Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu luận: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.87 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc tấn công, chống phá ta của các thế  lực phản động trong 
và ngoài nước, chúng thường tập trung vào lĩnh vực tư  tưởng, lý luận, bởi  
đây là lĩnh vực nhạy cảm, có tác động lâu dài và khó lường. Với âm mưu  
xảo quyệt, các thế  lực phản động liên tục và ráo riết tiến hành các hoạt  
động chống phá trên lĩnh vực tư  tưởng, lý luận, âm mưu thực hiện “diễn 
biến hòa bình"; thúc đẩy quá trình “tự  diễn biến”, “tự  chuyển hóa” trong  
nội bộ Đảng ta để  đi đến tan rã, như  sự  sụp đổ  của mô hình chủ  nghĩa xã 
hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây.
Trước tình  hình  đó, Đảng ta chủ  trương: “Đổi mới công tác tuyên 
truyền, giáo dục chính trị, tư  tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng 
viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về  tư  tưởng chính 
trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự  diễn biến”,  
“tự  chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt 
động “diễn biến hòa bình” của các thế  lực thù địch; chủ  động ngăn chặn, 
phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”
Trong  công  cuộc  xây  dựng  và  phát triển nền  kinh tế   nhiều  thành  
phần, vận hành theo cơ  chế  thị trường, có sự  quản lý của Nhà nước, theo  
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề 
cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. 
 Ngày nay, triết học là một bộ  phận không thể  tách rời với sự  phát  
triển của bất cứ  hình thái kinh tế  nào. Những vấn đề  triết học về  lý luận  
nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương 
hướng, là tôn chỉ  cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. 
Nếu xuất phát từ  một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể  có  
được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề  do cuộc sống đặt ra. 
Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ 
không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách 
lý giải nhất định về  thế  giới, mà còn là sự  chấp nhận một cơ  sở  phương 
pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
1




Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của 
chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính 
là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ  có triết học Mác là mang 
tính  ưu việt hơn cả. Trên cơ  sở  nền tảng triết học Mác ­ Lênin, Đảng và 
Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, 
phương  hướng chỉ  đạo chính xác, đúng đắn để  xây dựng và phát triển xã 
hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết 
không thể  tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực 
tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ  các 
nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây 
dựng chủ  nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng 
cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự 
nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế   ở  nước ta là 
một vấn  ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới 
hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Nguyên tắc thống nhất giữa 
lý luận và thực tiễn trong việc phát triển lý luận  ở  Việt Nam hiện  
nay”.

2


NỘI DUNG

I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN THỰC TIỄN
1. Phạm trù thực tiễn
1.1 Khái niệm về thực tiễn
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít): Thực tiễn là toàn bộ 
những hoạt động vật chất – cảm tính có mục đích, mang tính lịch sử  ­ xã 

hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
 1.2 Đặc trưng của thực tiễn
Thứ  nhất, theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, thực tiễn là 
hoạt động gắn liền với con người, nhưng không phải là toàn bộ  hoạt động 
của con người mà chỉ  là những hoạt động của vật chất – cảm tính, những 
hoạt động vật chất cảm giác được. Đó là hoạt động của con người, sử 
dụng những công cụ  vật chất, tác động vào những đối tượng vật chất làm 
biến đổi chúng theo những mục đích nhất định.
Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử­ xã hội của 
con người. Hoạt động thực tiễn phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm  
người, nhưng các cá nhân phải có quan hệ  với nhau và không thể  tách tời 
các quan hệ xã hội. Nghĩa là, thực tiễn chỉ diễn ra trong xã hội với sự tham 
gia của đông đảo những con người trong xã hội. Đồng thởi, thực tiễn cũng 
trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể, chịu sự chi phối của ngững  
điều kiện lịch sử, cả về đối tượng, phương tiện, cũng như  mục đích hoạt 
động của con người.
Thứ  ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích, tính hiện thực trực 
tiếp. Thực tiễn phải hướng đến cải tạo thế giới, cải tạo tự nhiên và xã hội  
nhằm phục vụ con người, chứ không chỉ là hoạt động bản năng, bằng lòng  
với những cái có sẵn trong tự nhiên. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động 
có tính tự giác cao của con người, khác với hoạt động bản năng, thích nghi 
một cách thụ độngcủa con vật với thế giới xung quanh.
1.3 Các hình thức cơ bản của thực tiễn 
3


Thực tiễn có ba hình thức cơ  bản là: hoạt động sản xuất vật chất,  
hoạt động chính trị ­ xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất  là hình thức hoạt động khởi nguyên, 
đầu tiên, cơ  bản nhất của hoạt động thực tiễn. Đó là hoạt động mà con 

