Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

ThS QLKT quản lý tài sản công tại ủy ban nhân dân quận thanh xuân, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.14 KB, 100 trang )

1

MỤC LỤC


2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4

Viết đầy đủ
Quản lý nhà nước
Tài sản công

Viết tắt
QLNN
TSC

Tài sản cố định
Ủy ban nhân dân

TSCĐ
UBND


3


DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT

Tên

1

Bảng 2.1

2

Bảng 2.2

3

Bảng 2.3

4

Bảng 2.4

5

Bảng 2.5

6

Bảng 2.6

7


Bảng 2.7

8

Bảng 2.8

9

Bảng 2.9

10

Bảng 2.10

11

Bảng 2.11

12

Bảng 2.12

13

Bảng2.13

14

Bảng 2.14


15

Bảng 2.15

Nội dung
Trang
Ngân sách nhà nước của quận Thanh Xuân từ năm
37
2012-2014
Nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước của quận
37
Thanh Xuân
Các khoản chi của quận Thanh Xuân
38
Hiện trạng tài sản công quận Thanh Xuân từ năm
40
2012-2014
Danh sách nhà thầu máy tính
43
Chi mua sắm máy móc, trang thiết bị phương tiện
44
làm việc của UBND quận Thanh Xuân
Tài sản biếu tặng của UBND quận Thanh Xuân tính
44
đến tháng 6/2014
Chi phí sửa chữa, bảo dưỡng, bảo trì tài sản công
45
của UBND quận Thanh Xuân
Phương tiện vận chuyển của UBND quận Thanh

46
Xuân
Hao mòn tài sản cố định của UBND quận Thanh
48
Xuân
Chi trụ sở làm việc của UBND quận Thanh Xuân
49
Định mức sử dụng trụ sở làm việc đối với cán bộcác
50
quận nội thành
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản công tại
50
quận Thanh Xuân từ năm 2012-2014
So sánh giá văn phòng phẩm của UBND quận
53
Thanh Xuân và giá văn phòng phẩm trên thị trường
Tỷ trọng các nguồn chi của UBND quận Thanh
59
Xuân


4


5

LỜI NÓI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Lịch sử hình thành, tổ chức và phát triển của các nhà nước trên thế giới

đã khẳng định rằng: Tài sản công là nguồn lực nội sinh của đất nước, là yếu tố
cơ bản của quá trình sản xuất và quản lý xã hội, là nguồn lực tài chính tiềm
năng cho đầu tư phát triển, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tài sản công theo Hiến pháp năm 2013 xác định bao gồm: Đất đai, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên
thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý.
Dù không tham gia trực tiếp vào sản xuất nhưng tài sản công có ý nghĩa
quan trọng cho sự phát triển của kinh tế xã hội, tài sản công là nguồn tài sản
lớn đảm bảo môi trường cho cuộc sống của con người, là một trong những
yếu tố cơ bản của quản lý nhà nước và quản lý xã hội, là nguồn lực tài chính
tiềm năng cho đầu tư phát triển, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Nhà nước là chủ sở hữu của tài sản công, songNhà nước không phải là
người trực tiếp sử dụng toàn bộ tài sản công mà tài sản công được Nhà nước
giao cho các cơ quan, đơn vị thuộc bộ máy nhà nước v.v... trực tiếp quản lý,
sử dụng. Để thực hiện vai trò chủ sở hữu tài sản công của mình, Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tài sản công nhằm sử dụng, bảo
tồn, phát triển nguồn tài sản công tiết kiệm, hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân.
Quận Thanh Xuân được thành lập từ01/01/1997 với 11 đơn vị hành chính
cấp phường, có diện tích tự nhiên 908,2ha, dân số là 268.461 người, nằm ở


6
trung tâm phía Tây Nam thành phố Hà Nội. Quận thuộc khu vực phát triển đô
thị của Thành phố, là trung tâm của Thành phố do đó có lợi thế để thúc đẩy

nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội.
Các cơ quan hành chính thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) quận có vị trí
rất quan trọng. Tập trung toànbộ các cơ quan lãnh đạo, cơ quan quản lý nhà
nước trên địa bàn quận. Các cơ quan hành chính quản lý một khối lượng tài
sản, các dự án đầu tư, khối lượng cơ sở vật chất lớn. Quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực, bao gồm nhiều lĩnh vực hiện nay gắn chặt với lợi ích thiết thân
của nhân dân. Chất lượng công tác, tính tiền phong gương mẫu của cán bộ,
công chức khu vực hành chính ảnh hưởng, tác động trực tiếp tới niềm tin của
nhân dân. Do đó quản lý nghiêm ngặt, hiệu quả cao là cơ sở để người dân tin
tưởng vào sự lãnh đạo điều hành của chính quyền địa phương. Những năm
qua, thực hiện sự lãnh đạo của Quận uỷ, UBND quận, hoạt động các phòng
ban khối cơ quan hành chính đã có nhiều chuyển biến tích cực, thực hiện
được chức năng, nhiệm vụ theo quy định, đáp ứng yêu cầu công tác chung và
giao dịch với công dân.
Thực tế thời gian qua, quản lý tài sản côngở UBND quận Thanh Xuân
bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế: Tình trạng các cơ
quan hành chính, sự nghiệp và các đơn vị thuộc khu vực công sử dụng vượt
tiêu chuẩn định mức gây lãng phí; cho thuê, mượn tài sản công không đúng
quy định, tự ý sắp xếp, xử lý làm thất thoát tài sản công. Trụ sở làm việc hiện
nay chưa được quản lý chặt chẽ đây là những hạn chế bất cập trong quản lý
tài sản công. Ngoài ra, công tác thống kê theo dõi, giám sát sử dụng chưa
thường xuyên trong khi Ngân sách nhà nước có hạn đã đặt ra yêu cầu tiếp tục
hoàn thiện quản lý tài sản công của UBND quận. Vì vậy, việc nghiên cứu
nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài sản công có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Quản lý tài sản công tại Ủy ban nhân dân


7
quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” để làm luận văn thạc sĩ Quản lý kinh
tế.

