầu tư trung và dài hạn từ 35-40%.
+ Tỷ trọng cho vay các ngành sản xuất vật chất từ 80-85%.
- Tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm sốt, chấn chỉnh hoạt động Ngân
hàng. Xử lý nợ tồn đọng, giảm nợ quá hạn xuống dưới 4% tổng dư nợ.
- Phát triển và mở rộng các dịch vụ ngân hàng, phấn đấu tăng nguồn thu
dịch vụ gấp 2 lần so với năm 2002
- Kết quả kinh doanh có lãi trên 1 tỷ đồng.
II. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN CHO NGÂN HÀNG.
Chiến lược huy động vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ hướng vào việc
tăng trưởng nguồn vốn huy động tại chỗ là hợp lý, giúp cho ngân hàng ngày
càng tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên ngân hàng
cịn gặp nhiều khó khăn và hạn chế do ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan
và khách quan. Để nâng cao lượng vốn huy động việc làm cần thiết nhất của
ngân hàng là tìm những giải pháp có thể khắc phục những khó khăn và vướng
mắc, từ đó đưa ra chiến lược huy động vốn thích hợp.
Việc nâng cao lượng vốn huy động cho ngân hàng cần phải đảm bảo các
yêu cầu:
- Tạo tính chủ động cho ngân hàng trong việc điều chỉnh khối lượng và cơ
cấu vốn từ đó chủ động trong đầu tư cho vay và thu nợ.
- Phát triển nguồn vốn huy động đồng thời tiết kiệm chi phí.
- Phát huy khả năng và hiệu quả của nguồn vốn huy động đối với hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Trên cơ sở các u cầu đó Chi nhánh Ngân hàng Cơng thương Bến Thuỷ có
thể sử dụng một số giải pháp sau đây:
1. Có định hướng, kế hoạch về phát triển nguồn vốn phù hợp .
Đầu tiên, ngân hàng cần phải làm là đánh giá chi tiết, phân tích tỷ mỷ, xử lý
các thơng tin về tình hình tỷ trọng, kết cấu trong tổng nguồn vốn mà ngân
hàng huy động được cũng như đối thủ cạnh tranh... Từ tình hình thực tế của
đất nước, của tỉnh Nghệ An (môi trường pháp lý, môi trường xã hội, tâm lý dân
cư, môi trường cạnh tranh...) để thấy được những khó khăn vướng mắc mà
ngân hàng gặp phải trong môi trường hoạt động khách quan hay chủ quan.
Đồng thời ngân hàng phải dự kiến được nhu cầu vốn cần sử dụng cho hoạt
động kinh doanh trong thời kỳ tới là bao nhiêu? Và từ số vốn thực tế hiện có,
ngân hàng sẽ xác định được số vốn huy động cần thiết trong thời gian tới. Trên
cơ sở đó, ngân hàng lập chiến lược dài hạn, cụ thể về công tác huy động vốn
trong thời kỳ tới để từ đó có những chiến lược huy động vốn phù hợp, đáp ứng
nhu cầu vốn cho bản thân ngân hàng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung mà
khơng bị động, phụ thuộc trong q trình sử dụng vốn.
Các kế hoạch về công tác huy động vốn phải được xuất phát từ những yêu
cầu sau:
- Công tác về nguồn vốn của ngân hàng phải quán triệt quan điểm phát huy
tối đa những khả năng của bản thân ngân hàng.
- Chú ý khai thác triệt để các nguồn vốn dưới mọi hình thức, theo nhiều kênh
khác nhau. Đây chính là nhiệm vụ lâu dài và là u cầu mang tính giải pháp
cho tình hình hiện nay.
- Gắn chiến lược tạo nguồn với chiến lược sử dụng nguồn trong mối quan hệ
đồng bộ, nhịp nhàng, mật thiết.
- Phải có biện pháp nâng tỷ trọng nguồn vốn tiền gửi có kỳ hạn của các
doanh nghiệp đồng thời tăng khối lượng tiền gửi từ các tầng lớp dân cư để tạo
lập mặt bằng vốn luân chuyển vững chắc.
2. Mở rộng mạng lưới huy động, đa dạng hoá các hình thức huy động
vốn
Trong thực tế, hình thức huy động vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ còn
rất đơn điệu, chưa hấp dẫn người gửi, tỷ trọng nguồn trung và dài hạn rất
nhỏ.
Để có thể huy động vốn ngày càng nhiều hơn, Chi nhánh phải đa dạng hố
các hình thức huy động, cụ thể:
* Đa dạng hoá các kỳ hạn gửi tiền tiết kiệm:
Bên cạnh các kỳ hạn đang áp dụng (TGTK có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng, 12 tháng), ngân hàng cần mở thêm các thời hạn gửi tiền như: 2 năm, 3
năm... và thậm chí dài hơn. Việc áp dụng những hình thức tiền gửi tiết kiệm có
kỳ hạn với thời hạn khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn trung và dài hạn, tạo
điều kiện đa dạng hóa cách thức sử dụng vốn tại ngân hàng. Với loại tiết kiệm
có kỳ hạn này có thể dung hồ được lợi ích hai bên: ngân hàng và người gửi
tiền. Cá nhân và các tổ chức ký gửi tại ngân hàng chủ động khi sử dụng vốn đột
xuất, đồng thời ngân hàng tạo được nguồn vốn ổn định.
* Phát triển, mở rộng tiết kiệm cá nhân, phát hành séc cá nhân: Hình thức
này giúp ngân hàng thu hút những nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư với lãi
suất thấp. Đồng thời phát triển tài khoản cá nhân góp phần hiện đại hố q
trình thanh tốn qua ngân hàng, giảm tiền mặt trong lưu thơng.
* Ngồi việc phát triển mở rộng các loại tiền gửi truyền thống đang thực
hiện, ngân hàng cần quan tâm đến việc mở rộng thêm các loại tiền gửi khác
để đáp ứng nhu cầu gửi tiền đa dạng của dân cư.
Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ có thể áp dụng những hình thức huy động tiết
kiệm dài hạn có mục đích như sau:
+ Hình thức tiết kiệm hưu trí bảo thọ: dành cho những người đang có
thu nhập trong hiện tại, muốn để dành một phần thu nhập để tiêu dùng trong
tương lai khi về già bằng cách hàng tháng trích thu nhập để gửi vào tài khoản
này. Hình thức này giống như bảo hiểm xã hội dành cho người già.
+ Hình thức tiết kiệm học đường: Dành cho những cặp vợ chồng mới
cưới chưa có con hoặc có con nhỏ, có thu nhập trong hiện tại, muốn tiết kiệm
một khoản tiền để khi con lớn học đại học hoặc học nghề tốn chi phí rất lớn thì
rút ra sử dụng. Đây là một hình thức giống như bảo hiểm học đường của các
cơng ty bảo hiểm.
