Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm từ thực tiễn tòa án nhân dân tỉnh hả nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 96 trang )

NGUYỄN DUY NINH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

Giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại
theo thủ tục xét xử sơ thẩm từ thực tiễn tòa án
nhân dân tỉnh Hà Nam

NGUYỄN DUY NINH

2017 - 2019

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại
theo thủ tục xét xử sơ thẩm từ thực tiễn tòa án
nhân dân tỉnh Hà Nam

NGUYỄN DUY NINH


Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 8 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Duy Ninh


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Sau đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội và
sự đồng ý của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Vũ Thị Lan Anh về đề tài luận văn:
"Giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm từ
thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam". Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận

được rất nhiều sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của quý thầy, cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo của Trường
Đại học Mở Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình tôi học
tập, nghiên cứu tại Trường.
Chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Vũ Thị Lan Anh
đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu thực hiện luận văn của mình.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại
học, Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học
tập. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một cách hoàn chỉnh
nhất, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà tự bản thân không
thể tự nhận thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của Quý thầy, cô giáo để
luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn bên tôi, động
viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn, công trình nghiên cứu
của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Duy Ninh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI THEO THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM
TẠI TÒA ÁN

1.1.

7

Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại và giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại

7

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại

7

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

10

1.1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

12

1.2.

Khái quát về thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án


14

1.2.1. Khái niệm thủ tục xét xử sơ thẩm

14

1.2.2. Đặc điểm của thủ tục xét xử sơ thẩm

15

1.3.

Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục xét xử
sơ thẩm tại tòa án

16

1.3.1. Khái niệm và đặc điểm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm

16

1.3.2. Các tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tranh chấp kinh doanh
thương mại

19

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI THEO THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM

TẠI TÒA ÁN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở TỈNH HÀ NAM

2.1.

Hệ thống các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án

2.2.

24
24

Các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án

28

2.2.1. Quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

28

2.2.2. Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

33

2.2.3. Quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại theo thủ tục sơ thẩm tại tòa án
2.2.4. Một số nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật

40

44


2.3.

Thực trạng thi hành pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án tỉnh Hà Nam

45

2.3.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và hệ thống tổ chức
của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam

45

2.3.2. Những kết quả đạt được

50

2.3.3. Những khó khăn, vướng mắc

54

2.3.4. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc

64

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI THEO THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ
THẨM TẠI TÒA ÁN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH Ở

TỈNH HÀ NAM

3.1.

68

Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ
tục xét xử sơ thẩm tại tòa án

3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án

3.3.

68
73

Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án
tỉnh Hà Nam

77

3.3.1. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về kinh doanh thương mại

77


3.3.2. Chú trọng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức
nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ ngành toà án

79

3.3.3. Thực hiện công khai hoá bản án và quy trình, thủ tục xét xử của
Toà án

81

3.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tố tụng
của ngành toà án

82

3.3.5. Các giải pháp khác

83

KẾT LUẬN

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

86

PHỤ LỤC


89


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

KDTM

: Kinh doanh thương mại

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam đã
và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế đã
khiến các quan hệ kinh doanh thương mại (KDTM) của Việt Nam ngày càng gia
tăng về số lượng cũng như tính chất phức tạp. Theo đó, các tranh chấp KDTM cũng
đang diễn ra với chiều hướng đa dạng, phức tạp. Từ thực tiễn đó, đòi hỏi phải có

một cơ chế hiệu quả để giải quyết các tranh chấp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng cho các tổ chức, cá nhân có tranh chấp KDTM, đồng thời cũng là công
cụ để Nhà nước quản lý trật tự kinh tế - xã hội.
Hiện nay, mặc dù có nhiều phương thức khác nhau trong giải quyết tranh
chấp KDTM, trong đó tòa án chỉ là chọn lựa cuối cùng nhưng với vai trò là một
thiết chế tài phán công, có nhiều lợi thế khi giải quyết các tranh chấp nên tòa án
cũng được nhiều đương sự ưu tiên lựa chọn khi giải quyết các tranh chấp tranh chấp
KDTM. Trước đây, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Bộ luật Tố tụng
dân sự (BLTTDS) năm 2004 đã có các quy định về thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế cũng như thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp KDTM.
Tuy nhiên, các quy định đó sau một thời gian áp dụng đã bộc lộ nhiều hạn chế như:
không phân biệt tranh chấp KDTM với tranh chấp dân sự, một số tranh chấp KDTM
nhưng không được giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế… Điều này ảnh hưởng tới
chất lượng, hiệu quả xét xử các vụ án.
Khi BLTTDS 2004 ra đời đã đánh dấu một bước tiến lớn của pháp luật tố
tụng Việt Nam với nhiều tiến bộ, đã khắc phục được hầu hết các nhược điểm của
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế trước đó. Tuy nhiên quá trình áp dụng
BLTTDS 2004 cũng đã bộc lộ những hạn chế vướng mắc, đòi hỏi cần được nghiên
cứu để tìm ra giải pháp giải quyết khắc phục hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả áp
1