người trực tiếp tác động vào đối tượng vật chất, vào thế  giới khách quan, 
nhằm tạo ra của cải vật chất. Không có sản xuất vật chất con người và xã  
hội loài người không thể tồn tại, phát triển. Không những thế, sản xuất vật 
chất còn là cơ  sở  cho sự  nảy sinh, tồn tại và phát triển của các hình thức  
thực tiễn khác, cũng như  tất cả các hoạt động khác của con người. Có thể 
nói, các hoạt động khác của con người, suy cho cùng đều xuất phát từ hoạt 
động sản xuất vật chất.
Hoạt động chính trị­ xã hội là hoạt động của các tổ  chúc, các cộng 
đồng người khác nhau trong xã hội, thể hiện tính tự giác cao của con người 
nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ 
xã hội, v.v. tạo ra môi trường xã hội thuận lợi, phù hợp với nhu cầu, lợi ích 
của chủ thể.
Hoạt  động thực nghiệm khoa học  là hình thức đặc biệt của hoạt 
động thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện không có sẵn trong  
tự  nhiên, mà do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái  
trong tự  nhiên, nhằm tìm hiểu các quy luật biến đổi, phát triển của đối 
tượng nghiên cứu theo mục đích dã đề  ra. Trong giai đoạn hiện nay, khoa  
học đóng một vai trò hết sức to lớn đối với quá trình phát triển của xã hội 
thì hình thức thực tiễn này ngày càng có vị ttri1 quan trọng trong hoạt động  
của con người.
Ba hình thức cơ bản của thực tiễn nêu trên, có quan hệ chặt chẽ, tác  
động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất 
đóng vai trò quan trọng, quyết định hoạt động chính trị  ­ xã hội và thực 
nghiệm khoa học. Ngược lại, hoạt động chính trị  ­ xã hội và thực nghiệm  
khoa học tác động trở  lại hoạt động sản xuất vật chất. Chính trị  xã ho65u 
ổn định tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, thực nghiệm khoa học phát 
triển thì năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất sẽ được nâng cao.
4



Ngoài ba hình thức cơ  bản trên, hoạt động thực tiễn còn có những 
hình thức không cơ  bản được thể  hiện  ở  một số  lĩnh vực khác nhau như 
gia1so dục, y tế, nghệ thuật, thể thao,v.v..
2. Phạm trù lý luận
2.1 Khái niệm lý luận
Hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức là hai hoạt động đặc 
trưng của con người, giữa chúng có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại  
lẫn nhau, không ta1hc rời nhau. Trong quá trình tác động vào thế  giới, cải  
tạo thế giới, hoạt động nhận thức của con người cũng bắt đầu hình thành.
Nhận thức, theo quan  điêm của triết học máccxit là quá trình con 
người rìm hiểu, phản ánh thế  giới khách quan, nhưng đó không phải là sự 
phản ánh giản đơn, thụ động mà là quá trình phản ánh biện chứng. tích cực 
và sáng tạo trên cơ  sở  thực tiễn. Đó là sự  phản ánh có chọn lọc, chủ  động 
có mục đích để nắm bắt bản chất của hiện thực chứ không phải là sự  sao  
chép nguyên xi. Qua quá trình nhận thức biện chứng, còn hiểu biết riêng lẻ 
từng mặt, bề ngoài của đối tượng những hiểu biết kinh nghiệm, thông qua 
các thao tác của tư  duy như  phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng 
hóa… lý luận được nảy sinh, hình thành và phát triển
2.2 Đặc trưng của lý luân
Thứ nhất, lý luận là một hệ thống trí thức có tính logíc chặt chẽ, tính  
khái quát cao và tính phổ biến; được thể  hiện thông qua những khái niệm,  
phạm trù, nguyên lý, quy luật… phản ánh bản chất, tính tất yếu của sự vật, 
hiện tượng trong thế giới khách quan.
Thứ hai, bản chất của lý luận là khái quát những trí thức kinh nghiệm 
thực tiễn, cho nên không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn thì lý luận không 
thể nảy sinh, hình thành và phát triển.
Thứ  ba, lý luận không dừng lại  ở  việc phản ánh hiện tượng, mà đi 
sâu vào xem xét bản chất, mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng. Do  
đó lý luận phản ánh được tính tất yếu, tính quy luật của sứ vật, hiện tượng, 
đưa   ra   những  dự   báo   xu   hướng   vận   động,  phát   triển   của  sự   vật,  hiện  

tượng.
5


II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận
Điều đó có nghĩa, thực tiễn là nền tảng, là điểm xuất phát của lý 
luận. Chính trên nền tảng của hoạt động thực tiễn  con người mới có nhu  
cầu tìm hiểu, khám phá thế  giới, hoạt động nhận thức, lý luận mới   nảy  
sinh. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho  
chúng bộc lộ  những thuộc tính, tính chất, quy luật…Trên cơ  sở  đó, con  
người mới có hiểu biết về sự vật và khái quát những hiểu biết ấy dể hình 
thành, phát triển lý luận. Như  vậy, chính nhở  có hoạt động thực tiễn, lý 
luận mới ra đời, phát triển. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “…chính việc 
người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với  
tính cách tự  nhiên, là cơ  sở  chủ  yếu nhất và trực tiếp nhất của tư  duy con  
người đã phát triển song song với việc người ta đã học cái biến tự nhiên”
Có thể  nói, mọi hiểu biết của con người dù trực tiếp hay gián tiếp, 
đối với người này hay người khác, thế  hệ  này hay thế  hệ  khác, ở  trình độ 
kinh nghiệm hay lý luận,…suy cho cùng đều bắt nguồn từ  thực tiễn. Nếu  
không có hoạt động thực tiễn, con người không thể  có được lý luận khoa 
học, cách mạng.
Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận
Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và luôn đặt ra những nhu cầu,  
nhiệm vụ, phương hướng mới cho lý luận, đòi hỏi lý luận phải giải quyết. 
Vì thế, nó luôn bắt con ngưởi phải đi sâu nghiên cứu, mở rộng sự hiểu bết  
hiện có, đánh giá kiểm tra lại kiến thức cũ, cách tiếp cận cũ, thậm chí phải 
thay thế những tri thức cũ, lạc hậu bằng những tri thức mới. Trên cơ sở đó, 
thực tiễn thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển. Đúng như  Ph.Ăngghen đã 