+ Hình thức tiết kiệm nhà ở: Dành cho những người có thu nhập thấp và
trung bình mà chưa có nhà ở. Người gửi tiền để dành một khoản tiền ở ngân
hàng. Đến khi họ có nhu cầu mua nhà ở mà số tiền trên số dư tài khoản tiền
gửi chưa đủ thì ngân hàng có thể cho khách hàng vay khoản tiền cịn thiếu với
lãi suất hợp lý để giúp cho khách hàng đầu tư mua hoặc xây dựng nhà ở.
* Ngân hàng mở rộng mạng lưới huy động, mạng lưới các quỹ tiết kiệm,
phát triển các kênh huy động để tạo điều kiện tối đa cho khách hàng trong
việc gửi tiền.
* Song song với đa dạng hố các hình thức gửi tiền tiết kiệm, mở rộng
mạng lưới huy động, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nên mở rộng các hình thức
huy động như phát hành kỳ phiếu có mục đích với các hình thức đa dạng như
trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ với các kỳ hạn khác nhau; Lãi suất linh
hoạt phụ thuộc vào môi trường cạnh tranh và cung cầu trên thị trường, tiến
tới việc phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại nhiều hơn nữa để tạo
nguồn vốn trung và dài hạn, vừa tạo nguồn vốn, vừa cung cấp hàng hoá cho
thị trường vốn. Tuỳ theo từng điều kiện, tình hình cụ thể mà ngân hàng áp
dụng từng hình thức huy động vốn phù hợp nhằm thu hút tối đa nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội.
* Ngân hàng nên sử dụng chiến lược đa năng trong kinh doanh, mở rộng
các hoạt động dịch vụ của ngân hàng làm cho khách hàng ngày càng thoả
mãn nhu cầu hơn và sẽ có nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Khách hàng
sử dụng càng nhiều các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng thì ngân hàng sẽ dễ
dàng hơn trong hoạt động huy động vốn bởi vì có một phần khách hàng gửi
tiền với mục đích hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Những hoạt động này có
ảnh hưởng nhiều đến cơng tác huy động vốn, nhờ đó khả năng huy động vốn
của ngân hàng ngày càng được nâng lên.
3. Đơn giản hoá các thủ tục trong hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng
Hiện nay nếu một người gửi tiền vào ngân hàng thông thường phải mất từ
10- 20 phút trong một lần gửi hoặc rút. Đối với quá trình cho vay thủ tục còn
kéo dài trong nhiều ngày. Điều này sẽ làm giảm đáng kể lượng khách hàng đến
với ngân hàng vì sợ thủ tục phức tạp. Các thủ tục này của ngân hàng thực hiện
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, của NHCT Việt Nam nhưng ngân hàng
cần phải nghiên cứu biện pháp rút ngắn thời gian trong quá trình nhận tiền
gửi hoặc cho vay của mình: chẳng hạn như trang bị máy vi tính cho các quỹ
tiết kiệm, nối mạng giữa các máy ở các phòng trong ngân hàng, nối mạng giữa
các máy của phịng kế tốn với máy của kế tốn trưởng và thủ quỹ, qua đó có
thể kiểm tra lẫn nhau, đảm bảo tính chính xác, giảm bớt thời gian chờ đợi của
khách hàng .
Chi nhánh cần nghiên cứu và sử dụng hình thức gửi tiền một nơi rút tiền
nhiều nơi bằng cách kiến nghị với NHCT Việt Nam để thực hiện trong hệ thống
và ký hợp đồng với các ngân hàng khác ngoài hệ thống NHCT trong cả nước.
Điều này đòi hỏi ngân hàng phải có trang bị đầy đủ về máy móc, thực hiện nối
mạng trên toàn hệ thống NHCT và các ngân hàng ngồi hệ thống trên tồn
quốc. Tuy nhiên cán bộ cơng nhân viên phải được đào tạo để có thể thực hiện
được cơng việc của mình. Đối với Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nói riêng và hệ
thống ngân hàng thương mại nói chung, hình thức này có ý nghĩa quan trọng
trong việc từng bước nâng cao khả năng phục vụ khách hàng với chất lượng
cao hơn, đối tượng rộng rãi hơn với các tầng lớp khác nhau trong nền kinh tế
4. Phải có chính sách lãi suất huy động phù hợp.
Mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh riêng cho mình - trong đó
chính sách về lãi suất là một yếu tố quan trọng. Lãi suất là yếu tố cấu thành
phần lớn thu nhập và chi phí của ngân hàng vì vậy mọi biến động về lãi suất sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do lãi suất có
tầm quan trọng vì vậy xây dựng chiến lược lãi suất hợp lý là rất cần thiết đặc
biệt là trong hoạt động huy động vốn. Lãi suất là yếu tố tác động mạnh mẽ
nhất đến lượng vốn huy động được của Chi nhánh bởi vì trong cơ cấu nguồn
vốn thì tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn (hơn 70%) của tổng nguồn vốn
huy động tại chỗ mà mục đích của cá nhân và tổ chức khi gửi tiền theo hình
thức tiết kiệm là nhằm tìm kiếm một khoản thu nhập. Mặt khác các cá nhân và
tổ chức gửi tiền thanh tốn vẫn mong muốn có thêm một khoản thu nhập. Do
vậy lãi suất ngân hàng là yếu tố đầu tiên mà người gửi tiền quan tâm để có sự
lựa chọn gửi tiền vào ngân hàng hay là đầu tư vào các tài sản khác. Hiện nay ở
Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ khách hàng gửi tiền có kỳ hạn nếu như rút ra trước
2/3 thời hạn thì chỉ được hưởng lãi khơng kỳ hạn, cịn nếu rút ra từ 2/3 thời
hạn thì được hưởng 75% lãi suất. Điều này chỉ có thể phù hợp với loại tiền gửi
kỳ hạn 3 tháng còn đối với loại tiền gửi 6 tháng, 12 tháng hoặc kỳ hạn dài hơn
thì khơng hợp lý, người gửi tiền bị thiệt thòi khi gửi tiền theo phương thức này
nếu phải rút tiền trước hạn. Đây là nguyên nhân làm cho tỷ trọng tiền gửi 12
tháng và tiền gửi có thời hạn dài hơn cịn thấp và nó ảnh hưởng rất lớn đến
việc huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng. Trong trường hợp này
ngân hàng cần có chính sách trả lãi cho khách hàng theo mức lãi suất kỳ hạn
trước đó. Ví dụ như người gửi rút tiền sau 5 tháng mà khoản tiền gửi tiền gửi
theo kỳ hạn 6 tháng nên được hưởng lãi suất 3 tháng và 2 tháng còn lại theo
lãi suất khơng kỳ hạn .