dụng của pháp luật. Ngày 29/3/2011, BLTTDS sửa đổi BLTTDS 2004 ra đời đã quy
định đầy đủ, có tính hệ thống hơn về thủ tục xét xử, các nguyên tắc cơ bản của tố
tụng dân sự, địa vị pháp lý của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng. Đặc biệt, kể từ khi BLTTDS 2015 ra đời đã thể hiện sự
hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về thẩm quyền, thủ tục xét xử của tòa án,
đồng thời cũng đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp,
đặc biệt Nghị quyết số 48/NQ-TW; Nghị quyết số 49/NQ-TW; Kết luận 79/KL-TW;
Kết luận 92/KL-TW của Bộ Chính trị đã quán triệt hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư

pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai minh bạch, tôn trọng bảo vệ quyền
con người, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng, thực hiện tốt việc tranh tụng xem đó là khâu đột phá của
hoạt động xét xử, tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ để
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình.
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hà Nam
đã có nhiều doanh nghiệp được thành lập và đi vào hoạt động với nhiều ngành nghề,
lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì bên cạnh quá trình hợp tác cũng diễn ra những
xung đột về quyền và lợi ích giữa các chủ thể khi tham gia KDTM. Khi các tranh
chấp xảy ra, nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động KDTM của chính chủ
thể đó mà còn gián tiếp tác động tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh
tế. Thực tiễn đã chứng minh tranh chấp KDTM phát sinh là điều tất yếu, vấn đề là
phải có biện pháp giải quyết hợp lý những tranh chấp đó để giúp cho các chủ thể
KDTM có được sự tin tưởng trong cơ chế điều hành, quản lý kinh tế của doanh nghiệp.
Chính vì thế, việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống giải quyết tranh chấp KDTM, trong
đó có hoàn thiện pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án trong giải quyết
tranh chấp KDTM phù hợp với cơ chế thị trường không chỉ là đòi hỏi bức thiết của
xã hội mà còn là yêu cầu để đảm bảo thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta.
Thời gian qua, Tòa án nhân dân (TAND) hai cấp tỉnh Hà Nam đã đạt được
những kết quả nhất định trong việc xét xử các vụ án tranh chấp KDTM tuân thủ
2


nghiêm các quy định về thủ tục xét xử. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện
vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc liên quan đến các quy định của pháp luật về
thủ tục xét xử sơ thẩm. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu của giải
quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài luận
văn thạc sĩ với chủ đề: "Giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại theo
thủ tục xét xử sơ thẩm từ thực tiễn tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam" với mong

muốn phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục xét xử sơ
thẩm của tòa án trong giải quyết các tranh chấp KDTM; từ đó chỉ ra những điểm
hạn chế của các quy định này; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giải quyết các vụ án tranh chấp KDTM theo
thủ tục xét xử sơ thẩm từ thực tiễn TAND tỉnh Hà Nam thời gian tới.
2. Tổng quan nghiên cứu
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển, cùng với mục tiêu lợi
nhuận được đặt lên hàng đầu, hoạt động trong lĩnh vực KDTM thu hút rất nhiều chủ
thể tham gia nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, phát sinh nhiều tranh chấp. Vì vậy,
hiện nay vấn đề giải quyết tranh chấp KDTM luôn được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm. Các nhà nghiên cứu đi sâu vào phân tích những khía cạnh khác nhau về vấn đề
này cũng như tập trung nghiên cứu về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án tranh chấp
KDTM của toàn án. Cụ thể như sau:
Các bài viết nghiên cứu đề cập đến vấn đề giải quyết tranh chấp KDTM
theo pháp luật tố tụng dân sự bao gồm: "Một số kiến nghị nhằm thực thi có hiệu quả
các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự" của Vũ Thị Hồng Vân, đăng trên Tạp chí Kiểm
sát số 15, năm 2007; "Thẩm quyền giải quyết kinh doanh theo Bộ luật Tố tụng dân
sự 2004", của Viên Thế Giang, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12,
năm 2005 ; Tiến sĩ Phan Chí Hiếu với bài viết: "Thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp kinh doanh theo Bộ luật Tố tụng dân sự và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn
3


thi hành", đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10, năm 2010; bài viết
"Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án", của Triệu Thị Quỳnh Hoa, đăng trên Tạp chí TAND số 9/2012...
Bên cạnh đó, có một số luận văn thạc sĩ cũng nghiên cứu về vấn đề này
như: Cao Thị Thanh Thủy (2012), Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng trọng tài và tòa án dưới góc độ so sánh, Luận văn thạc sĩ Luật