2.

Mục đích nghiên cứu của luận văn
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực hiện về quản lý tài sản công của cơ

quan quản lý nhà nước.
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý tài sản công tại Ủy ban
nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trong thời gian qua những kết
quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân.
Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài
sản công tại Ủy ban nhân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
Quản lý tài sản công tại Ủy ban nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố

Hà Nội trong quan hệ giữa UBND quận với các đơn vị sử dụng tài sản công.
3.2.
-

Phạm vi nghiên cứu
Về không gian:

Tài sản công tại Ủy ban nhân dân quậnThanh Xuân, thành phố Hà Nội.
-

Về thời gian:
Từ năm 2012 đến năm 2014.


4.

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các số liệu thứ cấp từ các báo cáo tổng kiểm kê tài sản

của các đơn vị, kết quả công bố chọn điểm nghiên cứu khảo sát và một số
cuộc điều tra, tổng kiểm kê tài sản của đơn vị.
Phương pháp luận: Dựa vào phương pháp biện chứng, phương pháp hệ
thống và phương pháp thực chứng.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh để rút ra những kết luận cần thiết cho việc nghiên cứu.


8
5.

Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phục

lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài sản
công trong các cơ quan quản lý nhà nước;
Chương 2: Phântích thực trạng quảnlý tài sản công tại UBND quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; kết quả, hạn chế và nguyên nhân;
Chương 3:Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý tài sản công
tại Ủy ban nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.


9

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
TRONG CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1.

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
1.1.1. Những quan niệm quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền

lực của Nhà nước đối với các quá trình quản lý kinh tế - xã hội của đất nước
và hành vi hoạt động của con người để duy trì các mối quan hệ chính trị, kinh
tế, xã hội theo pháp luật nhằm bảo vệ chủ quyền Nhà nước, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. “Quản lýNhà nước
là một dạng đặc biệt, mang tính quyền lực Nhà nước và sử dụng pháp luật
Nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện
nhằm duy trì sự ổn định và phát triển xã hội” (Học viện Hành chính quốc gia
2008. NXB Khoa học, Kỹ thuật Hà Nội, trang 54).
Quản lý nhà nước về kinh tế là sử dụng tác động của chủ thể quản lý lên
khách thể quản lý nhằm vận hành nền kinh tế theo các mục tiêu đặt ra (GS.TS
Lương Xuân Quỳ, Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 2006 – Chương 15).
Trong những năm gần đây, trong điều kiện kinh tế thị trường các nhà
khoa học đã có cách tiếp cận mới về quản lý nhà nước về kinh tế. Theo các
nhà kinh tế của Ngân hàng thế giới: “Nhà nước nên ít tham gia vào những
lĩnh vực mà thị trường vận hành tốt và nên tham gia nhiều hơn vào những lĩnh
vực không thể dựa vào thị trường”. Liên quan đến việc cung ứng các dịch vụ
công cộng, các nghiên cứu gần đây đã lựa chọn các nguyên lý cơ bản do các
nhà kinh tế tân cổ điển đề xuất và có một số điều chỉnh phù hợp với hoàn

cảnh mới. Chính phủ và khu vực tư nhân với vai trò là người sản xuất và


10
người mua với các dịch vụ công cộng (Marti nussen, 1997, Society, stete and
mareet – A Gude to competing Theorics of development, Zed book ltd,
London & New Jersey, PP, PP 267).
Những luận điểm mới về quản lý nhà nước là định hướng quan trọng cho
quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, đặc biệt là quản lý tài sản công; mở
rộng không gian cung ứng cả các cơ sở cung cấp tài sản của khu vực Nhà
nước và khu vực tư nhân;sử dụnggiá thị trường trong việc mua sắm quản lý
và đánh giá sử dụng; sử dụng các phương thức quản lý mới đối với các tài sản
công có giá trị lớn như đấu thầu, đấu giá, bảo đảm tính minh bạch công khai
trong quản lý sử dụng tài sản công.
1.1.2. Một số nguyên tắc quản lý Nhà nước về
a. Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế

kinh tế

Đây là nguyên tắc cơ bản bảo đảm sự thống nhất của lãnh đạo quản lý
trong các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, tạo động lực cùng chiều ổn
định chính trị và phát triển kinh tế. Nguyên tắc này chi phối các hoạt động
quản lý kinh tế trong đó có quản lý tài sản công (TSC).
b.

Nguyên tắc tập trung dân chủ

Nguyên tắc này quy định mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung
dân chủ trong quản lý kinh tế. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải
thực hiện trong khuôn khổ tập trung. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân

chủ trong quản lý nhà nước về kinh tế ở chỗ: Cơ quan nhà nước cấp dưới phải
phục tùng cơ quan nhà nước cấp trên; tăng cường quyền quản lý tập trung
thống nhất của trung ương, kết hợp với phân cấp hợp lý để phát huy tính chủ
động, sáng tạo của cấp dưới; thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tập
thể, mọi người phải phục tùng những người chỉ huy theo chế độ thủ trưởng
trong điều hành công việc ở cơ quan, công sở. Nguyên tắc này là cơ sở để xác
định trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong quản lý TSC.


