Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tiểu luận môn Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế: Tài sản và quyền đối với tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.32 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
­­­­­ooo­­­­­

MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ
LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
Buổi thảo luận số ba: Tài sản và Quyền đối với tài sản

Lớp: Luật Hành chính K44A1
Giảng viên: Th.S Ngô Thị Anh Vân
Sinh viên thực hiện: Vũ Tuấn Anh
MSSV:1953801014015

1


MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2005
2. Bộ luật Dân sự 2015
3. Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí 
luật học số, 1/2009
4. Đỗ Thành Công, Vai trò của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề 
kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
5. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
6. Bộ luật tố tụng Dân sự 2015

2



Tóm tắt bản quyết định số 06/2017/QĐ­PT
Ngày 04/05/2017 Tòa án nhân dân huyện Duyên Khánh tỉnh Khánh hòa ra quyết  
định đình chỉ vụ án dân sự số 17/2017/QĐST­DS. Ngày 12/05/2017 Viện Kiểm sát 
nhân dân huyện Diên Khánh ra quyết định kháng nghị số 01/QĐKN­DS với lý do  
ông Hai có quyền khởi kiện vụ  án vì ông là người có quyền và nghĩa vụ  về  tài  
sản do bà Lương Thị  Xàm để  lại. Ngày 15/05/2017 ông Hai viết đơn kháng cáo  
quyết định đình chỉ. Ngày 11/07/2017 Tòa án ra quyết định số  06/2017/QĐ­PT 
tuyên bố  không chấp nhận kháng nghị  của viện kiểm sát nhân dân và ông Hai,  
sửa Quyết định đình chỉ  giải quyết vụ  án số  17/2017/QĐST­DS ngày 04/05/2017 
của Tòa án huyện Diên Khánh.
Tóm tắt bản án số 39/2018/DSST
Bà T và ông B có xảy ra tranh chấp về  chứng nhận quyền sử dụng đất của  
ông B, bà T đòi ông B trả 120.000.000 thì mới trả lại giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất cho ông B. Sau khi xem xét tình tiết và nội dung vụ án Tòa án ra quyết  
định số 39/2018/DSST tuyên bố chấp nhận yêu cầu của ông B buộc bà T trả  lại 
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B.
Tóm tắt bản án số 22/2017/HC­ST
Ngày 15/06/2017 ông Cường khởi kiện yêu cầu Tòa  án hủy quyết  định số 
714/QĐ­CCT ngày 12/05/2016 của chi cục trưởng chi cục  thuế  tỉnh Bến Tre.  
Ngày 21/09/2017 Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre ra quyết định số  22/2017/HC­ST  
tuyên bố  chấp nhận yêu cầu của ông Cường, hủy quyết định số  714/QĐ­CCT 
của chi cục trưởng chi cục thuế tỉnh Bến Tre.
Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 111/2013/DS­GĐT
Ngày 19/09/2004 nguyên đơn Nguyễn Thị Châu có đơn kiện yêu cầu bị đơn chị 
Nhữ Thị  Vân và những người khác có liên quan trả  lại căn nhà số  02 Hàng Bút.  

3


12/04/2005 Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm chấp nhận yêu cầu của nguyên  