học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Hoàng Tố Nguyên (2013), Thẩm quyền của Tòa
án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tưởng Thị Lan
(2014), Thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại- Thực tiễn giải quyết tại Tòa
án nhân dân huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội; Đào Thị Quỳnh Trang (2016), Pháp luật giải quyết tranh
chấp thương mại bằng tòa án và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;...
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập dưới góc độ phương
diện khác nhau giải quyết những vấn đề riêng biệt, cho đến nay chưa có đề tài nào
nghiên cứu một cách tập trung, đầy đủ vấn đề giải quyết vụ án tranh chấp KDTM
theo thủ tục xét xử sơ thẩm từ thực tiễn TAND tỉnh Hà Nam.
Kế thừa những công trình nghiên cứu về nội dung này, luận văn xin được đi
sâu phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng về thủ tục xét xử sơ thẩm
các vụ án tranh chấp KDTM từ thực tiễn tòa án tỉnh Hà Nam, từ đó đưa ra những
giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật hiện hành cũng
như nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM tại tòa án
trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu và làm rõ các vấn đề lý luận về thủ
tục xét xử sơ thẩm tại tòa án trong việc giải quyết tranh chấp KDTM. Trên cơ sở đó,
4


phân tích thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành cũng như việc áp dụng
các quy định pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án trong giải quyết các
tranh chấp KDTM từ thực tiễn tòa án tỉnh Hà Nam. Từ đó, luận văn đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện quy định pháp luật về
thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án trong việc giải quyết tranh chấp KDTM ở tỉnh Hà

Nam thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Trên cơ sở mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về giải quyết tranh chấp KDTM theo
thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án;
- Phân tích thực trạng quy định của pháp luật về giải quyết các tranh chấp
KDTM theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án hiện nay; đánh giá thực trạng giải
quyết các tranh chấp KDTM theo thủ tục xét xử sơ thẩm từ thực tiễn tòa án tỉnh Hà
Nam; chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những bất cập, vướng mắc trong quá
trình thực hiện và rút ra nguyên nhân của hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa
án trong giải quyết các vụ án tranh chấp KDTM ở tỉnh Hà Nam thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật và thực tiễn xét xử
sơ thẩm tại tòa án trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp KDTM ở tỉnh Hà Nam.
4.2. Phạm vi
- Về không gian: trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
- Về thời gian: nghiên cứu thực trạng từ năm 2015 đến nay và đề xuất giải
pháp đến năm 2025.
5. Phương pháp nghiên cứu

5


Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử kết hợp với các phương pháp chuyên ngành như: Phương pháp lịch sử, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát

thực tiễn.Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước về đường lối đổi mới đất
nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án trong
việc giải quyết các vụ án tranh chấp KDTM.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp kinh doanh thương mại và
giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án và thực tiễn thi hành ở tỉnh Hà Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết các tranh chấp kinh
doanh thương mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án và nâng cao hiệu quả thi
hành ở tỉnh Hà Nam.

6


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI THEO THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN

1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại và giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại
Hiện nay, trong khoa học pháp lý, các khái niệm như: tranh chấp kinh tế,
tranh chấp thương mại hay tranh chấp KDTM thường được đề cập với nội hàm rộng,
hẹp khác nhau. Nhưng nhìn chung các khái niệm đều được hiểu là những xung đột,

bất đồng về lợi ích, quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ KDTM.
Ở Việt Nam, thuật ngữ tranh chấp KDTM mới chỉ xuất hiện khi đất nước
tiến hành đổi mới nền kinh tế đến nay. Trước đây, khi nền kinh tế Việt Nam còn
mang nặng tính bao cấp, các mối quan hệ kinh tế mang tính tập thể và quốc hữu.
Các quan hệ kinh tế chủ yếu phát sinh giữa các chủ thể nằm trong sự quản lý của
nhà nước, lúc này chưa có thuật ngữ "Tranh chấp kinh doanh thương mại" mà chỉ
tồn tại thuật ngữ "Tranh chấp kinh tế".
"Tranh chấp kinh tế" theo tư duy cũ quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, bao gồm:
"Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa
pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty;
Các tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật" [32].
Với quy định này, khái niệm "tranh chấp kinh tế" vẫn không bao quát hết
các tranh chấp phát sinh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, ví dụ như tranh
7


chấp về hợp đồng có mục đích kinh doanh giữa hai doanh nghiệp tư nhân với nhau
không được xem là tranh chấp kinh tế mà xem là tranh chấp dân sự. Điều này dẫn
đến không có sự phân biệt rõ ràng giữa tranh chấp kinh tế và tranh chấp dân sự.
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có cách hiểu chuẩn xác và thống nhất về tranh
chấp KDTM. Việc xác định phạm vi của tranh chấp được coi là tranh chấp KDTM
chủ yếu căn cứ vào luật thực định.
Theo khoản 16, Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì: "Kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi" [20].