Ngân hàng cần có chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp với cung cầu, chính
sách lãi suất cạnh tranh của các ngân hàng khác trên thị trường. Hiện nay
nguồn vốn huy động tại chỗ của Chi nhánh còn rất nhỏ so với các ngân hàng
khác trên địa bàn. Do vậy, ngân hàng cần có biện pháp tăng cường nguồn vốn
huy động. Nếu ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi thì phải tăng lãi suất cho vay.
Điều đó sẽ gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp đang sử dụng
vốn vay của ngân hàng và ngân hàng sẽ gặp khó khăn hơn trong hoạt động
cho vay. Do vậy ngân hàng cần có chính sách lãi suất vừa hấp dẫn người gửi
tiền vừa hạn chế gia tăng lãi suất đầu ra, cụ thể như:
- Nâng lãi suất đối với tiền gửi trung và dài hạn, hạ thấp lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn và kỳ hạn ngắn. Đảm bảo lãi suất trung bình khơng tăng lên đối
với tồn bộ nguồn vốn huy động.
- Có biện pháp khuyến khích khách hàng duy trì số dư tài khoản với thời gian
dài hơn thời hạn gửi ban đầu. Ví dụ: người gửi tiền với kỳ hạn 6 tháng nhưng
qua 3 lần kỳ hạn gộp lãi mà người gửi vẫn chưa rút tiền thì ngân hàng nên có
chính sách thưởng thêm một tỷ lệ % về lãi suất tiền gửi .
- Lãi suất được xây dựng phù hợp với từng đối tượng gửi tiền, từng khu vực
dân cư và trong từng thời kỳ cụ thể. Lãi suất phải xây dựng dựa trên tình hình
tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, biến động tỷ giá....
- Tuy nhiên chiến lược lãi suất mà ngân hàng xây dựng thay đổi linh hoạt
nhưng phải tuân theo lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước quy định và
trong biên độ giao động cho phép. Điều này vừa đảm bảo quyền lợi cho ngân
hàng vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng .
5. Thực hiện tốt chính sách khách hàng
Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của mình ngân hàng cần
phải hiểu rõ được lợi ích mà ngân hàng thu được phụ thuộc hoàn toàn vào lợi
ích mà khách hàng của ngân hàng thu được trong q trình sản xuất kinh
doanh, lợi ích của người gửi tiền. Trong khi đó, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ vừa
mới được nâng cấp, lại vừa bước qua thời kỳ khủng hoảng số lượng khách
hàng giảm đáng kể. Hơn nữa trong tiềm thức của dân cư và các tổ chức sản
xuất kinh doanh thì Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ vẫn là chi nhánh trực thuộc
NHCT Nghệ An và lượng khách hàng mà NHCT Nghệ An có được dựa vào uy tín
của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ khá lớn. Vì vậy, ngân hàng cần phải có chính
sách khách hàng đúng đắn đó là duy trì khách hàng truyền thống, khuyến
khích các khách hàng cũ quay lại giao dịch với ngân hàng, thu hút mở rộng
khách hàng mới, đảm bảo lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng
cần phải chủ động tham gia vào việc xem xét các kế hoạch, chiến lược sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giúp đỡ doanh nghiệp trong việc khắc
phục khó khăn, tạo mối quan hệ lâu dài. Ngân hàng có thể phân loại khách
hàng để có cách đối xử phù hợp. Những khách hàng lâu năm, có số dư tiền gửi
lớn, được ngân hàng tín nhiệm thì ngân hàng có chính sách ưu tiên về lãi suất,
về kỳ hạn món vay, hạn mức tín dụng hay tài sản thế chấp... Bên cạnh đó, ngân
hàng cần phải tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, mở hội
nghị khách hàng nhằm giới thiệu sự tồn tại của ngân hàng, làm cho khách
hàng hiểu rõ được lợi ích của các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng cũng như
tình hình hoạt động thực tế của ngân hàng ... Qua đó nắm bắt được yêu cầu
của từng đối tượng, tâm lý khách hàng để có chiến lược phục vụ khách hàng
để thoả mãn tối đa nhu cầu của họ. Mặt khác ngân hàng phải xác định được
đối tượng khách hàng mà họ phục vụ và giao dịch. Ngân hàng cung cấp những
sản phẩm của mình cho những đối tượng nào? ngân hàng có thể xâm nhập vào
thị trường nào? Hiện nay Chi nhánh chủ yếu cho vay đối với các công ty thuỷ
lợi và xây dựng. Nguồn vốn mà ngân hàng nhận được tại chỗ là tiền gửi tiết
kiệm của cán bộ công chức, thợ thủ cơng ... là chủ yếu. Ngân hàng có thể xem
xét mở rộng hoạt động huy động vốn của thương nhân ở khu vực các chợ ...
Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
6. Ngân hàng khơng ngừng hồn thiện các tiện ích như thanh tốn, thu
chi hộ,...
Điều này có nghĩa rằng ngân hàng phải luôn luôn cải tiến, đổi mới công
nghệ và quy trình nghiệp vụ để đảm bảo lợi ích và sự tiện dụng cho khách hàng
mà ngân hàng phục vụ .
Thứ nhất: Ngân hàng phải giữ chữ tín với khách hàng, đảm bảo khả năng
thanh toán trong mọi điều kiện, khơng được phép khất chi, hỗn chi với khách
hàng vì lý do thiếu tiền mà cịn phải làm nhanh cơng tác thanh toán cho khách
hàng. Ngân hàng cần trang bị máy vi tính, máy đếm tiền, máy soi tiền.. và sử
dụng các hình thức thanh tốn hiện đại như: thanh tốn điện tử, thanh tốn
thẻ tín dụng quốc tế, séc du lịch ...Tham gia thanh toán bù trừ với tất cả cả các
ngân hàng ngoài hệ thống trong cả nước và thanh toán liên hàng với các ngân
hàng trong cùng hệ thống mà không cần hạn mức như hiện nay. Khi ngân hàng
thực hiện được những yếu tố này thì uy tín của ngân hàng trên thị trường sẽ
được tăng lên, vị thế cạnh tranh của ngân hàng sẽ được củng cố và khách hàng
sẽ gửi tiền vào ngân hàng ngày càng nhiều hơn .