đơn. Sau xét xử  sơ  thẩm chị Nhữ Thị Vân và Nguyễn Thị  Ngọc Lan kháng cáo. 
29/11/2005 tòa phúc thẩm toàn án nhân dân tối cao ra quyết định số 253/2005/DS­
PT tuyên bố  hủy bản án sơ  thẩm, giải quyết lại theo trình tự  sơ  thẩm và chấp 
nhận yêu cầu của nguyên đơn. Sau khi phúc thẩm thì anh Nguyễn Hồng Sơn, chị 
Dương Thị  Ngọc Lan và chị  Nhữ  Thị  Vân kháng cáo. Ngày 30/05/2011 Tòa án 
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Hà Nội ra quyết định số 90/2011/DS­PT tuyên  
bố  chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc chị  Nhữ  Thị  Vân, vợ  chồng anh 
Nguyễn Hồng Sơn, chị  Dương Thị  Ngọc phải trả lại toàn bộ  tầng 1 nhà số  02  
Hàng Bút, phía nguyên đơn và anh Nguyễn Thanh Lâm có trách nhiệm bồi thường 
cho vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn, chị Dương Thị Ngọc Lan 25.000.000. Sau  
khi phúc thẩm anh Nguyễn Hồng Sơn, chị Dương Thị Ngọc Lan và chị Nhữ Thị 
Vân có đơn đề  nghị  giám đốc thẩm. Ngày 25/05/2012 Tòa án nhân dân tối cao  
kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số  90/2011/DSPT ngày 30/05/2011 của Tòa 
án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đề  nghị  hội đồng thẩm phán 
toàn án nhân dân tối cao giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và  
bản án dân sự  sơ  thẩm số 49/2010/DS­ST ngày 31/08/2010 của Tòa án nhân dân 
thành phố Hà Nội, giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội sơ thẩm lại. Ngày 
09/09/2013 Tòa án nhân dân tối cao tại hà nội ra quyết đinh số 111/2013/DS­GĐT  
tuyên bố  hủy toàn bộ  bản án phúc thẩm số  90/2011/DSPT ngày 30/05/2011 của 
tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao Hà Nội và hủy toàn bộ bản án dân sự 
sơ  thẩm số  49/2010/DS­ST ngày 31/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố  Hà 
Nội. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại.

4


Phần I: KHÁI NIỆM TÀI SẢN
Câu 1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ 
minh họa về một vài giấy tờ có giá.
Theo khoản 8 Điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010; Khoản 1 Điều 

3 Thông tư  04/2016/TT­NHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư  01/2012/TT­NHNN 
quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức  
phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất  
định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
Một số loại giấy tờ có giá:
­ Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ  chuyển nhượng khác 
được quy định tại Điều 1 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005;
­ Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định 
tại điểm c, khoản 1, Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;
­ Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và các công cụ  khác làm phát sinh  
nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16, Điều 3 Luật Quản lý nợ công 2009;
­ Các loại chứng khoán (Cổ  phiếu, trái phiếu, chứng chỉ  quỹ; Quyền mua cổ 
phần,   chứng  quyền,   quyền  chọn  mua,   quyền  chọn  bán,   hợp  đồng  tương  lai,  
nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; Các loại 
chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại điểm 3 Luật Sửa 
đổi, bổ sung một số Điều của Luật Chứng khoán năm 2010;
­ Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị  định số 
90/2011/NĐ­CP của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Câu 2: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử  dụng đất, giấy  
chứng nhận sở  hữu nhà” có là giấy tờ  có giá không? Quyết định số  06 và 
bản án số 39 có cho câu trả lời không?

5


Trong thực tiễn xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận  
sở  hữu nhà” không phải là giấy tờ  có giá. Nếu cần phải xem xét thì đó chỉ  đơn 
thuần được coi là một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.1
Quyết định số 06 cho ta câu trả  lời trong đoạn sau: “Căn cứ  khoản 16 Điều 3 
Luật đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà  

ở  và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư  pháp lý để  Nhà nước xác nhận  
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp  
của người có quyền sử dụng đất, quyền sở  hữu nhà ở  và quyền sở  hữu tài sản  
khác gắn liền với đất.”. Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn  
bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không 
phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”.2
Trong bản án số 39 có đoạn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư 
pháp lý để  nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở  hữu nhà ở, tài sản  
khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, …”3. Như vậy 
trong bản án số  39 cho ta câu trả  lời giấy chứng nhận quyền sử  dụng chỉ  là 
chứng thư.
Câu 3: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy  
chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết đinh trên và bản án số 
39 có câu trả lời không? Vì sao?