Khoản 1, Điều 3, Luật Thương mại năm 2005 định nghĩa: "Hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác" [14].
Với cách định nghĩa trên hoạt động kinh doanh và hoạt động thương mại có
nhiều nội hàm trùng nhau như về mục đích sinh lợi, về đầu tư, về cung ứng dịch vụ,
về tiêu thụ sản phẩm… Trên thực tế, khi xây dựng các quy định trong BLTTDS
2004, đã có nhiều tranh luận xung quanh nội hàm của hai thuật ngữ "Tranh chấp
kinh doanh" và "Tranh chấp thương mại". Liệu đây là hai thuật ngữ khác biệt hay
tương đương nhau? Có ý kiến thì cho rằng nội hàm của "Tranh chấp thương mại"
hẹp hơn "Tranh chấp kinh doanh" và "Tranh chấp thương mại" chỉ là một dạng của
"Tranh chấp kinh doanh", nó phát sinh từ hoạt động kinh doanh và có quan hệ chặt
chẽ với hoạt động kinh doanh. Trong khi đó, có quan điểm cho rằng "Tranh chấp
thương mại" rộng hơn "Tranh chấp kinh doanh", hoặc hai thuật ngữ là tương đương
nhau trong bối cảnh Việt Nam hiện nay..
Từ sự bất đồng giữa quan điểm dẫn tới việc BLTTDS 2004 đã dùng giải
pháp dung hòa khi xây dựng các quy định trong Bộ luật đó là: Sử dụng ghép hai
thuật ngữ "Tranh chấp kinh doanh thương mại".
Theo đó, có thể quan niệm tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng
giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực hiện liên tục một, một số hoặc toàn
8


bộ quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng các dịch vụ trên thị
trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác. Nói một cách ngắn gọn
hơn, có thể định nghĩa tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích
giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động KDTM.
Hiện nay, khái niệm về tranh chấp KDTM được đề cập đến trong khoản 1,
Điều 30, BLTTDS năm 2015: "Tranh chấp kinh doanh thương mại là những tranh
chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có
đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận" [22].

Có thể thấy, các quan niệm trên đều có hạt nhân hợp lý của mình, vấn đề là
sử dụng thuật ngữ thống nhất trong tất cả các văn bản pháp luật. Theo quan điểm
của tác giả: Tranh chấp KDTM là những tranh chấp, bất đồng, xung đột về quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể có đăng ký kinh doanh phát sinh trong hoạt động
KDTM vì mục đích lợi nhuận.
1.1.1.2. Đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại
Tranh chấp KDTM có nhiều loại khác nhau nhưng các tranh chấp KDTM
đều có các đặc điểm chung là:
Về nội dung: là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM như:
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý, ký gửi, thuê và
cho thuê... Các tranh chấp này luôn gắn liền với các hoạt động kinh tế, gắn liền với
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ kinh tế.
Về chủ thể: các bên tranh chấp có đăng ký kinh doanh hoặc ít nhất một bên
có đăng ký kinh doanh. Trong các tranh chấp KDTM chủ thể chủ yếu là các thương
nhân, một số trường hợp có thể là cá nhân, chủ thể không phải là thương nhân như
tranh chấp giữa công ty với thành viên của công ty.
Về cách thức giải quyết các tranh chấp KDTM là do các bên tranh chấp tự
định đoạt. Bởi các bên tranh chấp có nhiều cách thức để lựa chọn giải quyết như:
hòa giải, thương lượng, trọng tài thương mại, tòa án. Việc lựa chọn các phương thức
giải quyết nào là quyền của các bên nhưng vẫn phải đảm bảo tôn trọng lợi ích của
nhau và lợi ích của nhà nước.
9


Về tính chất: các tranh chấp KDTM mang tính tài sản. Có thể thấy, các
tranh chấp KDTM thường mang yếu tố vật chất và có giá trị tài sản lớn, liên quan
đến lợi ích của các bên. Mức độ tranh chấp thường gay gắt, tính chất phức tạp. Do
đó, nếu các tranh chấp KDTM không được giải quyết thì sẽ để lại hậu quả xấu cho
các bên tranh chấp, thậm chí ảnh hưởng không tốt tới các chủ thể khác và nền kinh
tế của đất nước. Vì vậy, giải quyết các tranh chấp KDTM hợp tình, hợp lý là một

yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Tranh chấp KDTM là hệ quả phát sinh từ các quan hệ KDTM, các quan hệ
có tính tài sản với mục đích kinh doanh, kiếm lời. Khi tham gia các quan hệ KDTM,
các chủ thể đều hướng đến mục đích cao nhất là lợi nhuận, lợi ích kinh tế. Do vậy,
tranh chấp KDTM phát sinh trên cơ sở sự xâm phạm đến quyền lợi kinh tế. Các
tranh chấp này thường có ảnh hưởng đến không những quyền lợi của các bên tranh
chấp mà còn ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của cả cộng đồng kinh doanh.
Đây chính là phản ứng dây chuyền của tranh chấp KDTM và do vậy nếu nó không
được giải quyết một cách khoa học, bảo đảm quyền lợi của các bên trong quan hệ
tranh chấp thì có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Hoạt động KDTM có những đặc thù riêng cho nên khi tranh chấp xảy ra các
bên tranh chấp luôn mong muốn nhanh chóng chấm dứt xung đột để bảo vệ hoặc
khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Theo đó, giải quyết tranh chấp KDTM là việc áp dụng các biện pháp cần
thiết nhằm chấm dứt xung đột, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo
vệ trật tự kỷ cương xã hội [11, tr. 287].
Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp nói riêng cũng như mọi
vấn đề liên quan đến quá trình giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh nói chung
dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ quan nhà
10


nước và Trọng tài thương mại can thiệp theo yêu cầu của các bên tranh chấp, kể cả
khi Tòa án hoặc Trọng tài đã can thiệp trong quá trình tố tụng, quyền tự định đoạt
biểu hiện bằng những hành vi đơn phương hoặc thỏa thuận của các bên luôn được
ghi nhận và tôn trọng. Quyền tự định đoạt của các bên được coi là một nội dung của
quyền tự do kinh doanh và được pháp luật bảo hộ.

1.1.2.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Giải quyết tranh chấp KDTM có các đặc điểm sau:
Một là, giải quyết tranh chấp KDTM là việc áp dụng các biện pháp để tháo
gỡ các xung đột, bế tắc về lợi ích kinh tế giữa các bên tranh chấp cho nên đặc điểm
của giải quyết tranh chấp KDTM là khôi phục và duy trì quan hệ hợp tác, tín nhiệm
giữa các bên trong kinh doanh. Việc giải quyết các tranh chấp này giúp cho các bên
chủ thể nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ của mình, qua đó để họ tiếp tục và duy trì
quan hệ hợp tác vì lợi ích của các bên và cộng đồng.
Hai là, giải quyết tranh chấp KDTM giúp cho các bên giải quyết các tranh
chấp một cách nhanh chóng, kịp thời, hạn chế tối đa sự gián đoạn trong quá trình
kinh doanh. KDTM là những mối quan hệ mang đậm màu sắc kinh tế với yếu tố lợi
nhuận luôn được đặt lên hàng đầu, một trong các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
của các bên tranh chấp KDTM là quỹ thời gian. Nếu như thời gian giải quyết tranh
chấp kéo dài có thể ảnh hưởng đến hoạt động thương mại và làm mất đi lợi thế của
hai bên tranh chấp hoặc ảnh hưởng đến bên thứ ba.
Ba là, hoạt động KDTM thường mang tính chất dân sự, tự do, tự nguyện và
bình đẳng nên khi giải quyết tranh chấp KDTM luôn có sự tôn trọng quyền tự định
đoạt của các bên về quyền lợi, nghĩa vụ cũng như phương thức, thời gian, địa điểm
giải quyết tranh chấp KDTM. Tuy nhiên, tùy từng phương thức giải quyết tranh
chấp, quyền định đoạt của các bên tranh chấp được thể hiện ở các mức độ khác
nhau.
Bốn là, các tranh chấp KDTM thường xảy ra giữa các đối tác, các bạn hàng
của nhau, nhiều khi là đối tác chiến lược, bạn hàng lâu năm nên mặc dù các bên có
11


tranh chấp về mặt lợi ích nhưng họ vẫn muốn hợp tác lâu dài với nhau, ràng buộc,
nương tựa lẫn nhau. Chính vì vậy, khi có tranh chấp KDTM, các bên lựa chọn
thương lượng hoặc có thể hòa giải hay thông qua trọng tài thương mại để giải quyết.
Cuối cùng, không thể giải quyết được, các bên mới khởi kiện ra tòa án.