nói, khi xã hội có nhu cầu về kỹ  thuật thì nó thúc đẩy khoa học phát triển  
hơn mười trường Đại học.
Thực tiễn còn là cơ  sở  góp phần rèn luyện các giác quan và tư  duy  
của con người, làm cho chúng ta phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, năng 
lực tư  duy loogic không ngừng được củng cố  và phát triển. trên cơ  sở  đó,  
6


giúp con người nhận thức đối tượng ngày cảng chính xác hơn, sâu sắc hơn,  
khái quát lý luận đúng đắn hơn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người còn chế  tạo ra các công 
cụ, phương tiện, máy móc hiện đại, như kính hiển vi, kính thiên văn, tàu vũ 
trụ… góp phần hỗ  trợ  con người “nối dài” các giác quan trong quá trình  
khám phá chinh phục thế giới.
Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận
Thực tiễn là đích cuối cùng lý luận phải hướng tới, phải giải quyết. 
Chính nhu cầu sống, nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự  nhiên, xã hội 
buộc con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận thức thế  giới xung quanh. 
Nghĩa là , nhận thức con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cẩu thực  
tiễn; ngược lại kết quả  của nhận thức, của lý luận sẽ  phục vụ  cho chính  
thực tiễn phát triễn. Lý luận không đáp ứng được mục đích thực tiễn đặt ra,  
lý luận đó sẽ  không có giá trị. Những tri thức – kết quả  của nhận thức,  
những lý luận – kết quả của khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn chỉ có giá  
trị, có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ  thực  
tiển; cụ thể là vận dụng vào hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính  
trị ­ xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học phục vụ con người. Lý luận 
có mục đích tự thân, nó chỉ có giá trị khi thâm nhập vào thực tiễn, được vật  
chất hóa, biến tri thức khoa học thành phương tiện ttrong việc biến đổi 
hiện thực.
Thứ tứ, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra của lý luận

Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ  xác nhận được tri 
thức là đúng hay sai, chân lý hay sai lầm. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn 
khách quan duy nhất để  khẳng định chân lý,  bác bỏ  sai lầm. Mọi sự  biến 
đổi của sự nhận thức hay lý luận suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự 
kiểm tra của thực tiễn. Con người có được những hiểu biết về  thế  giới 
thông qua hoạt động thực tiễn. Do vậy, chính thực tiễn là tiêu chuẩn, là 
thước đo giá trị  của những tri thức mà con người đã đạt được trong nhận 
thức. Đồng thời, nó bổ sung, điều chỉnh, phát triển những tri thức lý luận đã  
có, làm cbo lý luận ngày càng đầy đủ hơn và sau sâu sắc hơn. C. Mác, trong 
luận cương về Phoiobac đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của  
7


con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là 
một vấn đề lý luận mà là một vấn đề  thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà 
con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và 
sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh trãi về tính hiện thực  
hay tính không hiện thực  của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh  
viện thuần túy”
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối
Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể  hiện  ở  chỗ, nó là tiêu 
chuẩn khách quan duy nhất có thể kiểm tra tính đúng, sai của lý luận, khẳng 
định chân lý, bác bỏ  sai lầm. Tất cả  những tri thức chứ  được thực tiễn 
kiểm tra, xác nhận đều không có cơ sở khẳng định tính đúng đắn của nó.
Tính tương đối của tiêu chuẩn thực hiện  ở  chỗ, nó luôn vận động, 
biến đổi, phát triển, do đó, với tư  cách là tiêu chuẩn chân lý nó không cho  
phép người ta xem bất kỳ  một tri thức nào là bất di bất dịch, không thay  
đổi. Vì vậy, khi thực tiễn thay đổi thì nhận thức, lý luận cũng phải thay đổi  
theo cho phù hợp với thực tiễn mới. Không có chân lý vĩnh viễn, bất di bất  
dịch; mọi tri thức dù là đúng vẫn phải tiếp tục kiểm tra, để  kịp thời bổ 

sung, phát triển. Mặt khác, thực tiễn  ở  mỗi lĩnh vực nhất định chỉ  đủ  sức  
kiểm tra những tri thức nảy sinh trong phạm vi lĩnh vực đó.
Như  vậy, thực tiễn không những là điểm xuất phát, là yếu tố  đóng 
vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của lý luận, mà còn là  
nơi lý luận phải luôn hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn của mình.
2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “ thực tiễn không có lý luận 
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”. Điều này có  nghĩa rằng, lý luận 
mặc dù do thực tiễn quyết định, nhưng bản thân quyết định, nhưng bản 
thân lý luận khi đã hình thành thì lại có một vai trò hết sức to lớn đối với 
thực tiễn. Vai trò của lý luận khoa học được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ  nhất, lý luận đóng vai trò là “kim chỉ  nam” cho hoạt động thực 
tiễn.