1 Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí luật học số, 1/2009

2 Quyết định số 06/2017/QĐ­PT về “Giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ vụ án” 
của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa

3 Bản án số 39/2018/DSST về “Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng” của toàn án nhân dân huyện 
Long Hồ ­ Tỉnh Vĩnh Long

6


Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử  dụng  đất, giấy chứng 
nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản.
Trong bản án số 06 có ghi nhận: “…Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ 
là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, 

không phải là tài sản, và không thể  xem là loại giấy tờ  có giá. Do đó việc ông  
Phạm Văn Hai khởi kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả  lại giấy chứng nhận  
quyền sử dụng đất không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”.
 Trong bản án số 39 có đoạn: “Hội đồng xét xử thấy rằng Bộ luật tố tụng dân  
sự không quy định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp này”.
Sở  dĩ việc tranh chấp về  giấy chứng nhận quyền sử  dụng đất không thuộc 
thẩm quyền của Tòa án vì theo công văn 141/TANDTC­KHXX các giấy chứng 
nhận quyền sở  hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng  
nhận quyền sở  hữu nhà  ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô 
tô…) không phải là “giấy tờ  có giá” quy định tại Điều 163 của Bộ luật Dân Sự 
năm 2005; do đó, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại  
các giấy tờ  này thì Tòa án không thụ  lý giải quyết. Như  vậy, giấy chứng nhận  
quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá thậm chí không được xem là tài 
sản, do vậy không thể áp dụng biện pháp kiện đòi về dân sự.4
Câu 4: Suy nghĩ của anh/ chị  về  hướng giải quyết trong quyết định số  06 
liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử  dụng đất, giấy chứng nhận sở 
hữu nhà” nhìn từ  khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm 
với pháp luật nước ngoài);
Trong quyết định số 06, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa nên chấp nhận kháng 
nghị  01/QĐKN/VKS­DS của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh 
4 Đỗ Thành Công, Vai trò của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện đòi giấy chứng 
nhận quyền sử dụng đất.

7


Khánh Hòa, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Hai không đình chỉ 
giải quyết vụ án vì:
­ Căn cứ theo Khoản 2 Điều 14 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Tòa án không  
được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có Điều luật để  áp dụng;  

trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ  luật này được áp  
dụng”.
­ Căn cứ theo Khoản 2 Điều 4 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 quy định: “Tòa án  
không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự  vì lý do chưa có Điều luật để  áp 
dụng; Vụ  việc dân sự  chưa có Điều luật để  áp dụng là vụ  việc dân sự  thuộc 
phạm vi Điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó 
phát sinh và cơ  quan, tổ  chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có Điều 
luật để  áp dụng; Việc giải quyết vụ việc dân sự  quy định tại khoản này được  
thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật Dân Sự và Bộ luật này quy định”.
Câu 5: Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 
giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
Nếu áp dụng Bộ luật Dân Sự 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy 
chứng nhận sở  hữu nhà có là tài sản bởi theo Điều 105: “Tài sản là vật, tiền,  
giấy tờ  có giá và quyền tài sản.”. Việc xem hai loại giấy tờ  này là vật là hoàn 
toàn hợp lý vì tồn tại dưới hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình dạng 
cụ thể (là tờ  giấy), nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể  thực  
hiện việc chiếm giữ, nắm giữ, quản lý), có giá trị sử dụng (được dùng để chứng 
minh quyền sử  dụng, sở  hữu đất hoặc nhà hợp pháp của người sử  dụng đất  
hoặc nhà).5

5 Đỗ  Thành Công, Vai trò của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề  kiện đòi giấy chứng  
nhận quyền sử dụng đất.

8


Câu 6: Suy nghĩ của anh/ chị  về  hướng giải quyết trong bản án số  39 liên 
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu  
nhà”.
Trong bản án số 39, hướng giải quyết của toàn án là hợp lý bởi:

­ Tuy Bộ luật tố tụng dân sự không quy định rõ thẩm quyền giải quyết trong  
việc tranh chấp giấy chứng nhận sử  dụng  đất, nhưng về  nguyên tắc toàn án 
không được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lý do chưa có Điều lệ để áp dụng  
theo khoản 2 Điều 4; khoản 2 Điều 14 Bộ luật tố tụng dân sự.
­ Trong thực tế xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem  
là giấy tờ  có giá và cũng không được xem là tài sản cho nên không được phép 
giao dịch trao đổi. Việc bà T khai con ông B có thế  chấp cho bà để  vay tiền mà  
không thể chứng minh được và không có chứng cứ xác thực vì vậy việc bà lấy  
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B và đòi ông B trả bà 120.000.000  
thì bà mới trả giấy chứng nhận quyên sử dụng đất là không có căn cứ.
Câu 7: Bitcoin là gì?
Bitcoin (ký hiệu: BTC, XBT) là một loại tiền mã hóa, được phát minh dưới  
dạng phần mềm mã nguồn mở từ  năm 2009. Bitcoin có thể  được trao đổi trực 
tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không cần thông qua một  tổ chức tài chính 
trung gian nào.
Bitcoin là loại tiền mã hoá điển hình nhất, ra đời đầu tiên, và được sử  dụng  
rộng rãi nhất trong thương mại điện tử. Các doanh nghiệp có xu hướng muốn 
thanh toán bằng Bitcoin để giảm thiểu chi phí. Đến tháng 7 năm 2018, lượng tiền 
cơ sở của Bitcoin được định giá hơn 109 tỷ đô la Mỹ ­ là loại tiền mã hóa có giá 
trị thị trường lớn nhất. Những biến động lớn trong giá trị của mỗi bitcoin đã tạo 
nên những tranh cãi về tính phù hợp kinh tế của Bitcoin như là một loại tiền tệ.

9


Câu 8: Theo Tòa án, Bitcoin có phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam  
không?
Theo Tòa án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam vì Ngân 
hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh  
toán hợp pháp, đồng thời Nghị định số 96/2014/NĐ­CP ngày 17/10/2014 của Chính 

phủ quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi phát hành, cung 
ứng và sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp như  Bitcoin và các loại 
tiền ảo tương tự. Bên cạnh đó, theo Điều 4, Nghị định số  101/2012/NĐ­CP ngày  
22/11/2012   (được   sửa   đổi,   bổ   sung   theo   Nghị   định   số   80/2016/NĐ­CP   ngày 
01/7/2016) đã có quy định rất rõ các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt,  
trong đó không có loại phương tiện tương tự như Bitcoin, cụ thể: "Phương tiện  
thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là 
phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi,  ủy nhiệm chi, nhờ  thu,  ủy  
nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của  
Ngân hàng Nhà nước”. Đồng thời, các quy định của Nghị  định 101/2012/NĐ­CP 
cũng cấm sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp tại Việt Nam.
Câu 9: Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không, nếu có nêu pháp  
luật mà anh/ chị biết.
Nước đầu tiên hoàn toàn chấp nhận Bitcoin đó là Nhật Bản. Bắt đầu từ ngày 
1/4/2017, Bitcoin được coi là tài sản và là một phương thức thanh toán hợp pháp,  
được quản lý bởi Cơ  quan Dịch vụ  Tài Chính Nhật Bản (JFSA). Điều 5 Luật 
Tiền  ảo Nhật Bản năm 2017 thì tiền  ảo được hiểu dưới hai góc độ: “(i) Giá trị 
giống như tài sản, được ghi lại bởi các cách thức điện tử  trong các phương tiện 
điện tử, không bao gồm bất kỳ  loại tiền tệ  nào được cho phép của Nhật Bản  
hoặc các quốc gia khác, và các tài sản được xác định là các đơn vị  tiền tệ  đó, 
được sử dụng để thanh toán giá trị  hàng hóa khi mua bán, thuê hoặc các dịch vụ 
khác cho một hoặc nhiều đối tượng không cụ thể (gọi là Tiền ảo loại I); (ii) Giá  