1.1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, trong đó bao hàm quyền tự do lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất cho mình. Hiện nay, theo quy định
của pháp luật, có 4 phương thức cơ bản thường được áp dụng để giải quyết các
tranh chấp KDTM đó là: thương lượng, hòa giải, Trọng tài và Tòa án.
Giải quyết tranh chấp KDTM bằng thương lượng: là hình thức giải quyết
tranh chấp KDTM được tiến hành giữa các bên (hoặc đại diện của các bên) tranh
chấp, không cần đến vai trò của người thứ ba để cùng tìm ra và đi đến những thỏa
thuận thống nhất bằng những giải pháp phù hợp với tất cả các bên nhằm chấm dứt
những tranh chấp trong hoạt động KDTM. Đây là biện pháp khá phổ biến, có tính
chất đơn giản, ít tốn kém, không làm phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có của
các bên, giữ được bí mật kinh doanh lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý.
Thương lượng đòi hỏi các bên phải có thiện chí, trung thực và hợp tác. Tuy
nhiên, hình thức thương lượng có một số nhược điểm sau: khó thực hiện nếu các
bên mâu thuẫn không có thiện chí; giá trị pháp lý của biên bản thương lượng chưa
được quy định cụ thể và không có giá trị cưỡng chế thi hành.
Giải quyết tranh chấp KDTM bằng hòa giải: là phương thức giải quyết
tranh chấp KDTM có sự tham gia của bên thứ ba giữ vai trò trung gian hòa giải
nhằm giúp cho các bên tranh chấp thu hẹp những bất đồng và đi đến giải pháp giải
quyết vụ tranh chấp. So với hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa
giải có điểm khác biệt là có sự xuất hiện của bên thứ ba, với tư cách là người trung
gian để giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp. Bên thứ ba (hay còn gọi là hòa giải viên)
do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn làm trung gian hòa giải không có quyền

12


quyết định hay áp đặt ý chí của mình lên các bên tranh chấp. Tuy nhiên, hòa giải
viên là người am hiểu pháp luật, có kỹ năng hòa giải, có kiến thức chuyên môn liên

quan đến lĩnh vực tranh chấp sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cho các bên
tranh chấp tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết tranh chấp, còn
giải pháp có đạt được hay không là do các bên tranh chấp quyết định.
Giải quyết tranh chấp KDTM bằng Trọng tài: Đây là phương thức giải
quyết tranh chấp KDTM khá phổ biến, được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Đó là
hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Trọng tài viên (hoặc Hội
đồng Trọng tài), với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng
việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Cơ sở làm phát
sinh thẩm quyền của Trọng tài là sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Điều 5,
khoản 1 của Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: "Tranh chấp được giải quyết
bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận Trọng tài. Thỏa thuận Trọng tài có thể
được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp" [16]. Thỏa thuận Trọng tài phải được
lập thành văn bản, có thể ghi trong hợp đồng chính hoặc bằng văn bản riêng.
Ưu điểm của phương thức này là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho
các bên, tiết kiệm được thời gian, có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm
bảo bí mật. Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử không
công khai hoặc xử kín. Theo nguyên tắc này các bên có thể giữ được bí mật kinh
doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Giải quyết bằng trọng tài không bị giới
hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để
giải quyết tranh chấp cho mình. Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, đây là
ưu thế vượt trội so với thương lượng và hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán
quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án
nào. Tuy nhiên, nhược điểm của phương thức này đòi hỏi chi phí tương đối cao.
Phán quyết của Trọng tài cũng có thể được cưỡng chế thi hành bởi cơ quan thi hành
án như phán quyết của Tòa án.
Giải quyết tranh chấp KDTM bằng Tòa án: là phương thức giải quyết tranh
13


chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự,

thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp
nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước [31, tr. 465]. Tòa án là cơ quan tài phán duy nhất có quyền
nhân danh quyền lực nhà nước tiến hành xét xử các vụ tranh chấp KDTM. Đặc
điểm này thể hiện vai trò của nhà nước trong việc tạo lập nên những thiết chế quyền
lực nhằm giải quyết những mâu thuẫn bất đồng trong kinh doanh, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong nền kinh tế, góp phần xây dựng môi trường
kinh doanh lành mạnh.
Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án là có tính
cưỡng chế cao, nếu không chấp hành thì sẽ bị cưỡng chế. So với phương thức giải
quyết bằng trọng tài thì giải quyết bằng tòa án có ưu thế hơn hẳn về trình tự tố tụng
chặt chẽ, tính khả thi của hiệu lực phán quyết. Tuy nhiên, nhược điểm của phương
thức này là thủ tục tại tòa án thiếu tính linh hoạt, do đã được pháp luật quy định chặt
chẽ. Bên cạnh đó, nguyên tắc xét xử công khai một mặt thể hiện tính tiến bộ, mang
tính răn đe nhưng đôi khi lại là yếu tố cản trở đối với các bên khi bí mật kinh doanh
bị tiết lộ.
Có thể thấy rằng mỗi phương thức giải quyết tranh chấp KDTM nói trên
đều có những ưu nhược điểm riêng. Khi xảy ra tranh chấp cần phải giải quyết thì
các bên có quyền lựa chọn phương thức giải quyết phù hợp nhất. Ở Việt Nam hiện
nay, phương thức giải quyết tranh chấp KDTM bằng tòa án đang phát huy vai trò
quan trọng và được các chủ thể lựa chọn để giải quyết tranh chấp.
1.2. Khái quát về thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án
1.2.1. Khái niệm thủ tục xét xử sơ thẩm
Theo Từ điển Tiếng Việt (1997) của Viện Ngôn ngữ học: "Thủ tục là những
việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành một công việc có tính
chất chính thức" [35, tr. 972]. Như vậy, mỗi công việc được thực hiện theo một thủ
14