8


Lý luận khoa học định hướng, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra 
phương hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện 
thực khách quan theo yêu cầu, mục đích phát triển của con người và xã hội.  
Nếu thực tiễn không được chỉ  đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa 
học thì thực tiễn đó sẽ mất phương hướng, “ lúng túng như  nhắm mắt mà 
đi”, rơi vào mò mẫm, vòng vo, có khi lại quay trở  lại xuất phát điểm ban 
đầu, không hiệu quả, gây tốn kém, lãng phí thời gián, công sức.
Thứ hai, lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng nảy sinh, hình thành  
và phát triển
Không có lý luận cách mạng không thể có phong trào cách mạng. Lý 
luận khoa học, cách mạng góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập 
quần chúng để tạo nên những phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của 
đông đảo quần chúng. Nhờ có lý luận khoa học, phong trào cách mạng của 

quần chúng không còn mang tính tự phát, trở thành hoạt động , chủ động, tự 
giác, tích cực. C.Mác nhấn mạnh:… “lý luận cũng se4tro73 thành lực lượng 
vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
Thứ ba, lý luận góp phần dự báo tương lai
Bất cứ  sự  vật, hiện tượng nào cũng luôn chứa đựng những tiền đề, 
mầm mống và khả  năng phát triển trong tương lai của chúng. Lý luận nếu  
phản ánh đúng bản chất, nắm được quy luật vận động, phát triển của sự 
vật, hiện tượng. Như vậy,dự báo tương lai là kết quả  của thao tác tư  duy, 
như  phân tích và tổng hợp, lo6gic và lịch sử…tức là quá trình nhận thức, 
phản ánh, phán đoán về sự vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện  
tượng. Dự  báo tương lai là một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết 
định đến hiệu quả  hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Khi 
con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự  nhiên vô cùng vô tận bằng 
những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo. Chính 
vì vậy, chức năng dự báo là một chức năng rất quan trọng của lý luận.
Như  vậy, thực tiễn và lý luận không tách rời nhau, giũa chúng có sự 
liên hệ, xâm nhập, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Vì thế, trong  
hoạt   động   nhận   thức   và   hoạt   động   thực   tiễn,   chúng   ta   phải   quán   triệt 
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây là nguyên tắc căn bản  
9


của chủ  nghĩa Mác­le6nin. Quán triệt nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan 
trọng đối với công cuộc đổi mới ờ nước ta hiện nay.
III. VAI TRÒ NGUYÊN TẮC THÔNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN 
VÀ THỰC TIỄN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN  Ở  VIỆT NAM 
HIỆN NAY
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, 
là tiêu chuẩn của nhận thức.
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức

Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế  giới khách 
quan, bắt  các  sự  vật, hiện tượng của thế  giới khách quan phải bộc lộ 
những thuộc tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực  
tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó 
nhận thức  được hình thành. Như  vậy, qua hoạt  động thực tiễn mà con 
người tự  hoàn thiện và phát triển thế  giới quan( tạo điều kiện cho nhận  
thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển 
hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận 
thức.  
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo  
ra các phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
Thư nhất, Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ  đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ  thực tiễn, do thực tiễn quy định. 
Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề  mới  
cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như  vậy thực tiễn 
trang bị những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà 
soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập 
được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là mối quan 
hệ  ngẫu nhiên bề  ngoài, đâu là mối liên hệ  bản chất, những quy luật vận 
động và phát triển của sự vật.
Thứ hai,Thực tiễn là mục đích của nhận thức
10


Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào 
thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri 
thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật 
chất và tinh thần xã hội. Sự  hình thành và phát triển của nhận thức là bắt 

nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn. 
Nhận thức chỉ  trở  về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ  đạo  
hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có 
thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể  hiện được 
sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa.
Thứ ba, Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng 
thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
Thứ tư,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a) Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực 
tiễn khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị  đối với đời sống 
con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ  thuộc vào số  đông (ví 
dụ: chân lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt 
trong quá trình nhận thức của nhân loại.
b) Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ  nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để 
kiểm tra chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi  
vì chỉ  có thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở  lại tác động vào 
thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các 
khách thể  cảm tính. Từ  đó mới có căn cứ  để  đánh giá nhận thức của con  
người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người 
cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
11



+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử  đều có giới hạn. Nó không 
thể chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà  
nó được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm. 
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như 
vậy mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng 
của nhận thức. 
c) Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh  
tế  thị trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế  độ  xã  
hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh 
tế cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong 
sản xuất, kinh doanh cũng như  quản lý các quá trình đó. Đường lối chính 
sách cũng như  các giải pháp kinh tế chỉ  đúng khi chúng mang lại hiệu quả 
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho  
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
 Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những  
thành tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ  đây lại đặt ra nhiều vấn đề 
cần giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra  
lời giải đáp cho những vấn đề  của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công  
cuộc đổi mới  ở  nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ  thúc 
đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định 
sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn  
về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước  
ta. 
2.  Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
2.1. Lý luận
a. Khái niệm: Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực 
tiễn. Nó phản ánh những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách 
quan.