10


trị  giống như  tài sản được dùng để  trao đổi đối với một hoặc nhiều chủ  thể 
không xác định với các giá trị tài sản đưa ra ở đoạn (i) nêu ở trên và có thể được 
chuyển giao thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử (gọi là tiền ảo loại II)”.6
Câu 10: Suy nghĩ của anh/ chị  về  quan điểm của toàn án đối với Bitcoin 

trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
Việc Tòa án Việt Nam xem Bitcoin không phải là tài sản là phù hợp với pháp  
luật hiện hành theo khái niệm về tài sản bởi Bitcoin không thể  được coi là một  
vật khi con người không thể cầm nắm, và không có một phương tiện nhất định  
nào để  quản lý, Bitcoin cũng không được Ngân Hàng Nhà Nước coi là một loại  
công cụ  tiền tệ  hay hàng hóa để  trao đổi. Với cơ  chế  hoạt động không có sự 
kiểm soát, Bitcoin nằm ngoài thẩm quyền quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Vì 
thế  những giao dịch ngầm chúng ta khó kiểm soát được cho những hoạt động  
của tội phạm rửa tiền, trốn thuế, chuyển tiền bất hợp pháp, thanh toán, tài trợ 
chủ quyền quốc gia về phát hành tiền tệ  sẽ bị xâm phạm, ảnh hưởng đến hiệu  
quả Điều hành chính sách tiền tệ. 
Câu 11: Quyền tài sản là gì?
Căn cứ theo Điều 115, Bộ luật Dân Sự 2015 quyền tài sản: “ Quyền tài sản là  
quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở  
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”
Câu 12: Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài  
sản là quyền tài sản không?
Hiện nay chưa có quy định cụ  thể  nào khẳng định rõ quyền thuê, quyền mua  
tài sản là quyền tài sản tuy nhiên Bộ  luật Dân Sự  2015 đưa ra đặc điểm của  
6  />Truy cập ngày 14/03/2020

11


“quyền tài sản” là “quyền trị  giá được bằng tiền” việc này đồng nghĩa với bất 
cứ quyền nào đem lại lợi ích kinh tế thì quyền đó là quyền tài sản.
Câu 11: Đoạn nào của quyết định số  05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao  
theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Trong quyết định số  05 của Tòa án nhân dân tối cao có ghi nhận quyền thuê,  
quyền mua là tài sản tại phần nhận định của Tòa án: “Theo quy định tại Điều 188 

và Điều 634 Bộ  luật Dân Sự  1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ  T là 
quyền tài sản (trị giá đươc bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của 
cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà 
của cụ T”.7
Câu 12: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối  
cao trong quyết định số 05 về  quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ 
với khái niệm tài sản)
Việc Tòa án nhận định quyền thuê, quyền mua là tài sản là hợp lý bởi trong 
theo Điều 163 Bộ luật Dân Sự 2005 “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền  
tài sản.”. Quyền thuê, quyền mua là quyền trị  giá được bằng tiền nên là quyền  
tài sản theo Điều 181 Bộ luật Dân Sự 2005 “Quyền tài sản là quyền trị giá được  
bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự”

7 Quyết định số 05/2018/DS­GĐT ngày 10­4­2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

12


PHẦN II: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Câu 1: Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình 
chị  Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy  
nghĩ của anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong quyết định số  111/2013/DS­GĐT ngày 09 tháng 09 năm 2013 về  vụ  án  
đòi nhà có đoạn khẳng định chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 
năm: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị 
Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà  
cho ông Chính (con cụ  Hảo), nhưng cụ  Hảo vào miền Nam sinh sống từ  năm 
1954, ông Chính không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính  
quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị  ở  tại căn nhà số  2 Hàng 
Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị  ở, sau này là bố  chị Vân và chị Vân tiếp 

tục ở”.
Khẳng định trên của Tòa án là không hợp lý vì chị Vân ở từ năm 1954, tính đến 
thời điểm bán cũng trên 30 năm, bên phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với chị 
Vân từ  sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ  có biên bản hòa 
giải tại ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001), nhà này là nhà của cụ Hảo  
có trên giấy tờ  lưu giữ, nếu không có văn bản nào của cơ  quan nhà nước thì 
không thể gọi là nhà có đất tranh chấp được.
Câu 2: Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình 
chị  Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho  
biết suy nghĩ của anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu  
ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân tại nhà 
số  2 Hàng Bút đã nhiều thế  hệ, tuy chị  Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị 
thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ 