Thứ hai: Để khách hàng có thể tìm hiểu được ngân hàng và lựa chọn cho
mình một ngân hàng tốt để giao dịch, Ngân hàng cần phải thông báo kết quả
kinh doanh cũng như năng lực tài chính thơng qua các phương tiện thơng tin
đại chúng, tạo điều kiện cho mọi người tìm hiểu ngân hàng mình. Mặt khác,
ngân hàng phải biết xây dựng mối quan hệ tốt với chính quyền địa phương và
cấp uỷ Đảng nơi mình hoạt động, ln hướng hoạt động của mình vào các mục
tiêu kinh tế xã hội của địa phương, đồng thời qua đó tranh thủ được sự ủng hộ
của các ngành, các cấp.
Thứ ba: Cần mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm phục vụ khách
hàng một cách tốt nhất để thu hút họ tới tham gia giao dịch tại ngân hàng.
Đồng thời họ cũng được hưởng những tiện ích do ngân hàng mang lại. Cụ thể:
Ngân hàng phục vụ dịch vụ ngân hàng tại nhà như nhận tiền gửi, cho vay tại
nhà, cuối ngày đi thu gom tiền bán hàng trên các khu vực thương mại, các cửa
hàng... Mặt khác thời gian làm việc của ngân hàng còn chưa thật sự hợp lý với
tất cả các đối tượng muốn gửi tiền. Do vậy, ngân hàng cần có giải pháp về làm
việc ngồi giờ, tăng thời gian giao dịch với khách hàng nhằm thoả mãn được
tối đa nhu cầu của khách hàng trong công tác huy động vốn.
7. Hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả trong kinh doanh
Trong hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và Chi nhánh NHCT
Bến Thuỷ nói riêng, cơng tác huy động vốn và sử dụng vốn có mối quan hệ hết
sức chặt chẽ, nghĩa là tình hình hoạt động sử dụng vốn có ảnh hưởng trực tiếp
đến cơng tác huy động vốn. Nếu ngân hàng kinh doanh khơng có hiệu quả, cho
vay vốn không thu được lãi, hoặc nhận tiền gửi mà khơng thể cho vay được ...
thì sẽ có tác động xấu đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Trong
tương lai uy tín của ngân hàng sẽ giảm sút và ngược lại nếu ngân hàng kinh
doanh có hiệu quả sẽ có nhiều khách hàng đến quan hệ với ngân hàng, nâng
cao uy tín cho ngân hàng, tạo điều kiện cho công tác huy động vốn phát triển.
8. Đào tạo đội ngũ cán bộ nhiệt tình, có trình độ chun mơn cao, hết
lịng phục vụ khách hàng
Ngân hàng không ngừng động viên, cử cán bộ công nhân viên tham dự
những đợt tập huấn, hội thảo nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ do
NHCT Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước mở. Chỉ có liên tục nâng cao trình độ
cán bộ thì ngân hàng mới theo kịp sự đổi mới, tiến bộ của xã hội để ngân hàng
ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ chun mơn, nhân viên ngân hàng đặc biệt
là nhân viên hàng ngày trực tiếp tiếp xúc, giao dịch với khách hàng cần phải có
thái độ nhiệt tình, vui vẻ, lịch sự, cởi mở. Những nhân viên này đóng vai trị tạo
nên bộ mặt của ngân hàng. Vì vậy ngân hàng phải bố trí khuyến khích nhân
viên tiếp khách hàng như thế nào để cho khách hàng cảm thấy đang được đón
tiếp nồng nhiệt, niềm nở. Nhân viên ln nhiệt tình chỉ dẫn cho khách hàng vào
làm việc ở phòng, ban nào, thủ tục mà khách hàng cần phải thực hiện ... để tiết
kiệm thời gian cho khách hàng. Đây là một nghệ thuật trong giao tiếp với
khách hàng, đánh vào tâm lý của khách hàng. Một khi khách hàng vui vẻ thoả
mãn khi gửi tiền vào ngân hàng lần đầu tiên thì họ khơng những sẽ gửi tiếp
vào lần sau mà cịn tuyên truyền giới thiệu cho người khác đến gửi tiền tại
ngân hàng.
Ngân hàng cần sắp xếp đội ngũ cán bộ một cách hợp lý, phù hợp với trình độ
chun mơn và điều kiện gia đình của mỗi cán bộ cơng nhân viên. Điều này
khuyến khích được cán bộ ngân hàng phát huy tối đa khả năng của mình trong
cơng việc. Mặt khác các nhà lãnh đạo ngân hàng cần quan tâm, động viên
chăm sóc đến cán bộ cơng nhân viên trong ngân hàng, tạo cho họ môi trường
làm việc thuận lợi với tâm lý thoải mái, tạo khơng khí sao cho cán bộ cơng
nhân viên thấy được ngân hàng là một gia đình lớn. Điều này thúc đẩy cán bộ
công nhân viên ngân hàng hết sức cố gắng, hết lòng làm việc để ngân hàng lớn
mạnh, đạt kết quả kinh doanh cao. Công tác đào tạo, tổ chức cán bộ phải coi
việc phát triển nguồn nhân lực là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong hoạt
động kinh doanh .
9. Tăng cường hoạt động Marketing trong ngân hàng
Là một ngân hàng mới thành lập, đóng trên địa bàn không mấy thuận lợi,
để mở rộng hoạt động của mình thì hoạt động Marketing là việc làm hết sức
cần thiết. Ngân hàng phải làm thế nào cho người dân biết được hoạt động của
mình và thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng.
Hoạt động quảng cáo: Trong hoạt động huy động vốn, việc quảng cáo nên
tập trung vào một số vấn đề như lãi suất tiền gửi, các hình thức huy động, lợi
ích mà khách hàng có thể nhận được khi gửi tiền, việc khai trương các quỹ tiết
kiệm mới. Thực tế cho thấy nhiều khi ngân hàng phát hành kỳ phiếu với lãi
suất hấp dẫn để huy động vốn trong thời gian ngắn cho hoạt động kinh doanh
nhưng vẫn không được người dân hưởng ứng. Nguyên nhân là phần lớn người
dân không biết được thông tin này, ngoại trừ những khách hàng thường xuyên
liên hệ với ngân hàng. Vì vậy, việc quảng cáo nên tiến hành thường xuyên trên
một số phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài phát thanh, báo
chí... Đặc biệt, khi áp dụng hình thức huy động mới thì cần tuyên truyền một
cách thường xun về lợi ích của nó. Tuy nhiên ngân hàng cũng không nên khi
tới đợt huy động thì mới quảng cáo rầm rộ gây tốn kém mà nên có sự chuẩn bị
từ trước nhằm tiết kiệm các chi phí khơng cần thiết. Một hình thức quảng cáo
có chi phí thấp là dán các tờ áp phích tại các trụ sở, quầy giao dịch, quỹ tiết
kiệm ... của ngân hàng.