12


b. Đặc điểm: Lý luận mang tính hệ  thống, nó ra đời trên cơ  sở  đáp 
ứng nhu cầu của xã hội nên bất kỳ  một lý luận nào cũng mang tính mục  
đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa  
lý luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt 
nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích 
cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
a) Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của  
thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ  bản nhất của con người, quyết định 
sự  tồn tại và phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự  nó mà mục 
đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn  
gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến. 
b) Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác ­ Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai 
cấp vô sản. Sự  thành  công  hay thất bại  của hoạt  động  thực  tiễn  là tuỳ 
thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự 
phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực 
tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri  
thức đúng đắn về  các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách  
quan, từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho  
hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có 

thể là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c) Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh 
thần tiến bộ  và còn giữ  sứ  mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống 
nhất thì chúng sẽ  tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự 
13


thống nhất đó là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác­  
Lênin.
d) Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi 
mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn  
đến mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
*Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc 
biệt là lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác ­ Lênin và các lý luận về 
kinh tế.
Trước chủ  nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn 
hầu như không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với  
bộ mặt xấu xí của con buôn (Phơ­Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ 
nghĩa kinh nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi  
khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một  
cái  gì  không đáng nghiên cứu về  mặt nhận thức luận,  đã ”đem cái tiêu 
chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được  ảo tưởng với 
hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để 
dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”. 
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là 
quan điểm thứ  nhất và cơ  bản của lý luận về  nhận thức. (“V.I.Lênin toàn  
tập” – 1980)

Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên 
đối với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự  thống nhất giữa lý  
luận và hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn 
diện các mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. 
Đổi mới từ  nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế  thị  trường có  
sự  quản lý của Nhà nước là một vấn đề  hết sức mới mẻ  chưa có lời giải  
đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó 
mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế 

14


nói riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác 
động qua lại lẫn nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ  thực 
tế khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của  
mình. Gắn lý luận vào thực tiễn để  hoạt động trở  nên khoa học, có cơ  sở 
vững chắc. Tinh thần  ấy chính là vấn đề  cần nghiên cứu trong văn kiện  
Đại hội Đảng lần thứ VI.
e) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn  
bản của chủ nghĩa Mác­ Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. 
Lý luận mà không liên hệ  với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên  
trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi  
nhắc lại rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang  
cho hành động cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, 
nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết 
luận mới rút ra từ  trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các  
nước phải cụ thể hoá chủ  nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện,  
hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”­1996)

*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận   thức   của   con   người   diễn   ra   trên   cơ   sở   thực   tiễn   và   không 
ngừng vận động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn  
ra một cách biện chứng:
­ “Từ  trực quan sinh động đến tư  duy trìu tượng và từ  tư  duy trìu  
tượng đến thực tiễn ­ đó là con đường biện chứng của sự  nhận thức chân  
lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”.
+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của 
quá trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này 
được hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri  
giác, biểu tượng...

15


+Tư  duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá  
trình nhận thức dựa trên cơ  sở  những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh 
động mang lại.
­ Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng  
chưa phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở  về  với thực tiễn.  
Nhận thức phải trở về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó 
phải trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. 
+Đến giai đoạn tư  duy trìu tượng vẫn có khả  năng phản ánh sai lạc 
hiện thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở  về  thực tiễn để  kiểm tra kết 
quả nhận thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở 
về  với thực tiễn để  trên cơ  sở  thực tiễn mới tiếp tục bổ  sung, phát triển  
nhận thức.
­ Từ  trực quan sinh động dến tư  duy trìu tượng, và từ  tư  duy trìu 

tượng đến thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi  
lặp lại làm cho nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng 
phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan. 
3. Thực trạng lý luận ở nước ta hiện nay
Từ  khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ  nghĩa  
Mác­Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất  
nước,Đảng ta không ngừng phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa 
xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và bước đầu đã đạt được những  
thành tựu nhất định.
Về  mô hình chủ  nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh (1991), đã đề  cập 
sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ  nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Do  
nhân dân lao động làm chủ;  có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực  
lượng sản xuất hiện đại và chế  độ  công hữu về  các tư  liệu sản xuất chủ 
yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải 
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao 
động, có cuộc sống  ấm no, tự  do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn 
16


diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ  lẫn 
nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả  các 
nước trên thế giới.
Tại Đại hội X, mô hình xã hội chủ  nghĩa tiếp tục được Đảng ta bổ 
sung, phát triển với tám đặc trưng: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta  
xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn 
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế  phát triển cao, dựa trên lực 
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  phát  
triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân 
tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, 
tự  do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt 

Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ  nhau cùng tiến bộ; có Nhà 
nước phát quyền xã hội chủ  nghĩa của nhân dân, do nhân  dân, vì nhân dân  
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ  hữu nghị và hợp tác với 
nhân dân các nước trên thế giới”.
Trên cơ  sở  kế thừa, phát triển tư tưởng Đại hội X, quan niệm về xã 
hội xã hội chủ  nghĩa trong Cương lĩnh (Bổ  sung, phát triểm năm 2011) 
thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã được hoàn thiện hơn một bước:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân 
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có  
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ 
sản xuất tiến bộ  phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân  
tộc; con người có cuộc sống  ấm no, tự  do, hạnh phúc, có điều kiện phát 
triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, 
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Như  vậy, có thể  nói rằng trên cơ  sở  tổng kết thực tiễn đổi mới, lý 
luận của Đảng ta về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn,  
cụ  thể  hơn. Cùng với sự  phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có 
những nhận thức ngày càng sâu sắc về  chủ  nghĩa xã hội phù hợp hơn với 
17


thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh dần quan điểm, đường 
lối về chủ nghĩa xã hội.
­ Về  phương hướng xây dựng chủ  nghĩa xã hội, Cương lĩnh (1991) 
đề ra bảy phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội:
+ Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì 
nhân dân, lấy liên minh công nhân­ nông dân­ trí thức làm nền tảng, do 
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ  quyền dân chủ  của nhân dân, 

giữ  nghiêm kỷ  cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm 
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
+   Phát   triển   lực   lượng   sản   xuất,   công   nghiệp   hóa   đất   nước   theo  
hướng hiện đại gắn liền một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng  
tâm.
+ Phù hợp với sự  phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng  
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về 
hình thức sở  hữu. phát triển nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành phần định 
hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tiến hành cách mạng xã hội chủ  nghĩa trên lĩnh vực tư  tưởng và 
văn hóa làm cho thế giới quan Mác­Lênin và tư tưởng, đạo đức phong cách 
Hồ  Chí Minh giữ  được vị  trí chủ  đạo trong đờ  sống tinh thần xã hội; kế 
thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt d0e5p của tất cả các dân 
tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa nhân loại, xây dựng một xã hội dân 
chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
+ Thực hiện  chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố  và mở  rộng  
Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp 
dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và 
hữu nghị  tất cả  các nước trung thành với chủ  nghĩa quốc tế  của giai cấp  
công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ  nghĩa, với tất cả  các lực  
lượng đấu tranh vì hòa bình dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên  
thế giới.
+ Xây dựng chủ  nghĩa xã hội và bảo vệ  tổ  quốc là hai nhiệm vụ 
chiến lược của cách mạng Việt Nam.
18


+ Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ 
chức ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa  
ở nước ta.

Trên cơ  sở  tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, đồng thời kế 
thừa Cương lĩnh đại hội VII, trong Cương lĩnh (bổ  sung phát triển năm 
2011), Đảng ta đưa ra tám phương hướng lớn:
+ Đẩy mạnh công nghiệp công nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nước 
gắn với phát triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng 
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã  
hội.
+ Bảo đảm vững chăc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn 
xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập. tự  chủ, hòa bình, hữu  
nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa, thực hiện đại đoàn kết  
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do 
nhân dân, vì nhân dân.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh!
Như  vậy Đảng ta không chỉ  xác định được xã hội mà chúng ta đang  
xây dựng là một xã hội như  thế  nào, mà còn xác định đúng đắn, sáng tạo  
những phương hướng cơ bản, coi đây là những vấn đề có tính quy luật của  
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 
­ Về  con đường đi lên chủ   nghĩa xã hội bỏ  qua chế  độ  tư  bản chủ  
nghĩa. Trên cơ sở thực tiễn của đất nước, ngay từ khi đổi mới. Đảng ta đã  
xác định quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội  ở  nước ta là sự  “ quá độ  gián tiếp”  
trong Cương lĩnh (1991) đã sử dụng cụm từ “ bỏ qua chế độ tư bản” và xác 
định: “ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ  qua chế độ  tư  bản, từ một  
xã hội vốn là thuộc địa, nữa phong kiến lực lượng sản xuất rất thấp”
19



Qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội IX, Đảng ta đã phát triển luận  
điểm trên cụ  thể  hơn: “Con đường đi lên của nước ta là sự  phát triển quá  
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là việc  
xác lập vị  trí thống trị  của quan hệ  sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư 
bản chủ  nghĩa, nhưng tiếp thu, kế  thừa những thành tựu mà nhân loại đã 
đạt được dưới chế  độ  tư  bản chủ  n ghĩa, đặc biệt về  khoa học và công 
nghệ  để  phát triển nhanh  lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế  hiện  
đại.
Tiếp theo Cương lĩnh ( bổ sung phát triển năm 2011) chỉ rõ đi lên chủ 
nghĩa xã hội   ở  nước ta là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu 
tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên 
tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhất thiết phải trãi qua một thời  
kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát  triển, nhiều hình thức tổ  chức kinh  
tế xã hội đan xen.
Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc rằng, với đặc điểm của một 
nước  thuộc địa nữa phong kiến, chưa qua giai đoạn phát triển tư  bản chủ 
nghĩa thì không thể quá độ trực tiếp mà phải quá độ gián tiếp  theo phương 
thức “phát triển rút ngắn”  lên chủ  nghĩa xã hội. Đây là bước phát triển tất 
yếu khách quan, hợp qui luật theo tiến trình phát triển lịch sử ­ tự nhiên, là 
con đường phát triển phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng 
nhân dân lao động việt nam.
Về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa. Ngay từ đại 
hội VI Đảng ta đã xác định mô hình quản lý kinh tế  tập trung, bao cấp  
không còn phù hợp và nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng  
của thời kỳ  quá độ. Vì vậy Đại hội VII đã khẳng định đó là “nền kinh tế 
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo 
cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước” Đồng thời, cụ thể hóa một  
bước về  chế  độ  công hữu, đó là chế  độ  công hữu về  các tư  liệu sản xuất  
chủ yếu”.