13


Hảo vào miền Nam sinh sống từ  năm 1954, ông Chính cũng không xuất trình  
được tài liệu cụ Hảo  ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà. Trong khi đó chị 
Vân khai gia đình chị  Vân  ở  tại nhà số  2 Hàng Bút từ  năm 1954, lúc đầu là ông 
nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía nguyên đơn  
khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu 
chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Uỷ ban nhân dân phường Hàng Bồ năm  
2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả 
nhà là không có căn cứ  vì thực tế  cụ  Hảo không còn là chủ  sở  hữu nhà đất nêu  
trên. Gia đình chị  Vân đã  ở  tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình,  
liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ  luật Dân Sự  về  xác  
lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “ Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản  
không có căn cứ  pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn  

mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ  
sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định  
tại khoản 2 Điều này...”.”
Tòa án nhận định như thế là chưa thỏa đáng, bởi vì căn nhà số 02 Hàng Bút là  
gia đình cụ Hảo cho thuê, cụ Hảo vẫn là chủ sở hữu, cụ ủy quyền cho ông Chính  
quản lý ngồi nhà chứ  không từ  bỏ  quyền sở  hữu căn nhà, chị  Vân vốn biết căn 
nhà của gia đình chị đang sinh sống được thuê từ ông Chính nên không thể khẳng  
định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm 
theo Điều 189 Bộ luật Dân Sự 2005: “Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ  
pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể  biết  
việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.”.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình 
chị  Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho  
biết suy nghĩ của anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?

14


Trong quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu  
liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân tại nhà 
số  2 Hàng Bút đã nhiều thế  hệ, tuy chị  Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị 
thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ 
Hảo vào miền Nam sinh sống từ  năm 1954, ông Chính cũng không xuất trình  
được tài liệu cụ Hảo  ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà. Trong khi đó chị 
Vân khai gia đình chị  Vân  ở  tại nhà số  2 Hàng Bút từ  năm 1954, lúc đầu là ông 
nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.”
Khẳng định của Tòa án là hợp lí bởi thời điểm cho thuê là từ năm 1954 thì đến  
thời điểm năm 2004 khi cụ Hảo khởi kiện ra Tòa án cũng đã quá 30 năm. Cùng 
với việc gia đình cụ Hảo không có tài liệu chứng minh có đòi nhà đối với chị Vân 
từ  sau năm 1975 nên việc chiếm hữu liên tục trên 30 năm của chị  Vân đối với 

ngôi nhà là thỏa đáng theo Điều 190 Bộ  luật Dân Sự 2005: “ Việc chiếm hữu tài  
sản được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về  tài  
sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm  
hữu.”
Câu 4: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình 
chị  Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho  
biết suy nghĩ của anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?
   Trong Quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị  Vân đã chiếm  
hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Sau khi ông nội chết (1995) 
thì gia đình chị  không đóng tiền thuê nhà cho ông chính nữa, Sau đó bố  chị (ông 
Nhữ  Duy Sơn) và chị  tiếp tục quản lý. Năm 1997 bố  chị  chết thì chị  tiếp tục  ở 
tại nhà số 2 (hàng bút tầng 1), chị không trả tiền thuê nhà cho ai.”
Quyết định của Tòa án là hợp lí. Vì theo Điều 191 Bộ luật Dân Sự 2005 “Việc  
chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách minh  
bạch, không giấu diếm; tài sản đang chiếm hữu được sử  dụng theo tính năng,  

15


công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như  tài sản của mình”. 
Có thể thấy trong khoảng thời gian gia đình chị  Vân chiếm hữu căn nhà, bố  chị 
Vân có nâng cao nền nhà, thay cửa, giữ  gìn như  tài sản của mình và sinh hoạt, 
sống trong căn nhà đó liên tục, công khai trong 30 năm.
Câu 5: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ  Hảo 
không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/ 
chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ  Hảo không còn là 
chủ  sở  hữu nhà đất có tranh chấp là: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà 
đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ 
có biên bản hòa giải tịa  Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001 ); đến năm 