11
c.

Nguyên tắc kết hợp hài hòa các quan hệ lợi ích

Quản lý kinh tế trước hết là quản lý con người. Con người có những lợi
ích, những nguyện vọng và nhu cầu nhất định. Vì vậy, phải chú ý đến lợi ích
của con người trong quản lý kinh tế để phát huy tính tích cực của họ trong
việc tham gia quản lý. Cần kết hợp hài hòa giữa ba lợi ích là lợi ích xã hội
(hay lợi ích nhà nước) với lợi ích của tập thể và lợi ích cá nhân. Muốn vậy,
chủ thể quản lý cần phải làm cho mọi người hiểu được cái lợi của cá nhân
mình, từ đó phát huy được trách nhiệm, quyền hạn, tính tích cực của họ trong
công tác quản lý. Nguyên tắc này chi phối đến các hoạt động đầu tư, mua sắm
sử dụng TSC.
d.

Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả

Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt của một vấn đề, nghĩa là phải làm sao
với một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có bằng chính sách công cụ của nhà nước
có thể sản xuất ra được một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất. Tiết kiệm

bao gồm tiết kiệm trong sản xuất và trong tiêu dùng, đặc biệt là tiết kiệm
trong quảnlý. Mác đã nhận định: “Toàn bộ vấn đề tiết kiệm chung quy lại là
vấn đề tiết kiệm thời gian. Bởi vì việc tiết kiệm thời gian cũng như việc phân
phối một cách có kế hoạch thời gian lao động trong các ngành sản xuất khác
nhau vẫn là một quy luật ”. Nguyên tắc này chi phối đến các hoạt động trong
công tác quản lý TSC.
1.1.3.

Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế

Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương
hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước tới nền kinh tếquốc
dân, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước phải tiến hành trong
quá trình quản lý nền kinh tế. Để quản lý nền kinh tế, trước tiên Nhà nước
phải thiết lập khuôn khổ pháp lý về nền kinh tế trong nền kinh tế thị trường,
bảo đảm cho thị trường hoạt động có hiệu quả, tạo lập một môi trường thuận


12
lợi cho hoạt động sản xuất- kinh doanh, bảo đảm cơ sở hạ tầng cho nền kinh
tế phát triển, hỗ trợ cho quá trình phát triển nền kinh tế và cuối cùng là cải
cách hành chính công tạo sự thông thoáng cho nền kinh tế phát triển.
Cùng với quá trình xây dựng, thiết lập khuôn khổ pháp chế cho nền kinh
tế Nhà nước tiến hành hoạch định phát triển kinh tế bằng các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình mục tiêu. Tổ chức điều hành nền kinh tế bằng
việc điều hành bộ máy quản lý nhà nướcvề kinh tế từ Trung ương đến địa
phương; điều hòa phối hợp kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế.
1.1.4. Công cụ và phương pháp quản lý nhà
a. Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế


nước về kinh tế

Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà
Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế và đối tượng nhằm thực
hiện mục tiêu quản lý kinh tế. Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế bao
gồm:
-

Pháp luật: Là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị và cộng đồng xã hội do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo
vệ nhằm mục tiêu phát triển xã hội.Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Liên quan đến quản lý TSC ở nước ta, Nhà nước đã ban hành một số luật
liên quan: Luật Đất đai, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Dân sự,
Luật Đấu thầu. Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước về kinh tế ở nước
ta thể hiện trên các mặt cơ bản sau đây:

o

Thứ nhất: Tạo tiền đề vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự
ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm mục tiêu phát triển kinh tế bền
vững;


13
o

Thứ hai: Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của


o

nền kinh tế;
Thứ ba:Tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế

-

với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Kế hoạch: Theo nghĩa rộng là phương án hành động trong tương lai. Kế
hoạch với tư cách là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước bao
gồm: Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xác định mục tiêu, thiết lập kế hoạch
trung hạn (3 năm, 5 năm), kế hoạch năm.
Thông qua kế hoạch phát triển nền kinh tế xác định mục tiêu để thiết lập
những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân bao gồm: Cân đối tổngcung-tổng
cầu, cân đối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, cân đối thu chi ngân
sách nhà nước, cân đối tiền tệ và tín dụng, cân đối ngoại tệ và thanh toán tài
khoản quốc tế. Xây dựng kế hoạch chỉ là điều kiện cần còn điều kiện đủ phải
tăng cường chỉ đạo thực hiện kế hoạch, biến kế hoạch thành kết quả hiện
thực.
- Chính sách:Là một trong những công cụ chủ yếu mà Nhà nước sử dụng
để quản lý nền kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách là một tập hợp các giải pháp
nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình đạt tới các mục
tiêu chung của nền kinh tế. Vai trò của chính sách trong quản lý của Nhà nước
đối với nền kinh tế thể hiện ở chỗ: Một là tạo ra những kích thích đủ lớn để
biến đường lối, chiến lược của Nhà nước thành hiện thực, góp phần thống
nhất tư tưởng và hành động của mọi người trong xã hội để thực hiện các mục
tiêu chung của phát triển kinh tế; hai là trong hệ thống các công cụ quản lý,
chính sách là bộ phận năng động nhất, có tính linh hoạt trước những biến
động trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước nhằm giải quyết những vấn