Đến đại hội IX khái niệm nền kinh tế thị  trường định hướng xã hội  
chủ  nghĩa được xác định rõ hơn nữa: “ nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành  
phần vận động theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước theo  
20


định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa”        
Đến Đại hội XI, Đảng ta xác định, nền kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế “ với nhiều hình thức sở  hữu, nhiều thành 
phần kinh tế, hình thức tổ  chức kinh doanh và hinh thức phân phối. Các 
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan  
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài,  
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế  nhà nước giữ  vai trò chủ  đạo. 
Kinh tế tập thể không ngừng được cũng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước 
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở  thành nền tảng vững chắc của nền  
kinh tế  quốc dân”. Đại hội XII của Đảng tiếp tục bổ  sung, hoàn chỉnh lý 
luận về  kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa Việt Nam: “Nền  
kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa Việt Nam là nền kinh tế 
vận hành đầy đủ, đồng bộ  các quy luật của kinh tế  thị  trường, đồng thời  
bảo đảm định hướng xã hội  chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn của đất 
nước. Đó là nền kinh tế  thị  trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự 
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa, do Đảng cộng sản  
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công 
bằng, văn minh”.
Như vậy, xuất phát từ đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con 
đường đi lên chủ  nghĩa xã hội  ở  Việt Nam, Đảng ta đã quan niệm kinh tế 
thị  trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển dưới chủ 
nghĩa tư bản, nhưng bản thân nó không đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Từ 
đó, Đảng ta đã xác định, với thực trạng lực lượng sản xuất của đất nước, 

chúng ta không thể  ngay lập tức xác lập chế  độ  công hữu mà phải đi qua  
những khâu trung gian quá độ  với nền kinh tế  nhiều hình thức sỡ  hữu,  
nhiều thành phần kinh tế. Do đó, cần phải phát triển lý luận  về kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ  nghĩa cho phù hợp, và thực tiễn đổi mới  
những năm qua ở Việt Nam đã chứng minh một cách thuyết phục rằng, xây 
dựng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ  nghĩa là một sự 
lựa chọn đúng đắn và tất yếu để thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

21


Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng 
ta phải hướng đến mục tiêu nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, 
gắn với xây dựng quan hệ  sản xuất mới tiến bộ, phù hợp trên cả  ba mặt:  
sở  hữu, quản lý và phân phối nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước  
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nói cách khác kinh tế thị trường của 
chúng ta phải bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại: Công tác lý luận của Đảng ta thời gian qua đã có bước phát 
trển mới. Tuy nhiên nhìn chung công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực 
tiễn vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp đổi mới. Nhận  
thức trên một số vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu 
thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu…Trong Văn kiện 
Đại hội XII Đảng ta cũng chỉ  rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu 
lý luận còn bất cập, chưa làm rõ  được một số vấn đề đặt ra trong quá trình  
mới để  định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ  sở   khoa học cho hoạch  
định đường lối của Đảng, Chính sách và pháp luật của nhà nước. Lý luận 
về  chủ  nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội còn một số  vấn 
đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ” 
Chính vì vậy, hiện nay Đảng vẫn phải tiếp tục, không ngừng phát triển  
hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội  

ở nước ta.
4. Một số quan điểm cần quán triệt trong phát triển lý luận về 
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
   Trên cơ  sở  quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực  
tiễn của triết học Mác­Lênin, cùng thực trạng lý luận  ở  nước ta hiện nay, 
để  phát triển lý luận về  chủ  nghĩa xã hội, chúng ta cần phải nắm vững  
những quan điểm sau đây:
4.1 Quán triệt quan điểm thực tiễn
Theo VI Lênin: “ Quan điểm về đời sống, về  thực tiễn, phải là quan 
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”
Yêu cầu của quan điểm thực tiễn:

22


Quan điểm thực tiễn đòi hỏi nhận thức sự  vật, nghiên cứu lý luận 
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, gắn với nhu cầu thực  
tiễn (của thời đại, của đất nước, của địa phương, của ngành…)Thực tiễn là 
cơ  sở  của lý luận, là nền tảng nảy sinh, hình thành lý luận không thể  hình 
thành bên ngoài thực tiễn, xa rời thực tiễn.
Phải thường xuyên tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, 
lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, chủ trương,  
đường lối chính sách. Thực tiễn vừa là mục đích, vừa là tiêu chuẩn của lý 
luận, do đó khi đã có lý luận nêu không tổ  chức hoạt động thực tiễn, sẽ 
không thể phát huy vai trò của lý luận, và cũng không có điều kiện để kiểm 
tra lý luận.
Tăng cường tổng kết thực tiễn để  kịp thời bổ  sung, điều chỉnh, phát 
triển lý luận, chủ trương, đường lối, chính sách cho phù hợp với thực tiễn  
mới. Lý luận ra đời thông qua con đường tổng kết thực tiễn, tổng kết kinh  
nghiệm, do đó nếu không thường xuyên tổng kết thực tiễn thì cũng không 