Song song với các hình thức quảng cáo là khuyến mại, giúp ngân hàng đẩy
mạnh hoạt động quảng cáo thu hút vốn cho ngân hàng. Hình thức khuyến mại
đa dạng sẽ tạo sức thu hút khách hàng của ngân hàng như trả lời các câu hỏi
về ngân hàng, có thưởng, hình thức xổ số theo tài khoản, lãi suất ưu đãi đối với
khách hàng thường xuyên giao dịch- đây cũng là một hình thức mới làm cho
khách hàng, người dân biết và hiểu rõ về ngân hàng hơn.
Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nói riêng và hệ thống Ngân hàng Cơng thương
Việt Nam nói chung cần phải thực hiện tốt các biện pháp để khắc phục những
tồn tại trong công tác huy động vốn của ngân hàng nhằm tăng trưởng lượng
vốn huy động, đạt hiệu quả trong kinh doanh, đưa Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ
trở thành một tổ chức tài chính vững mạnh, có uy tín lớn trong thị trường
cạnh tranh, trong thị trường liên ngân hàng, có vị trí then chốt trong việc phát
triển kinh tế, góp phần chuyển dịch kinh tế trong tỉnh Nghệ An và địa bàn
thành phố Vinh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Tuy nhiên các giải pháp trên chỉ có thể thực hiện được và có hiệu quả trong
một mơi trường vĩ mơ thuận lợi. Vì vậy, sau đây là một số kiến nghị đối với
ngân hàng Nhà nước Việt Nam để hồn thiện mơi trường vĩ mơ, tạo điều kiện
cho cơng tác huy động vốn ngày càng có hiệu quả hơn
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .
1. Đối với Ngân hàng Công thương Việt nam.
Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến cải
tiến đối với các loại tài khoản tiền gửi hiện nay:
1.1. Cải tiến tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp.
Chuyển sang cơ chế thị trường, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của nền
kinh tế đồng thời tạo cho mình thế đứng vững chắc trong cạnh tranh. Như chúng
ta đã biết, mọi chủ thể trong nền kinh tế thị trường đều có vị thế độc lập tự chủ,
có quyền chủ động thiết lập quan hệ và tiến hành hoạt động kinh tế trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng và hợp tác các bên cùng có lợi. Hiện nay, các ngân hàng
nước ta hồn tồn tách biệt nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán đối với
các doanh nghiệp và áp dụng hai tài khoản: Tài khoản cho vay (theo món và chủ
yếu là cho vay ngắn hạn ) và tài khoản tiền gửi thanh tốn với điều kiện khơng
được phép sử dụng quá số dư. Các tài khoản này có số lượng lớn, tỷ trọng cao
mang lại cho ngân hàng nguồn vốn tiền gửi cơ bản và là nguồn mang lại hiệu quả
cao nhất. Vì vậy ngân hàng cần quan tâm cải tiến sử dụng tài khoản này, tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp trong điều kiện có thể nhằm thu hút khách hàng và
nguồn vốn tiền gửi quan trọng này.
Áp dụng tài khoản tiền gửi thấu chi (Tài khoản vãng lai).
Chúng ta biết mục đích chủ yếu của doanh nghiệp mở tài khoản này để được
ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh tốn thu hộ, chi hộ an tồn, thuận tiện,
nhanh chóng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình chứ khơng nhằm
mục đích kiếm lời. Ở một số nước được ngân hàng cung cấp dịch vụ này
thường doanh nghiệp khơng được trả lãi thậm chí phải trả lệ phí. Ở một số
nước trong đó có nước ta vừa miễn phí và trả lãi suất thấp cho khách hàng để
khuyến khích họ mở tài khoản và sử dụng dịch vụ thanh tốn. Nhưng đến nay
cịn một số hạn chế là không được phát hành quá số dư. Nếu vi phạm có thể bị
phạt kể cả khi doanh nghiệp khơng cố tình hoặc chỉ do khó khăn về tài chính
tạm thời doanh nghiệp chưa thu được các khoản doanh thu kịp thời làm nhịp
độ kinh doanh bị chậm lại.
Nên chăng chúng ta cần hợp nhất nghiệp vụ tiền gửi thanh toán với vay
ngắn hạn vào một tài khoản tạo cho việc sử dụng linh hoạt tiền gửi và tiền vay.
Khi đó khoản thấu chi được coi là khoản vay ngắn hạn với lãi suất cao (như
vay nóng) so với lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường, vừa tạo điều kiện
cho doanh nghiệp kinh doanh, vừa mang lại khoản tín dụng lãi suất cao cho
ngân hàng. Loại tài khoản này ở các nước gọi là tài khoản vãng lai hay tài
khoản séc được sử dụng rất phổ biến không chỉ cho doanh nghiệp mà cho cả
người dân. Đặc điểm của tài khoản vãng lai là có lúc dư có, có lúc dư nợ. Nếu
tài khoản dư có thì doanh nghiệp còn tiền gửi, còn dư nợ tức là doanh nghiệp
vay ngân hàng. Tuy nhiên số dư nợ tức là thấu chi phải có hạn mức theo sự
thoả thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp (căn cứ vào khả năng nguồn vốn
của ngân hàng và khả năng trả nợ của khách hàng). Nếu vì nguyên nhân chủ
quan hay khách quan vượt quá hạn mức trên thì áp dụng chế tài phạt quá hạn
mức.
*Ưu điểm các tài khoản vãng lai:
Một là, đáp ứng nhu cầu vốn thanh toán kịp thời cho doanh nghiệp, đảm bảo
quá trình sản xuất kinh doanh liên tục nhịp nhàng, không bị phạt do phát hành
quá số dư hoặc làm thủ tục vay phức tạp như khoản vay thơng thường.
Hai là, lãi suất vay tính trên số dư nợ thực tế phát sinh và số này thường thấp
hơn mức phạt. Các doanh nghiệp tích cực nộp tiền để giảm và tất toán dư nợ.
Ba là, ngân hàng không phải áp dụng chỉ đạo phạt quá số dư dễ gây ra phản
ứng bất bình của doanh nghiệp và vẫn cho vay một khoản tín dụng lãi suất
nóng thường có khả năng dễ dàng thu hồi. Tuy nhiên ngân hàng phải có kế
hoạch nguồn vốn cho thấu chi và khi doanh nghiệp khơng sử dụng hết hạn mức
thì ngân hàng ứ đọng vốn.
1.2. Cải tiến tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản cá nhân.
Là tài khoản được mở và sử dụng cho mọi người dân muốn tiết kiệm để
dành tiền an toàn, kiếm được lợi tức. Khi kinh tế phát triển, thu nhập của
người dân cao, mức tiết kiệm tích luỹ để dành nhiều thì đây là một nguồn vốn
lớn và ít khi biến đổi đột ngột trừ khi lạm phát phi mã. Hiện nay, thu nhập bình
quân đầu người ở nước ta thấp, nhưng họ thường có thói quen tiết kiệm dự
phịng nhưng khơng phải tất cả mọi người đã gửi tiết kiệm.