đề bức xúc của xã hội đặt ra. Trong nội bộ nền kinh tế, một hệ thống chính


14
sách đồng bộ, phù hợp sẽ là một đảm bảo vững chắc cho sự vận hành nền
kinh tế.
-

Tài sản: Theo nghĩa rộng bao gồm tất cả nguồn lực của đất nước, theo nghĩa
hẹp là nguồn tài chính và các phương tiện vật chất kỹ thuật mà Nhà nước
được sử dụng để quản lý kinh tế. Tài sản quốc gia bao gồm: Công sở, ngân
sách nhà nước, tài nguyên thiên nhiên, công khố, kết cấu hạ tầng, doanh
nghiệp nhà nước, hệ thống thông tin nhà nước. Nhà nước quản lý và sử dụng
tài sản quốc gia làm công cụ để điều tiết sự vận hành của nền kinh tế quốc dân
theo quỹ đạo và mục tiêu đã định. Trong lĩnh vực quản lý TSC ở cấp quận về
cơ bản tuân thủ các công cụ trên đây và được cụ thể hóa bằng các công cụ sau

o
o
o
o

đây:
Kế hoạch đầu tư mua sắm TSC;
Hệ thống tiêu chuẩn định mức sử dụng;
Kiểm kê tài sản hàng năm;
Dự toán, quyết toán TSC trong tổng thể dự toán.
b. Phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế
Phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức
tác động có chủ đích của Nhà nước lên nền kinh tế và các bộ phận hợp thành

của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế. Các phương pháp quản lý
nhà nước về kinh tế của Nhà nước bao gồm:

-

Phương pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước thông
qua các quyết định có tính chất hành chính buộc các đối tượng phải tuân thủ
nhằm thực hiện mục tiêu chung. Thực chất của phương pháp này là sử dụng
quyền lực của Nhà nước để tạo ra những sự phục tùng của các tổ chức và cá
nhân trong hoạt động kinh tế, tạo lập trật tự, kỷ cương cho nền kinh tế hoạt
động, điều chỉnh các quan hệ kinh tế vĩ mô để phát triển nhịp nhàng kinh tế và

-

xã hội.
Phương pháp kinh tế là cách thức tác động gián tiếp của Nhà nước, dựa trên
động lực lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên đối tượng quản lý nhằm làm


15
cho họ quan tâm hơn đến mục tiêu cuối cùng từ đó mà tự giác, chủ động hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Nhà nước thông qua phương pháp kinh tế
để kết hợp hài hòa các quan hệ lợi ích trong đó lợi ích cá nhân là động lực
-

trực tiếp.
Phương pháp giáo dục là cách thức tác động vào nhận thức và tình cảm của
người lao động nhằm nâng cao tính tự giác và trách nhiệm của họ. Khi thực

o


hiện nhiệm vụ nội dung và phương pháp này bao gồm:
Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, cơ chế của cơ quan quản lý để mọi

o

người hiểu đúng để thực hiện;
Giáo dục ý thức tự chủ,sáng tạo và trách nhiệm, hoàn thành tốt công việc

o
o

được giao;
Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng thông qua các đoàn thể;
Phổ biến kinh nghiệm của các đơn vị cá nhân có thành tích trong hoạt động
quản lý kinh tế nói chung và quản lý tài sản nói riêng.
1.2. TÀI SẢN CÔNG TRONG CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: “Tài sản là tất cả những gì
có giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của một cánhân, đơn vị hoặc của Nhà nước”.
Theo Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 06/03/1998 của Chính phủ: “Tài
sản công là những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước, tài
sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước theo quy định của pháp luật:
Đất đai, rừng tự nhiên, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất,
nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời”.
Tài sản công của cơ quan Hành chính là những tài sản mà Nhà nước giao
cho cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức khác
trực tiếp quản lý, sử dụng phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan,
đơn vị.

TSC của cơ quan quản lý nhà nước bao gồm:


16
-

Đất đai (đất sử dụng làm trụ sở làm việc, đất xây dựng cơ sở hoạt động sự

-

nghiệp công)
Trụ sở, công trình xây dựng khác gắn liền với đất đai: Nhà làm việc, nhà kho,
hội trường, nhà câu lạc bộ nhà văn hoá, nhà tập và thi đấu thể thao, nhà bảo
tồn bảo tàng, nhà trẻ nhà mẫu giáo, nhà xưởng, trường học, giảng đường, ký
túc xá, bệnh viện, trạm xá, nhà an dưỡng, nhà khách, nhà ở, nhà công vụ, nhà

-

khác...
Các tài sản khác gắn liền với đất đai gồm: Giếng khoan, giếng đào, sân chơi,
sân phơi, cầu cống, hệ thống cấp thoát nước, đê, đập, đường sá (do đơn vị đầu
tư xây dựng), sân vận động, bể bơi, trường bắn, các lăng tẩm, tượng đài,

-

tường rào bao quanh...
Các phương tiện giao thông vận tải: Phương tiện vận tải đường bộ (xe ô tô, xe
mô tô, xe gắn máy và phương tiện vận tải đường bộ khác); phương tiện vận
tải đường thuỷ (ca nô, xuồng máy các loại; tàu thuỷ các loại; ghe thuyền các
loại và phương tiện vận tải đường thuỷ khác); phương tiện vận tải đường