có cơ  sở  để  bổ  sung những thiếu sót, những hạn chế  lý luận và như  vậy  
cũng không thể tiếp tục phát triển lý luận ở trình độ cao hơn.
Chính vì vậy, một trong những bài học được Đảng ta rút ra sau 30 
năm đổi mới, trong Văn kiện XII là: “Đổi mới phải… xuất phát từ  thực 
tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập  
trung giải quết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”
4.2 Ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm, về  bản chất là khuynh hướng tư  tưởng và hành 
động đề cao vai trò thực tiễn, tuyệt đối hóa kinh nghiệm, hạ thấp vai trò lý 
luận.
Biểu hiện của căn bệnh này rất đa dạng, như  coi thường lý luận, 
hoạt động chỉ  dựa vào kinh nghiệm, không chịu học hỏi để  vươn lên, cho  
kinh nghiệm là yếu tố duy nhất quyết định mọi thành công trong nhận thức  
và hoạt động thực tiễn; thiếu sự định hướng của lý luận nên họ thường làm  
việc theo thói quen, đường mòn, thiếu nhìn xa trông rộng .v. v

23


Bệnh giáo điều, về bản chất là khuynh hướng tư tưởng và hành động 
tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là chìa khóa vạn năng: coi thường, hạ thấp  
thực tiễn, không đánh giá đúng  vai trò của thực tiễn trong hoạt động nhận  
thức cũng như  hoạt động lý luận; hoặc áp dụng lý luận và kinh nghiệm 
không tính tới điều kiện thực tiễn, lịch sử ­ cụ thể.
Biểu hiện căn bệnh này  ở nước ta có hai loại giáo điều. Một là giáo  
điều lý luận, thể  hiện  ở việc vận dụng lý luận bất chấp những điều kiện  
thực tiễn, lịch sử  ­ cụ  thể; học tập lý luận tách rời thực tiễn, xa rời cuộc  
sống, dẫn đến hiểu lý luận chỉ dừng ở câu chữ, rơi vào bệnh sách vở, bệnh  
“tầm chương, trich cú”.v.v. Hai là, giáo điều kinh nghiệm,  áp dụng rập  
khuôn, máy móc kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác,  

nước khác không tính tới những điều kiện thực tiễn, lịch sử­ cụ  thể  của  
mình có phù hợp hay không.
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm và giáo điều.
Nguyên nhân cơ  bản, trực tiếp nhất của cả  bệnh kinh nghiệm và 
bệnh giáo điều là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,  
không quán triệt quan điểm thực tiễn, tách rời lý luận vag thực tiễn.
Hướng khắc phục của bệnh kinh nghiệm và giáo điều
Để khắc phục của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần 
quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, hiểu và  
vận dụng đúng đắn quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn. 
4.3 Vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triên chủ nghĩa Mác ­Lênin, 
tư tưởng Hồ Chí Minh
Lý luận ra đời từ  thực tiễn, nhưng đó không phải là con đường duy 
nhất, lý luận còn được hình thành, phát triển thông qua việc kế  thừa   lý 
luận trong lịch sử  của dân tộc, của nhân loại. Chính vì vậy, để  bổ  sung,  
phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một mặt chúng ta phải  
tăng cường tổng kết thực tiễn, nhưng mặt khác cũng phải biết kế thừa tinh  
hoa lý luận của dân tộc và nhân loại, cụ thể là lý luận chủ nghĩa Mác­ Lênin 
và tư  tưởng Hồ  Chí Minh. Đảng ta luôn nhấn mạnh, lấy chủ  nghĩa Mác­ 

24


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư  tưởng, kim chỉ nam cho nhận  
thức, hành động của toàn Đảng, toàn dân.
Khi kế thừa phải linh hoạt, sáng tạo và phù  hợp với điều kiện thực 
tiễn mới của đất nước, nếu không sẽ  rơi vào sai lầm kinh viện, giáo điều.  
Đại hội XI yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao 
hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư  tưởng, 
tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác­ Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan  

điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.”
4.4 Thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của cán bộ đảng viên 
trong quá trình đổi mới
Đảng phải luôn luôn nâng cao trình độ  lý luận của mình và của cán  
bộ, đảng viên trong quá trình đổi mới. Bởi vì, nếu trình độ  tư  duy lý luận  
yếu kém thì không thể tổng kết thực tiễn, không thể tổng kết kinh nghiệm 
để xây dựng lý luận hoặc kế thừa lý luận. Văn kiện Đại hội XI của Đảng 
cũng đề  cập vấn đề  này như  sau: .. “không ngừng phát triển lý luận, đề  ra 
đường lối và chủ  trương đáp  ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục  
một số  mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận . Tạo môi  
trường dân chủ  thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng  
tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn 
trương ban hành quy chế  dân chủ  trong nghiên cứu lý luận chính trị. Nâng 
cao chất lượng hoạt động của các cơ  quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ 
chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn”
Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ 
lý luận cho bản thân, thấm nhuần lời dạy của V.I Lênin: Học, học   nữa, 
học mãi. Tuy nhiên, khi học tập lý luận cần phải liên hệ với thực tiễn của 
địa phương, của đất nước và gắn với thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng 
nói: “Lý luận rất cần thiết nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không 
có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: Lý 
luận phải liên hệ với thực tế” Nói phải đi đôi với làm, học đi đôi với hành, 
tránh tình trạng quan liêu, bàn giấy, sách vở, lý thuyết suông xa vời thực 
tiễn, nói mà không làm hoặc nói một đằng làm một nẻo…
25


×