2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có  
căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên”
Quyết định trên của tóa án là không thỏa đáng bởi Nhà số  2, Hàng bút, quận  
Hoàn Kiếm, Hà Nội có bằng điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ Hà  
Nội ngày 04/11/1946, là tài sản riêng của cụ Dư Thị Hảo. Dù cụ Hảo đã vào nam  
sinh sống nhưng cụ  không từ  bỏ  quyền sở  hữu của căn nhà, tới năm 2007 cụ 
Hảo qua đời thì di chúc mới có hiệu lực.
Câu 6: Theo anh/ chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền ở hữu đối với  
nhà   đất   có   tranh   chấp  trên  cơ   sở   quy   định   về   thời   hiệu   hưởng   quyền  
không? Vì sao?
Gia đình chị  Vân không được xác lập quyền sở  hữu đối với nhà đất có tranh  
chấp trên cơ  sở  quy định về  thời hiệu hưởng quyền vì: Cụ  Hảo là chủ  sở  hữu 
căn nhà, khi cụ chết thì căn nhà thuộc về người thừa kế theo di chúc chứ căn nhà  
không phải là nhà vắng chủ, gia đình chị Vân cũng không thỏa mãn khoản 1 Điều 
247 Bộ luật Dân Sự 2015 “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có  

16


căn cứ  pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm  
đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài  
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2  
Điều này.” khi gia đình chị chiếm hữu liên tục công khai nhưng không ngay tình 
nên không thể áp dụng quy định về thời hiệu hưởng quyền.

17


PHẦN III: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN
Câu 1: Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ 

sở pháp lý khi trả lời.
Chủ sở hữu phải chịu rủi ro đối với tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường 
hợp có thỏa thuận khác hoặc BLDS 2015, luật khác có liên quan quy định khác, 
Điều này được quy định rõ  ở  khoản 1 Điều 162 Bộ  luật Dân Sự  2015 “Chủ  sở 
hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ  trường hợp có thỏa  
thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Câu 2: Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý  
khi trả lời.
Tại thời điểm cháy chợ bà Dung là chủ sở hữu của số xoài. Căn cứ theo khoản  
1 Điều 161 Bộ  luật Dân Sự 2015 quy định về  thời điểm xác lập quyền sở  hữu,  
quyền khác đối với tài sản: “Thời điểm xác lập quyền sở  hữu, quyền khác đối  
với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ  luật này, luật khác có liên quan;  
trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên;  
trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác  
lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển  
giao. Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người  
đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.” Và trong tình huống nêu ra không 
có việc thỏa thuận giữa bà Dung và bà Thủy về thời điểm xác lập quyền sở hữu 
khi thực hiện giao dịch mua bán, nên thời điểm xác lập quyền sở hữu về số xoài  
đó sẽ  được tính từ  khi thời điểm bà Thủy chuyển giao số  xoài đó cho bà Dung 
hay nói cách khác là bà Dung nhận số xoài đó, mà thời điểm cháy chợ là sau khi 
bà Dung nhận số xoài đó. 
Câu 3: Bà  Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? 
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

18


Căn cứ  vào khoản 1 Điều 441  Bộ  luật Dân Sự  2015 quy định về  thời điểm 
chịu rủi ro thì “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao  

cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể  từ  thời điểm nhận tài sản,  
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác” tức việc xác định 
người chịu rủi ro về tài sản căn cứ  vào thời điểm trước hay sau khi người mua 
giao cho người bán. Cụ  thể  trong tình huống này thì thời điểm vụ  cháy (rủi ro)  
xảy ra là sau khi bà Dung (người mua) đã nhận ghe xoài từ bà Thủy (người bán) 
nên người phải chịu rủi ro đối với ghe xoài  ở  đây là bà Dung. Và vì bà Dung là 
người phải chịu rủi ro với tài sản nên bà Dung phải có nghĩa vụ  thanh toán tiền  
mua ghe xoài trên cho bà Thủy.

19



×