-

không (máy bay các loại)...
Phương tiện truyền dẫn: Hệ thống dây điện thoại, tổng đài điện thoại, phương

-

tiện truyền dẫn điện...
Các máy móc, trang thiết bị, phương tiện làm việc và các tài sản khác: Máy vi
tính, máy in, máy photocopy, máy chiếu, máy huỷ tài liệu, máy đun nước,
thiết bị lọc nước, máy hút ẩm, máy hút bụi, máy điều hoà không khí, tủ lạnh,
tủ đá, máy giặt, thiết bị nghe nhìn, thiết bị lưu trữ thông tin dữ liệu, thiết bị
phòng cháy chữa cháy, bộ bàn ghế, tủ, két sắt, máy móc thiết bị thí nghiệm...
Những tài sản trên đây là cơ sở vật chất cần thiết để tiến hành các hoạt
động quản lý nhà nước, các hoạt động sự nghiệp công và các hoạt động xã hội
khác. Các cơ quan quản lý nhà nước(QLNN)chỉ có quyền quản lý, sử dụng
các tài sản này để thực hiện nhiệm vụ được giao, không có quyền sở hữu.
Việc sử dụng tài sản phải đúng mục đích, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức


17
do Nhà nước ban hành; không được sử dụng vào mục đích cá nhân, kinh
doanh và mục đích khác.
1.2.2.

Phân loạitài sản công

Để nhận biết và có các biện pháp quản lý có hiệu quả, tài sản công (TSC)
của cơ quan hành chính được phân loại theo các tiêu thức như sau:

a.

Theo nguồn gốc hình thành

Bao gồm: Tài sản do thiên nhiên tạo ra thuộc chủ quyền quốc gia: Đất
đai, rừng tự nhiên, khoáng sản, vùng trời, vùng biển, danh lam thắng cảnh.
b.

Theo thời gian sử dụng

Loại tài sản sử dụng lâu dài: Tài nguyên nước, không khí. Loại sử dụng
có thời hạn: Khoáng sản, trụ sở, phương tiện làm việc.
c.

Dựa theo công dụng

Trụ sở làm việc gồm: Đất đai, nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với
đất đai, các tài sản khác gắn liền với đất đai. Đây là những tài sản có giá trị
lớn và sử dụng trong nhiều năm hay vĩnh viễn không mất đi. Tài sản loại này
thường có nguồn gốc do lịch sử để lại hoặc đầu tư mới thời gian đầu tư rất dài
kinh phí rất lớn nên một số nước có những cách quản lý riêng.
Phương tiện vận tải gồm: Xe ô tô phục vụ công tác và các phương tiện
vận tải khác. Đây là những tài sản giá trị khá lớn cần thiết trong công việc
hàng ngày. Giá trị hao mòn hàng năm lớn, thời gian sử dụng ngắn hơn nhóm
tài sản cố định là trụ sở làm việc. Ở mỗi quốc gia khác nhau có cách quản lý
tài sản này khác nhau do quan niệm về giá trị tài sản và quy mô kinh tế.
Máy móc, trang thiết bị, phương tiện làm việc và các tài sản khác là
nhóm tài sản có thể hao mòn hết ngay trong năm, các máy móc trang thiết bị
có giá trị lớn sử dụng nhiều năm phải tính khấu hao. Nhóm này rất đa dạng
tùy thuộc vào từng cơ quan hành chính, việc quản lý được thực hiện thông

qua ghi sổ theo dõi hay phiếu tài sản.


18
d.

Dựa vào đặc điểm, tính chất, hoạt động

TSC trong cơ quan quản lý nhà nướcbao gồm:
-

Tài sản hữu hình là: “Những tài sản có thể dùng giác quan nhận biết được

-

hoặc dùng đơn vị cân đo đong đếm được”
Tài sản vô hình là: “Những tài sản thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế.
Chúng không có cấu tạo vật chất mà tạo ra những quyền và những ưu thế đối
với người sở hữu và thường sinh ra thu nhập cho người sở hữu chúng”. Tài
sản vô hình bao gồm: Bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả, kiểu dáng

-

công nghiệp, phần mềm máy tính…
c. Theo mục đích sử dụng
Tài sản công bao gồm những TSC là đất đai, công trình, vật kiến trúc trên đất,
các phương tiện vận tải, máy móc, trang thiết bị làm việc, thiết bị chuyên
dùng và các tài sản khác phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước, mà nhà
nước giao cho các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị
lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội


-

tổ chức xã hội, nghề nghiệp quản lý và sử dụng
Tài sản công dùng cho mục đích công cộng bao gồm: Những tài sản công là
đất đai, hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường hàng không, bến
cảng,bến phà, nhà ga... Hệ thống thủy lợi: Đê điều, hệ thống kênh mương,
trạm bơm, hồ chứa nước, đập thủy lợi... Hệ thống chiếu sáng, cấp thoát nước,
công viên... Hệ thống các công trình văn hóa, di tích lịch sử và danh lam

-

thắng cảnh đã được xếp hạng.
Tài sản công đưa vào sản xuất kinh doanh bao gồm: Đất đai giao cho các
thành phần kinh tế khai thác sử dụng, tài nguyên thiên nhiên, nhà xưởng,
trang thiết bị máy móc, phương tiện vận tải, vốn bằng tiền giao cho các doanh
nghiệp nhà nước quản lý, sử dụng vào sản xuất kinh doanh hoặc Nhà nước
dùng các tài sản này góp phần vốn vào các công ty cổ phần và giao hoặc cho
các tổ chức kinh tế khác, hộ gia đình và cá nhân thuê.