Đối với dân cư cần tạo cho họ 2 loại tài khoản cho 2 khoản tiết kiệm: tiết
kiệm khơng kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn với mục đích tích luỹ để dành và
kiếm lời. Thực tế, khi ngân hàng muốn huy động nguồn vốn có kỳ hạn của dân
cư thường là kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng. Nhưng để thoả mãn
nhu cầu tiết kiệm thường xuyên, tích luỹ dần nên chăng ngân hàng cần mở cho
người dân một tài khoản tiết kiệm theo hợp đồng dài hạn để họ tiết kiệm
nhằm mục đích tích luỹ mua tiện nghi đắt tiền như ô tô, nhà cửa. Khi họ đã để
dành được khoảng 2/3 số tiền họ cần, có thể cho họ vay với lãi suất ưu đãi sẽ
khuyến khích họ mở và sử dụng loại tài khoản này. Tài khoản này mang lại
nguồn vốn ổn định vững chắc để ngân hàng có thể cho vay trung - dài hạn.
Ngân hàng có thể mua lại sổ tiết kiệm khi khách hàng có nhu cầu. Cịn khoản
tiết kiệm khơng kỳ hạn thì nên mở cho khách hàng một tài khoản tiền gửi cá
nhân. Người dân thường có tập quán sử dụng quá nhiều tiền mặt trong giao
dịch. Một mặt vì các dịch vụ ngân hàng đang q ít, thanh tốn ngân hàng
chưa đáp ứng kịp ... cho nên mọi nguồn tiền dự trữ trong dân rất lớn, vẫn chưa
tham gia vào chu trình ngân hàng được. Do đó cần phải xây dựng được mạng
lưới tổ chức ngân hàng đến tận mọi tụ điểm kinh tế, mọi khu dân cư, thiết lập
được hệ thống tin học nối mạng giữa các ngân hàng, hình thành hệ thống kế
tốn, thực sự có thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái, thị trường chứng
khoán.
2. Một số kiến nghị đối với Ngân hàng Trung Ương.
2.1. Điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với các ngân hàng
thương mại, khơng nên để lãng phí khoản dữ trữ bắt buộc đóng
băng tại ngân hàng Nhà nước
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một trong những công cụ quan trọng điều hành
chính sách tiền tệ. Tỷ lệ này cần được điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp
với tình hình phát triển đất nước của từng thời kỳ. Đối với ngân hàng thương
mại, dự trữ bắt buộc là một khoản vốn của ngân hàng thương mại phải trả chi
phí nhưng khơng được tham gia vào q trình tạo lợi nhuận của ngân hàng.
Khoản tiền này được “đóng băng”, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao thì lượng vốn dự
trữ của ngân hàng càng tăng lên do chi phí đầu vào tăng trong tổng số tiền mà
ngân hàng được phép cho vay.
Hiện nay, ngân hàng Nhà nước đã thu được một khối lượng tiền dự trữ bắt
buộc khá lớn từ các ngân hàng. Về mặt lí luận, cơng cụ dự trữ bắt buộc không
chỉ là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ mà cịn là một cơng cụ bảo đảm
an toàn tiền gửi, chống lại các khủng hoảng xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng,
phần nào hạn chế sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng. Chính vì vậy, tiền gửi dự
trữ bắt buộc là nguồn vốn quan trọng để ngân hàng Nhà Nước thực hiện vai
trò là ngân hàng của các ngân hàng và tái cấp vốn ngắn hạn đối với các ngân
hàng thương mại khi có tình hình thiếu khả năng chi trả có thể dẫn tới việc rút
tiền gửi ào ạt. Như vậy, thơng qua tỷ lệ dữ trữ bắt buộc thì ngân hàng Nhà
nước đã giúp các ngân hàng thương mại làm tốt hơn công tác dự trữ.
Các ngân hàng thương mại rất dễ thiếu khả năng chi trả vì với nghiệp vụ
thanh tốn khơng dùng tiền mặt ngày càng phát triển, chỉ cần một khoản tiền
chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác lớn hàng tỷ là có thể giảm
lượng tiền dự trữ quá mức dự trữ an toàn. Khi đó việc cho ngân hàng vay lại
phải nhanh chóng. Ở các nước phát triển, việc cho vay này chỉ cần tiến hành
thông qua điện thoại là tiền được chuyển ngay đến nơi và đáp ứng ngay được
nhu cầu rút tiền của khách hàng, thậm chí thủ tục vay bằng giấy tờ được làm
sau khi nhận tiền. Nếu đóng băng tiền gửi dự trữ bắt buộc lại, không cho các
ngân hàng thương mại vay khi họ tạm thời thiếu khả năng thanh toán, ngân
hàng Nhà nước làm sao thực hiện được trọng trách đảm bảo, bảo vệ cho các
ngân hàng thương mại khi họ gặp khó khăn trong chi trả dẫn đến xảy ra việc
rút tiền ào ạt và sự đổ vỡ của ngân hàng là không thể tránh khỏi.
Trong khi nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu về vốn đang cấp bách, ngân
hàng Nhà nước không thể để lãng phí hàng ngàn tỷ đồng dự trữ bắt buộc. Tất
nhiên, ngân hàng Nhà nước không thể dùng dự trữ bắt buộc để cho vay như
cho vay để tăng vốn đối với các ngân hàng thương mại, cho vay trong nền kinh
tế ... Cho vay như vậy đến lúc cần tiền mặt để đảm bảo khả năng chi trả cho các
ngân hàng thương mại thì ngân hàng Nhà nước sẽ khơng thu hồi được nợ vay
về ngay do tính lỏng của tài sản q thấp. Vì vậy cần có loại cho vay thích hợp
để đảm bảo khả năng chi trả cho ngân hàng thương mại, nghĩa là chỉ cho vay
khi tiền gửi tại các ngân hàng giảm sút mạnh, trong khi đó nhu cầu rút tiền
của người gửi tăng nhanh. Các ngân hàng thương mại không được sử dụng
khoản này để tạo tiền trong quá trình hoạt động của mình.