tục nhất định sẽ góp phần giải quyết công việc khoa học, mang lại hiệu quả cao.

Về xét xử, chúng ta có thể hiểu khái quát nhất, đó không chỉ là việc kiểm
tra lại các tài liệu, chứng cứ thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và tuyên án.
Mà xét xử là một hoạt động đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước do Tòa án thực
hiện, nhằm giải quyết những vụ án thuộc nhiều lĩnh vực như hình sự, dân sự, kinh
tế, hành chính…
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà
Nội, thì "Sơ thẩm được hiểu là lần đầu tiên đưa một vụ án ra xét xử tại Tòa án có
thẩm quyền". Như vậy, xét xử sơ thẩm là lần xét xử đầu tiên của một vụ án theo
thẩm quyền của từng cấp tòa án.
Từ đó, có thể hiểu thủ tục xét xử sơ thẩm là những công việc mà tòa án cần
phải làm theo một trình tự nhất định để xét xử lần đầu một vụ án giải quyết tranh
chấp theo thẩm quyền của tòa án.
Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án thường qua các giai đoạn khác nhau:
Giai đoạn thụ lý vụ án: là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ quá trình giải quyết
vụ án tại Tòa án.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án được tính từ khi thụ lý vụ án cho
đến khi Tòa án ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử; Tạm đình chỉ việc
giải quyết vụ án; hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án được tính từ khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử cho đến khi Tòa án thực hiện xong các thủ tục sau phiên tòa sơ thẩm. Trong
giai đoạn này, Tòa án phải tiến hành các công việc: Chuẩn bị mở phiên tòa sơ thẩm;
Tiến hành phiên tòa sơ thẩm; Thực hiện thủ tục sau phiên tòa sơ thẩm.
1.2.2. Đặc điểm của thủ tục xét xử sơ thẩm
Thủ tục xét xử sơ thẩm mặc dù có nhiều công đoạn khác nhau nhưng đều có
những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, là thủ tục cơ bản của luật tố tụng, được tiến hành theo một trình
15


tự, thủ tục nhất định, theo quy định của pháp luật, bao gồm các bước như: khởi

kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử sơ thẩm và phiên tòa sơ thẩm.
Thứ hai, xét về phương diện lý luận, thủ tục xét xử sơ thẩm là một dạng cụ
thể của thủ tục tư pháp, cho nên thủ tục xét xử sơ thẩm cũng được xác lập trên cơ sở
những nguyên tắc chung của của thủ tục tư pháp như: Nguyên tắc thẩm phán và hội
thẩm nhân dân độc lập; Nguyên tắc khi xét xử hội thẩm nhân dân ngang quyền với
thẩm phán; Nguyên tắc xét xử công khai; Các đương sự bình đẳng, được quyền tự
mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình…
Thứ ba, là thủ tục tố tụng đầu tiên giải quyết tranh chấp của các bên đương
sự nên phán quyết của tòa án trong bản án quyết định không phải là phán quyết cuối
cùng, đương sự vẫn có quyền kháng cáo. Viện kiểm sát vẫn có quyền kháng nghị
bản án quyết định theo thủ tục phúc thẩm. Trong trường hợp bản án quyết định sơ
thẩm có hiệu lực mà bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì vụ án có
thể bị xét xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
1.3. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục xét xử
sơ thẩm tại tòa án
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại theo thủ tục xét xử sơ thẩm
1.3.1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ
tục xét xử sơ thẩm tại tòa án
Trong lĩnh vực dân sự, khi các tranh chấp dân sự xảy ra, đương sự khởi
kiện và được tòa án thụ lý giải quyết thì được gọi là vụ án dân sự. Những tranh chấp
về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự; hôn nhân,
gia đình; KDTM và lao động được quy định tại điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS
2015 do cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện mà được tòa án thụ lý giải quyết được
gọi là vụ án dân sự, được điều chỉnh theo thủ tục tố tụng dân sự.
Như vậy, thủ tục giải quyết vụ án tranh chấp KDTM là một trong các thủ