19
-

Tài sản công chưa được sử dụng bao gồm: các tài sản dự trữ Nhà nước tài sản
được xác lập sở hữu của Nhà nước đang trong quá trình xử lý và đất đai tài
nguyên thiên nhiên chưa giao cho ai sử dụng.
1.3. QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TRONG CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
1.3.1. Nội dung quản lý tài sản công
Quản lý công sản là thực hiện quản lý TSC kể từ giai đoạn Quyết định

chủ trương, đầu tư mua sắm và thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản (quản lý quá
trình hình thành tài sản), quản lý quá trình duy trì, khai thác, sử dụng tài sản
bao gồm cả việc bảo dưỡng, sửa chữa, tôn tạo tài sản, quản lý quá trình kết
thúc tài sản. Nội dung cụ thể như sau:
a.

Quản lý quá trình hình thành tài sản

Quá trình này gồm hai giai đoạn là Quyết định chủ trương đầu tư mua
sắm và thực hiện đầu tư mua sắm tài sản. Đối với tài sản đơn vị sự nghiệp,
việc Quyết định chủ trương đầu tư mua sắm tài sản phải căn cứ vào định mức,
tiêu chuẩn sử dụng tài sản (trang bị), chế độ quản lý tài sản, nắm vững khả
năng và nhu cầu cần đầu tư, xây dựng, mua sắm tài sản của từng đơn vị; Xác
định nhu cầu vốn cho đầu tư mua sắm tài sản được ghi vào dự toán ngân sách
nhà nước hàng năm. Sau khi có chủ trương đầu tư, mua sắm tài sản, việc thực
hiện đầu tư, mua sắm tài sản phải được thực hiện theo quy định về đầu tư và
xây dựng, quy định về mua sắm TSC.
b.

Quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản

Đây là quá trình diễn ra hết sức phức tạp, thời gian khai thác, sử dụng tùy
thuộc đặc điểm tính chất, độ bền của mỗi loại tài sản, quá trình này đều được
thực hiện bởi tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao trực tiếp quản lý, sử dụng
tài sản. Thời gian của quá trình này được tính từ ngày nhận tài sản (bàn giao
tài sản) đến khi tài sản không còn sử dụng được phải thanh lý. Tuy nhiên việc
quản lý, khai thác, sử dụng tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của mỗi loại tài


20

sản. Đối với tài sản thuộc đơn vị sự nghiệp thực hiện sự quản lý việc sử dụng
phải theo mục đích nhất định. Đối với những tài sản có đủ điều kiện xây dựng
tiêu chuẩn, định mức sử dụng thì phải thực hiện đăng ký sử dụng tài sản, mở
sổ sách theo dõi tài sản, xây dựng tiêu chuẩn, định mức sử dụng và thực hiện
quản lý theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng; đồng thời tất cả các tài sản phải có
chế độ quản lý, sử dụng, trong đó chú ý đến xây dựng quy chế quản lý từng
loại tài sản. Sau nữa là quản lý việc điều chuyển tài sản từ đơn vị này qua đơn
vị khác, điều chuyển giữa các ngành, các cấp, tức là điều chuyển từ nơi thừa
sang nơi thiếu hoặc có tài sản đối với đơn vị này không còn sử dụng được
nhưng đối với đơn vị khác lại vẫn có thể sử dụng được; quản lý việc sửa chữa
tài sản nhằm đảm bảo cho việc sử dụng tài sản tiết kiệm và có hiệu quả phục
vụ thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Đó là yêu cầu cao nhất của quá trình quản
lý, sử dụng tài sản thuộc đơn vị sự nghiệp. Ở tất cả các quốc gia đều lấy việc
quản lý TSC để phục vụ cho đơn vị thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao làm
mục tiêu hàng đầu.
c.

Quản lý quá trình kết thúc tài sản
TSC trừ một số rất ít tài sản có thời gian sử dụng vĩnh viễn hoặc dài hàng

trăm năm trở lên, số còn lại đều là tài sản có thời hạn sử dụng nhất định. Tuy
nhiên, có tài sản kết thúc sử dụng trên phương diện TSC nhưng nó vẫn còn
giá trị sử dụng, vẫn được xã hội cần sử dụng (như đất đai, bất động sản,
phương tiện vận tải và một số loại máy móc, trang thiết bị làm việc, phục vụ
nghiên cứu khoa học); có tài sản còn có giá trị thu hồi... Do đó, một TSC khi
kết thúc quá trình sử dụng phải được quản lý chặt chẽ để tránh lãng phí, thất
thoát tài sản. Khi tài sản kết thúc phải thực hiện đánh giá hiện trạng tài sản cả
về vật chất và giá trị tài sản; thực hiện kiểm kê, xác định giá trị hiện tại của tài
sản; lập phương án xử lý; nếu không có các cơ quan nhà nước, đơn vị sự



21
nghiệp công, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân có nhu cầu sử dụng thì phải
bán ra thị trường.
1.3.2.