Ngân hàng Nhà nước ta hiện nay trong khi thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia có 3 hình thức tái cấp vốn được quy định ở điều 17 Luật ngân hàng Nhà
nước Việt Nam: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu
thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có bảo đảm bằng
cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Ngân hàng Nhà
nước nên bổ sung ngay loại cho vay khôi phục khả năng chi trả được phép vay
cực nhanh bằng điện thoại. Nếu loại cho vay này được thực thi sẽ làm giảm
tổng mức dự trữ an toàn chung của tồn hệ thống ngân hàng trong cả nước vì
các khoản dự trữ ngoài dữ trữ bắt buộc của ngân hàng Nhà nước là khoản dự
trữ để đảm bảo nhu cầu chi trả của ngân hàng cho khách hàng. Vì lượng khách
hàng rút tiền khơng đều và dự đốn của ngân hàng về lượng tiền gửi nhận
được chưa thực sự chính xác do vậy lượng dự trữ nhiều khi lại quá thừa khi lại
quá thiếu. Do vậy, khi loại hình cho vay cực nhanh được áp dụng sẽ tạo khả
năng để ngân hàng Nhà nước điều hoà dự trữ ở các ngân hàng thương mại.
Từ tính chất hoạt động khơng đồng đều của các ngân hàng mà ngân hàng Nhà
nước có thể điều hồ từ ngân hàng thừa dự trữ sang ngân hàng thiếu dự trữ
do lượng tiền gửi biến động. Đồng thời hoạt động cho vay của ngân hàng Nhà
nước đối với các ngân hàng thương mại phụ thuộc hồn tồn vào chính sách
tiền tệ quốc gia trong thời kỳ đó và lượng tiền trong lưu thơng mà ngân hàng
ước lượng. Như vậy, dựa vào dự trữ bắt buộc ngân hàng Nhà nước có thể thu
hút làm giảm hoặc tăng lượng tiền trong lưu thông. Điều này làm giảm được
khó khăn cho các ngân hàng thương mại.
2.2. Phải có chính sách lãi suất phù hợp trong từng thời kỳ.
Để cơng cụ lãi suất phát huy vai trị của mình thì ngân hàng Nhà nước phải
tiếp tục có chính sách đúng đắn, cụ thể:
- Đưa ra lãi suất cơ bản và biên độ dao động phù hợp cho từng giai đoạn
phát triển kinh tế. Nghĩa là tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của tăng trưởng
kinh tế, của hoạt động ngân hàng để định ra lãi suất cơ bản hợp lý, phù hợp
với mối quan hệ cung cầu về vốn và đảm bảo cho các ngân hàng thương mại
kinh doanh có lãi.
- Theo dõi thường xuyên liên tục lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ lạm
phát trên thị trường hàng hoá để điều chỉnh kịp thời linh hoạt sao cho lãi suất
danh nghĩa bằng lãi suất thực cộng tỷ lệ lạm phát và lãi suất huy động vốn
danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát dự tính (nghĩa là đảm bảo lãi suất thực
dương)
- Về lâu dài, ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp, chính sách để hạ dần
mức lãi suất để hoà nhập mặt bằng lãi suất trên thế giới. Điều này sẽ thu hút
ngày càng nhiều nguồn vốn nước ngoài vào trong nước. Tuy nhiên, trước mắt
ngân hàng điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng xoá bỏ dần sự chênh lệch
giữa lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ, chỉ để một mức chênh lệch hợp lý để
cho dân chúng không đổi hết nội tệ sang ngoại tệ dẫn đến sức ép về tỷ giá.
- Nhà nước cần tiến tới điều hành lãi suất bằng biện pháp tái chiết khấu và
nghiệp vụ thị trường mở, bỏ mức lãi suất cơ bản và biên độ dao động cho phép.
2.3. Phải điều chỉnh tỷ giá hợp lý khi có biến động.
Ổn định tỷ giá là mục tiêu của chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước.
Ổn định tỷ giá nội tệ so với ngoại tệ cũng là điều kiện quan trọng để huy động
tối đa nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Khi tỷ giá biến động theo xu
hướng giảm giá Việt Nam đồng, dân cư sẽ rút tiền gửi nội tệ ở ngân hàng để
mua ngoại tệ mạnh. Điều này làm cho nguồn vốn nội tệ sụt giảm, ngân hàng sẽ
gặp khó khăn trong chi trả. Lúc này nếu khách hàng sau khi mua ngoại tệ sẽ
tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng thì tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng sẽ
không đổi nhưng ngược lại nếu khách hàng sau khi mua ngoại tệ khơng gửi
vào ngân hàng nữa thì nguồn vốn huy động của ngân hàng giảm xuống và
ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong cơng tác quản lý nguồn vốn huy động. Hiện
nay tỷ giá của USD/ VNĐ tiếp tục tăng, tỷ giá chưa phản ánh đúng sức mua
của đồng nội tệ. VNĐ được đánh giá cao hơn giá trị thực của nó nên gây ra khó
khăn cho hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên việc phá giá sẽ gây tác động nghiêm
trọng đến nền kinh tế, làm mất lòng tin của dân chúng đối với đồng nội tệ.
Trong tình hình hiện nay nền kinh tế phát triển khá ổn định nếu có thể phá giá
thì cần được tiến hành từ từ một cách hợp lý, không công khai. Như vậy sẽ làm
giảm sự ảnh hưởng tới giá thành sản xuất, hệ thống giá cả và tâm lý lo ngại
đối công chúng.
- Tiếp tục vận hành cơ chế điều hành tỷ giá như hiện nay theo hướng ngày
càng nới rộng kiểm sốt, ngày càng khách quan, hướng tỷ giá chính thức sát
với tỷ giá trên thị trường theo quan hệ cung cầu .
- Tập trung quỹ ngoại tệ do ngân hàng Nhà nước quản lý, xây dựng nguyên
tắc sử dụng và chuẩn bị một lượng ngoại tệ để can thiệp vào thị trường khi
cần thiết.
- Hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối.
- Phân tích tình hình, tập trung ngoại tệ và đào tạo cán bộ để tiến tới thành
lập thị trường hối đoái. Đây là một kênh huy động vốn ngoại tệ sẽ nâng cao
được giá trị đồng nội tệ.
2.4. Hồn thiện mơi trường pháp lý, chính sách liên quan đến hoạt động
ngân hàng.