16



tục của tố tụng dân sự. Theo đó, các tranh chấp về KDTM được quy định tại Điều 30,
BLTTDS 2015 được tòa án thụ lý giải quyết được gọi là các vụ án KDTM.
Trên cơ sở đó có thể hiểu, giải quyết tranh chấp KDTM theo thủ tục xét xử
sơ thẩm tại tòa án là thủ tục tố tụng dân sự xét xử cấp đầu tiên giải quyết vụ án tranh
chấp KDTM được tòa án có thẩm quyền áp dụng để giải quyết các tranh chấp
KDTM bao gồm: thủ tục khởi kiện và thụ lý, chuẩn bị xét xử sơ thẩm và xét xử sơ
thẩm vụ án KDTM.
1.3.1.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục
xét xử sơ thẩm
Bên cạnh những đặc điểm chung của thủ tục xét xử sơ thẩm thì khi giải
quyết các tranh chấp KDTM các thủ tục xét xử sơ thẩm tại tòa án còn mang những
đặc điểm riêng sau:
Một là, chủ thể khởi kiện vụ án KDTM chủ yếu là cá nhân, tổ chức được
các cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (trừ một số
trường hợp pháp luật có quy định khác). Căn cứ theo BLTTDS 2015, các chủ thể
khởi kiện ở đây được hiểu là các chủ thể được phép tham gia vào quan hệ pháp luật
dân sự theo quy định của pháp luật (gọi chung là người khởi kiện), đều có mục đích
chung là lợi nhuận, bao gồm hai loại là cá nhân và cơ quan, tổ chức.
Hai là, các tài liệu, chứng cứ phải nộp kèm theo đơn khởi kiện. Kèm theo đơn
khởi kiện, người khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm. Tuy nhiên, trong các vụ án KDTM do các chủ thể khởi
kiện chủ yếu là các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh nên khi nộp đơn khởi
kiện, người khởi kiện thường nộp kèm theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
Điều lệ hoạt động, các quyết định nhân sự... để chứng minh tư cách chủ thể của mình.
Ba là, về hình thức đơn khởi kiện. Tuân thủ đúng hình thức theo quy định
tại Điều 189 BLTTDS 2015. Đối với các vụ án KDTM cần lưu ý đến người đứng
tên trong đơn khởi kiện. Đương sự trong các tranh chấp KDTM thường là các chủ
thể kinh doanh như: công ty nhà nước (chưa chuyển đổi), công ty trách nhiệm hữu
17



hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã hoặc hộ kinh doanh. Dó đó,
người ký đơn khởi kiện vụ án KDTM là người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân, là chủ doanh nghiệp hay chủ hộ kinh doanh. Người đại diện theo pháp luật có
thể ủy quyền cho người khác ký đơn khởi kiện và tham gia tố tụng tại tòa án. Khi
đó, tòa án cần kiểm tra việc ủy quyền ký đơn khởi kiện và tham gia tố tụng đó có
đúng phạm vi ủy quyền và đúng quy định của pháp luật hay không. Ngoài ra, đương
sự là công ty thì đơn khởi kiện phải đóng dấu công ty ở cuối đơn.
Thứ tư, về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án KDTM. Xuất phát từ yêu cầu của
sản xuất kinh doanh nên thời hạn giải quyết các vụ án tranh chấp KDTM được pháp
luật quy định ngắn hơn thời hạn xử lý các vụ án dân sự khác.
Thứ năm, về án phí trong các vụ án KDTM thường có mức khởi điểm cao
hơn so với mức án phí của các vụ án dân sự khác (hôn nhân gia đình, lao động...).
Án phí dân sự là số tiền đương sự phải nộp cho nhà nước khi vụ án dân sự
được tòa án giải quyết. Án phí gồm có các loại: án phí hình sự sơ thẩm và phúc thẩm,
án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm. Đối
với việc giải quyết các vụ án tranh chấp KDTM không có trường hợp nào được miễn
phí và mức án phí phải nộp thường cao hơn mức khởi điểm của các vụ án dân sự khác.
Mức án phí hiện nay thực hiện theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14,
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành về án phí và lệ phí Tòa
án. Theo đó, án phí gồm 02 loại: Được áp dụng cố định mức tiền: Án phí hình sự,
hành chính, dân sự sơ thẩm không có giá ngạch, dân sự phúc thẩm hoặc tính theo %
giá trị tranh chấp hoặc tài sản tranh chấp. Đặc biệt, nếu giải quyết vụ án tranh chấp
KDTM theo thủ tục rút gọn thì mức án phí chỉ được tính bằng 50% so với bình
thường. Ngoài ra, mức tính tạm ứng án phí cũng được tính dựa theo giá tài sản.
Trong đó, giá tài sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định được ưu tiên đầu
tiên trong việc làm cơ sở để tạm thu án phí. (Xem thêm phụ lục 1)

18



×