Sự cần thiết đổi mới quản lý tài sản công trong các cơ quan
quản lý nhà nước

TSC là điều kiện vật chất phục vụ cho hoạt động của bộ máy quản lý nhà
nước thực hiện chức năng QLNN tạo lập hệ thống cơ sở vật chất theo hướng
hiện đại bao gồm: Trụ sở làm việc, máy móc, thiết bị văn phòng; các phương
tiện đi lại đặc biệt là công nghệ thông tin: Internet, fax, các thiết bị trực tuyến.
Muốn nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý và tinh giảm biên chế, phải không
ngừng trang bị tài sản cho bộ máy quản lý cả về số lượng và chất lượng và cơ
cấu theo hướng hiện đại.
TSC cùng với yếu tố cán bộ công chức có phẩm chất, năng lực là nhân tố
quan trọng trong việc cải cách hành chính,cung cấp các sản phẩm dịch vụ
công với chất lượng cao cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội đáp ứng yêu
cầu của nhân dân.
Quản lý TSC để phục vụ tốt cho công tác quản lý thực hiện tốt chức năng
nhiệm vụ của cơ quan QLNN, sử dụng TSC một cách hợp lý tiết kiệm có hiệu
quả, hạn chế lãng phí thất thoát.
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước cần tiến hành đồng bộ các yếu
tố: Hoàn thiện bộ máy quản lý TSC trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cấp, các ngành, nâng cao phẩm chất năng lực của cán bộ công
chức nhất là năng lực quản lý sử dụng TSC.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đang tiến hành cải cách hành chính,
công vụ, tiết giảm bộ máy quản lý nhà nước, cung ứng một cách tốt nhất dịch
vụ công cho nhân dân. Nhiều quốc gia đã dành những khoản đầu tư lớn xây

dựng các trung tâm hành chính công với những trang bị công nghệ hiện đại
theo hướng Chính phủ điện tử


22
Ở nước ta do NSNN có hạn, trừ các địa phương có nguồn thu lớn, phần
lớn chưa có điều kiện đầu tư trang thiết bị hiện đại. Việc quản lý TSC còn
nhiều lãng phí nhất là đất đai, trụ sở làm việc, các thiết bị phương tiện. Trong
bối cảnh đó quản lý TSC có ý nghĩa thiết thực góp phần cải cách hành chính
trong các cơ quan quản lý nhà nước
1.3.3. Các tiêu chí đánh giá TSC
Để quản lý tài sản công, điều quan trọng là phải đánh giá đuợc giá trị của
chúng.Việc đánh giá tài công cần tuân thủ theo đúng quy định của nhà nước
về thẩm định giá.
Bộ tài chính đã có Quyết định số 24/2005/QĐ-BTC ngày 18/04/2005,
Quyết định số 77/2005/QĐ-BTC ngày 01/11/2005 và Quyết định số
129/2008/QĐ-BTC ngày 31/12/2008ban hành các tiêu chuẩn thẩm định giá
của Việt Nam cụ thể sau:
-

Lấy giá trị thị trường làm cơ sở cho thẩm định giá tài sản: Tiêu chuẩn này quy
định nội dung về giá trị thị trường của tài sản và vận dụng giá trị thị trường

-

khi tiến hành thẩm định giá tài sản
Những quy tắc đạo đức hành nghề thẩm định giá tài sản: Tiêu chuẩn này quy
định những quy tắc đạo đức chi phối thẩm định viên về giá, tổ chức thẩm định

-


giá trong quá trình hành nghề thẩm định giá tài sản
Báo cáo kết quả, hồ sơ và chứng thư thẩm định giá trị tài sản: Tiêu chuẩn này
quy định hình thức, nội dung của báo cáo kết quả, hồ sơ và chứng thư thẩm
định giá trị tài sản do doanh nghiệp, tổ chức thẩm định giá và thẩm định viên

-

về giá thực hiện, công bố khi hoàn thành công việc thẩm định giá tài sản
Quy trình thẩm định giá tài sản:Tiêu chuẩn này quy định quy trình thẩm định
giá tài sản và hướng dẫn thực hiện quy trình trong quá trình thẩm định giá tài
sản gồm:


23
o

Những nguyên tắc kinh tế chi phối hoạt động thẩm định giá tài sản.Tiêu chuẩn
này quy định những nguyên tắc xác định giá trị của tài sản và hướng dẫn

o
o

nguyên tắc khi tiến hành thẩm định giá tài sản;
Quy định phương pháp so sánh và hướng dẫn thực hiện phương pháp;
Quy định phương pháp tính chi phí và hướng dẫn thực hiện phương pháp

o

trong quá trình thẩm định giá tài sản;

Quy định phương pháp thu nhập và hướng dẫn thực hiện phương pháp trong

o

quá trình thẩm định giá tài sản;
Quy định phương pháp thặng dư và hướng dẫn thực hiện phương pháp trong

o

quá trình thẩm định giá tài sản;
Quy định phương pháp tính lợi nhuận và hướng dẫn thực hiện phương pháp

o

trong quá trình thẩm định giá tài sản;
Quy định về phân loại tài sản và hướng dẫn thực hiện phân loại tài sản trong
quá trình thẩm định giá tài sản.
Dựa vào các quy định trên đây, để quản lý TSC người ta sử dụng các chỉ
tiêu để đánh giá quản lý và sử dụng TSC:
+ Đầu tư mua sắm: Đấu thầu, đấu giá
+ Tiêu chí về số lượng bao gồm cả hiện vật và giá trị TSC
o

Quản lý sử dụng TSC: Kế hoạch, dự toán, quyết toán

+ So sánh giữa kế hoạch và thực hiện; giữa dự toán và quyết toán để biết
được động thái biến đổi TSC
+ Tổng tài sản bình quân (về giá trị) qua các năm
+ Giá trị hiện tại TSC (trừ khấu hao)
+ Cơ cấu tài sản công: Giá trị các loại tài sản công / tổng tài sản

+ Hiệu suất sử dụng TSC = giá trị TSC đưa vào sử dụng / tổng giá trị tài
sản
+ Hiệu suất sinh lời của tài sản (áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu)
= doanh thu / tổng giá trị tài sản


24
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài sản công của các cơ quan
Quản lý Nhà nước
Trong quản lý Tài sản công, quản lý Tài sản công của các cơ quan khá
phức tạp việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực của cơ
chế quản lý TSC là vấn đề cần thiết để lựa chọn những phương thức, cách
thức và xác định các nguyên tắc, điều kiện vận hành phù hợp với các quy luật
khách quan. Xuất phát từ thực tế quản lý TSC của các cơ quan QLNN, các
nhân tố ảnh hưởng đến quản lý TSC của các đơn vị sự nghiệp bao gồm hai
nhóm chính là nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan:
a.

Nhân tố chủ quan

Định hướng phát triển và chức năng nhiệm vụ của các cơ quan QLNN
trong đó có các đơn vị sự nghiệp có thu: Theo đuổi những mục tiêu, chiến
lược khác nhau, mỗi cơ quan, đơn vị khác nhau sẽ có kế hoạch phát triển khác
nhau. Chiến lược phát triển của mỗi cơ quan,đơn vị sự nghiệp sẽ tác động đến
phương cách quản lý TSC trong mỗi thời kỳ. Cần định hướng phát triển trong
dài hạn hay ngắn hạn hạn đều ảnh hưởng đến quản lý TSC.
Cấp quản lý và quy mô tài chính của cơ quan quản lý tài sản công: Thông
qua quản lý tài chính các đơn vị sẽ tuân theo các quy định khác nhau căn cứ
vào quy mô, cấp quản lý, từ đó quyết định đến việc xây dựng quy chế chi tiêu
nội bộ của đơn vị. Quy mô mỗi cơ quan, đơn vị sự nghiệp sẽ ảnh hưởng tới

mức chi tiêu của đơn vị, những đơn vị có quy mô lớn, lượng vốn lớn, dễ dàng
trong việc đầu tư nâng cấp và sử dụng các trang thiết bị một cách hiệu quả,
tiết kiệm. Tuy nhiên, quy mô lớn và bộ máy quản lý cồng kềnh rất có thể dẫn
tới việc kém linh hoạt và tốn kém trong thay đổi cách thức quản lý TSC. Một
số đơn vị có quy mô nhỏ lại có lợi thế hơn trong việc dễ dàng thích ứng với
những thay đổi về chính sách hoặc nhu cầu của thị trường lao động, nhưng
khó có thể trang bị những trang thiết bị hiện đại.


25
Năng lực của cán bộ công chức làm quản lý TSC: Cán bộ, công chức
quản lý TSC có nhận thức sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của TSC của các
cơ quản QLNN, có trình độ chuyên môn vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt
sẽ giúp cho quá trình quản lý TSC thu được hiệu quả; ngược lại nếu các cán
bộ ở các bộ phận này năng lực hạn chế sẽ gây tình trạng mua sắm TSC không
hợp lý gây lãng phí, sử dụng TSC kém hiệu quả so với hiệu năng thực sự của
TSC.
Tổ chức bộ máy quản lý TSC của các cơ quan QLNN: Quản lý TSC chịu
ảnh hưởng khá lớn từ bộ máy quản lý cơ quan, các chính sách, quy chế quản
lý nội bộ trong các đơn vị liên quan tới tất cả các bộ phận của bộ máy quản lý.
Các bộ phận này hoạt động tương tác với nhau để cùng thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về TSC. Ngoài ra, các chính sách về quản lý TSC trong nội
bộ đơn vị không chỉ do bộ phận quản lý tài sản quyết định. Các bộ phận khác
trong bộ máy quản lý đóng vai trò quan trọng trong việc tư vấn cho lãnh đạo
đơn vị ra các quyết sách thích hợp. Sự yếu kém của một bộ phận sẽ ảnh
hưởng rất nhiều tới hiệu quả thực hiện cơ chế quản lý TSC của các bộ phận
khác. Thực tiễn cho thấy, trong thời kỳ bao cấp tổ chức bộ máy quản lý
thường cồng kềnh, do đó hiệu quả của các bộ phận hoạt động kém. Tuy nhiên
cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng các công cụ thị trường có căn cứ
quan trọng để giám sát, đánh giá việc sắp xếp, tổ chức bộ máy quản lý TSC

tại các đơn vị cũng được cải tiến, sự tinh giảm biên chế, khả năng phối hợp
giữa các bộ phận cũng được cải thiện.
Hệ thống thông tin quản lý TSC: Mỗi đơn vị có một đặc điểm về cơ cấu
bộ máy cũng như những chức năng riêng, do đó đòi hỏi cần có những quy
định cụ thể về TSC trong những trường hợp đặc thù của đơn vị. Trong quá
trình sử dụng TSC rất dễ xảy ra hiện tượng sử dụng của công cho mục đích cá
nhân, hoặc ý thức của cá nhân sử dụng không cao dẫn tới tình trạng lãng phí,


×