Hiện nay, hoạt động ngân hàng tuân theo sự điều chỉnh của Luật ngân hàng
nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ngồi ra cịn có nhiều quy định khác thể
hiện tính chất tiến bộ, phù hợp với tình hình mới, tạo hành lang pháp lý thuận
lợi cho các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong các văn bản quy phạm pháp luật này vẫn còn các quy định
chưa rõ ràng, như quy định về vốn tự có của ngân hàng, quy định về các hoạt
động huy động vốn, các quy định về chỉ tiêu hoạt động của ngân hàng bị thay
đổi quá nhiều trong thời gian ngắn... Điều đó cho thấy những yếu tố cịn thiếu
chặt chẽ trong luật và các văn bản dưới luật của ngân hàng Nhà nước ban
hành. Điều này đòi hỏi các cơ quan ban hành văn bản quy phạm về lĩnh vực
ngân hàng tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung các văn bản hiện hành cho
phù hợp, tạo điều kiện phát triển cho các hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách về lãi suất, về hạn mức, về dự trữ...
hợp lý hơn, khoa học hơn trên cơ sở bảo vệ quyền lợi cho các ngân hàng và
khách hàng. Việc hạ hoặc nâng lãi suất nhiều lần làm cho hoạt động của ngân
hàng gặp nhiều khó khăn đặc biệt là huy động vốn. Khách hàng sẽ ở trong tâm
trạng chờ đợi lãi suất cao hơn mà không gửi tiền ngay vào ngân hàng. Việc áp
dụng lãi suất cơ bản với biên độ giao động cũng mang tính áp đặt về khung lãi
suất như quy định lãi suất trần cho vay và sàn huy động của trước kia. Ngân
hàng nên thay nó bằng cách chỉ công bố lãi suất tái chiết khấu mà ngân hàng
áp dụng từ đó các ngân hàng thương mại sẽ đưa ra được mức lãi suất phù
hợp. Điều này sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh với mức cao hơn giữa các ngân hàng,
tạo thêm sự chủ động linh hoạt và tự chủ trong kinh doanh của các ngân hàng.
Mỗi ngân hàng có thể tuỳ thuộc vào vị thế trên thị trường để ấn định mức lãi
suất phù hợp thay vì bị kiềm chế bởi khung lãi suất.
Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh phát triển nghiệp vụ thị trường mở mà
không trực tiếp tác động vào lãi suất, gây ra những biến động xấu về tình hình
đầu tư.
Các văn bản luật và dưới luật cần được ban hành một cách có hệ thống,
chính xác đảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều sự được điều
chỉnh của luật pháp, tạo nên một môi trường ổn định về pháp lý và chế độ
chính sách của các ngân hàng.
2.5. Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy Cơng ty bảo hiểm
tiền gửi phát huy vai trị của mình.
Sự an tồn của ngân hàng thương mại luôn là mỗi quan tâm hàng đầu đối
với các cổ đông (chủ ngân hàng), người ký thác, các giới chức điều hành và
giám sát bởi những vụ phá sản ngân hàng có thể có ảnh hưởng bất lợi đối với
nền kinh tế hơn bất cứ các vụ phá sản ở bất cứ loại hình doanh nghiệp nào
khác. Để đảm bảo an toàn (giảm thiểu rủi ro) cho các NHTM. Công ty bảo hiểm
tiền gửi ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi cho người ký thác trong trường hợp rủi
ro xẩy ra nghĩa là ngân hàng bị phá sản.
Bảo hiểm tiền gửi ra đời với mục đích sẽ làm tăng niềm tin của quần chúng
vào ngân hàng, nhằm huy động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế
đặc biệt là tiền gửi của dân cư.
Ở Việt Nam, ngày 19/08/2000 tổ chức bảo hiểm tiền gửi TP Hồ Chí Minh
được thành lập và được áp dụng cho tồn bộ hệ thống ngân hàng thương mại
ở Việt Nam. Công ty bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động
khơng vì mục tiêu lợi nhuận.
Ngân hàng Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ cho công ty bảo hiểm
tiền gửi như bắt buộc các ngân hàng thương mại phải gửi các báo cáo tài
chính, báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của mình để cơng ty bảo hiểm
tiền gửi có thể hiểu rõ được hoạt động của ngân hàng và có biện pháp cứu trợ
kịp thời khi ngân hàng gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng
Nhà nước giám sát hoạt động đóng phí bảo hiểm của các ngân hàng và các tổ
chức tín dụng khác có thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi.
Trên đây là một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động
vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ. Các biện pháp trên cần được tiền hành một
cách đồng bộ, nhất quán và tuỳ thuộc vào điều kiện tình hình thực tế của mình
mà ngân hàng sẽ lựa chọn biện pháp nào cho hợp lý. Như vậy công tác huy
động vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nói riêng và NHTM nói chung sẽ đạt
kết quả tốt.
Kết luận
Ngày nay, sự ổn định và tăng trưởng kinh tế đất nước luôn gắn liền với sự ổn
định và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại. Do vậy nhu cầu về vốn
của các ngân hàng thương mại để cung cấp cho nền kinh tế không chỉ là vấn đề
của các nhà lãnh đạo ngân hàng mà còn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà
kinh tế, chính trị gia trên thế giới. Trong khi đó, huy động vốn là một nghiệp vụ cơ
bản và quan trọng của bất cứ ngân hàng thương mại nào. Quy mô, chất lượng
huy động vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của các ngân
hàng do vậy ảnh hưởng đến sự cung ứng vốn cho nền kinh tế .
Ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn cho q trình cơng nghiệp hố - hiện đại
hố đất nước là rất lớn, trong khi thị trường chứng khoán chưa phát triển.
Trong tình hình như vậy, cơng tác huy động vốn ở NHTM rất cần được chấn
chỉnh, mở rộng và tăng cường nhằm thu gom được tối đa lượng tiền nhàn rỗi
trong nền kinh tế.
Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ em đã tìm hiểu kỹ
công tác huy động vốn cùng với sự tham khảo các tài liệu liên quan, em đã
hoàn thành được luận văn này. Luận văn đã nêu lên được các hình thức huy
động vốn của NHTM và những yếu tố ảnh hưởng tới công tác này. Từ lý thuyết,
luận văn đã đi vào phân tích thực trạng huy động vốn của Chi nhánh NHCT
Bến Thuỷ, những thành quả đạt được, những khó khăn cịn vướng mắc. Từ đó
đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động vốn
cho ngân hàng .
Trên đây là toàn bộ luận văn của em trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ. Do trình độ thực tế cịn bị hạn
chế, thời gian thực tập không được dài nên luận văn này không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô và những ai quan tâm
đến vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ, cùng
toàn thể cán bộ Chi nhánh Ngân hàng Cơng thương Bến Thuỷ – Thành phố
Vinh đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành luận văn này./.
Vinh, tháng 05 năm 2003
Sinh viên
Lê Anh Tú
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng năm 1998.
2. Các văn bản dưới luật của ngân hàng nhà nước, Ngân hàng Công thương
Việt Nam .
3. Báo cáo 5 năm xây dựng và trưởng thành Chi nhánh Ngân hàng Công
thương Bến Thuỷ.
4. Báo cáo kết quả kinh doanh năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ.
5. Frederic S. Mishkin: Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính.
6. Ph.D & Edward K. Gill Ph.D: Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại .
7. Tạp chí ngân hàng các năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002.
8. Thời báo kinh tế các số năm 2000, 2001, 2002.
9. Thời báo ngân hàng.
10. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ.