Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Xu thế biến động nhiệt độ bề mặt nước biển vùng biển Tây Nam Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 4 trang )

Nguyễn Thùy Linh1

Tóm tắt

Trên cơ sở tổng hợp và phân tích số liệu 15
năm (2002 – 2017) về trường nhiệt độ mặt nước
biển đã xây dựng các bản đồ về trường nhiệt độ
mặt biển vùng biển Tây Nam của Việt nam. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, nhiệt độ bề mặt nước
biển có sự biến động theo thời gian (Có sự khác
biệt giữa mùa gió Đông Bắc và mùa gió Tây Nam)
và biến động theo không gian (Nhiệt độ tăng dần
từ phía Đông Nam lên Tây Bắc, từ vùng bờ ra
khơi). So với mùa gió Đông bắc, nhiệt độ bề mặt
nước biển trung bình mùa gió Tây nam ở vùng
biển Tây Nam Việt Nam cao hơn từ 1 - 30C.
Từ khóa: Nhiệt độ bề mặt biển; Nhiệt độ bề
mặt biển; Vùng biển Tây Nam, SST

I. Đặt vấn đề

Nhiệt độ bề mặt biển (Sea Surface Temperature - SST) đóng một vai trò rất quan trọng đối
với hệ thống dòng chảy đại dương và các quá
trình tương tác biển - khí quyển, là một biến
quan trọng trong hầu hết các mô hình dự báo
thời tiết, bão, dòng chảy, và biến đổi khí hậu...
Trên thế giới có khá nhiều công trình nghiên cứu
1

Trường ĐH Tài nguyên và Môi trường Hà Nội


22

về SST. Mặc dù ở nước ta cũng có một số tác giả
nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên, nhưng cho đến nay việc nghiên cứu
biến động trường nhiệt bề mặt biển ở Việt Nam
nói chung và vùng biển Tây Nam nói riêng vẫn
còn hạn chế.


II. Nguồn dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

1. Nguồn dữ liệu
Dữ liệu đo đạc thực địa là nguồn số liệu bao
gồm 32 điểm đo được thực hiện vào tháng 3, 4 và
11 năm 2017 bằng thiết bị đo các thông số hoá lý
tại hiện trường AAQ1183s-IF. Nguồn số liệu này
được đo đạc theo 3 mặt cắt Rạch Giá - Phú Quốc,
Phú Quốc - Thổ Chu và Thổ Chu - Cà Mau.
Bộ dữ liệu độ phân giải cao đa tỉ lệ phiên bản
4 (MUR) L4 được phân tích dựa trên các quan.trắc
nhiệt độ bề mặt biển từ một số thiết bị bao gồm
AMSRE (Advanced Microwave Scanning Radiometer-EOS) của NASA, MODIS (Moderate Resolution Imaging Spectroradiometer) trên vệ tinh
Aqua và Terra của NASA, thiết bị vi sóng trên vệ
tinh WindSat của Hải quân Hoa Kỳ,.AVHRR (Advanced Very High Resolution Radiometer) trên
một.số vệ tinh NOAA, và các quan sát SST ngoài
thực địa từ dự án iQuam. của NOAA…
Tập dữ liệu này được tài trợ bởi chương trình
MEaSUREs của NASA ( />our-community/community-data-system-programs/measures-projects)
2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp xác định nhiệt độ bề mặt biển từ
số liệu đo cao vệ tinh:
Nhiệt độ bề mặt biển là một điều kiện khí hậu
và thời tiết quan trọng được đo bởi máy đo sóng
vô tuyến vi sóng vệ tinh, hồng ngoại, các phao nổi,
và các tàu. Các nhiệt độ bề mặt biển tối ưu nội
suy bằng vi điện tử (OI) được thiết kế để đại diện
cho nhiệt độ bề mặt biển nền tại độ sâu khoảng 1
mét, hoặc nhiệt độ ngay dưới lớp ngày đêm.
Phương pháp trung bình thống kê:

(1)
Trong đó:
là giá trị nhiệt độ bề mặt biển
trung bình (theo tháng, mùa, năm và nhiều năm);
SSTi: là các giá trị nhiệt độ bề mặt biển trung bình
của từng ngày trong tháng, từng tháng trong một
mùa, từng tháng trong một năm; n: là số lượng
các ngày trong tháng, các tháng trong một mùa,
các tháng trong một năm.
Phương pháp phân tích xu thế biến động nhiệt
độ bề mặt nước biển:
Mối quan hệ giữa yếu tố nhiệt độ bề mặt biển
và thời gian được xác định dưới dạng phương
trình tuyến tính: y=ax+b
(2)
Để tính xu thế biến động nhiệt độ bề mặt biển

của một mùa theo một khoảng thời gian, thì theo
phương trình trên, y đại diện cho giá trị SST trung

bình một mùa tại một điểm lưới trong một năm, x
là năm tương ứng, a và b là các hệ số hồi quy.

III. Kết quả nghiên cứu

Trên cở sở các kết quả số liệu đặc trưng của
nhiệt độ bề mặt biển, các file SST trung bình theo
mùa được export sang ARCVIEW để chia khoảng
nhiệt độ thích hợp ở dạng raster và sau đó vector hóa bằng phần mềm MAPINFO để biên tập
thành bản đồ nhiệt độ mặt nước biển cho từng
mùa gió. Để xây dựng bản đồ biến thiên nhiệt độ
nước biển tầng mặt khu vực nghiên cứu giữa hai
mùa gió đông bắc và tây nam, trước tiên các bản
đồ nhiệt độ nước trung bình cho từng mùa gió
được tính toán xây dựng theo công thức (1) dựa
trên chuỗi dữ liệu 15 năm trong giai đoạn 2002 2017. Các bản đồ kết quả về nền nhiệt độ trung
bình theo mùa gió được thể hiện thành các đường
đẳng nhiệt với khoảng cao đều là 0.20C (hình 1
và hình 2).

Hình 1. Bản đồ nhiệt độ bề mặt biển trung bình
mùa gió Đông bắc nhiều năm (giai đoạn từ năm 2002
đến 2017)
23


Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Trên Biển Đông luôn tồn tại một lưỡi nước lạnh
có cường độ mạnh đi qua eo Luzon, Đài Loan theo
phía tây Biển Đông tới tận thềm lục địa Sunda và

ảnh hưởng đến quy luật phân bố nhiệt ở vùng
nghiên cứu, khiến cho nền nhiệt tại khu vực này
bị ảnh hưởng đáng kể, cụ thể:
Tại khu vực phía tây và tây bắc nhiệt độ tương
đối ổn định và đồng nhất, nền nhiệt dao động từ
28.20C – 28.40C. Nguyên nhân là do khu vực này
nằm sâu trong vịnh Thái Lan, ít bị ảnh hưởng
bởi gió mùa đông bắc và dòng nước lạnh từ biển
Đông chảy vào, bề mặt biển ít bị xáo trộn, do đó
sự thay đổi về nhiệt độ gần như không thay đổi
trong mùa này.
Khu vực phía nam mũi Cà Mau có nhiệt độ
thấp nhất là 26.40C (chênh lệch cao hơn 20C so
với khu vực trung tâm của vịnh Thái Lan). Do
khu vực này nằm trọn trong vùng ảnh hưởng của
lưỡi nước lạnh từ biển Đông đi vào và ảnh hưởng
bởi cường độ gió mùa Đông bắc làm nền nhiệt bề
mặt giảm mạnh.
Nhiệt độ khu vực ven bờ Cà Mau - Kiên Giang
thấp, dao động từ 27 – 27.80C và tăng dần từ bờ
ra khơi. Do vùng ven bờ từ Cà Mau đến Kiên Giang bị ảnh hưởng yếu bởi lưỡi nước lạnh từ biển
Đông chảy vào lên đến tận Kiên Lương, nên nền
nhiệt ở đây cao hơn phía nam mũi Cà Mau (từ
0.4 – 1.40C) và thấp hơn khu vực trung tâm (từ
0.6 – 1.20C) nơi có nền nhiệt độ bề mặt biển ổn
định và ít biến đổi.
Khu vực đảo Phú Quốc và Thổ Chu nền nhiệt
dao động trong khoảng 280C – 28.40C. Tại đây,
nhiệt độ khá ổn định và ít thay đổi do không bị
ảnh hưởng bởi lưỡi nước lạnh từ biển Đông và gió

mùa đông bắc.
Nhìn chung nhiệt độ mặt nước biển trong mùa
gió Đông bắc đặc trưng cho các tháng từ tháng
12 năm trước đến tháng 2 năm sau, phân bố khá
rõ theo quy luật: Nhiệt độ có xu hướng tăng dần
từ phía đông nam lên phía tây bắc, với khoảng
nhiệt dao động từ 26.40C - 28.40C và tăng dần
đều từ bờ ra khơi, ổn định ở khu vực trung tâm
(phía tây và tây bắc của vùng).
Nhiệt độ trung bình bề mặt nước biển mùa gió
Tây nam (giai đoạn 2002-2017)
Hình 2. Bản đồ nhiệt độ bề mặt biển trung bình
mùa gió Tây nam nhiều năm (giai đoạn từ năm 2002
đến 2017)
24

Khác với mùa gió đông bắc, mùa gió tây nam
khu vực nghiên cứu không bị ảnh hưởng bởi lưỡi
nước lạnh có cường độ mạnh đi qua eo Luzon,
Đài Loan theo phía tây Biển Đông tới tận thềm
lục địa Sunda.
Gió mùaTây nam đặc trưng cho các tháng từ
tháng 6 đến tháng 8 trong năm và chi phối toàn
bộ khu vực nghiên cứu, do đó nền nhiệt về mùa
này chịu sự ảnh hưởng rõ rệt bởi gió mùa Tây
nam, cụ thể:
Quy luật phân bố nhiệt độ mặt nước biển có xu
hướng thay đổi theo không gian (càng xa bờ nhiệt
độ càng tăng) với sự chênh lệch nhiệt độ nhỏ
(khoảng nhiệt độ dao động từ 29.40C đến 300C).

Vào mùa hè, do ảnh hưởng của gió mùa Tây nam
và bức xạ Mặt trời rất lớn, chi phối tới toàn bộ khu
vực nghiên cứu, khiến cho lớp nước mặt bị xáo
trộn mạnh, nền nhiệt tăng cao (cao hơn từ 1 – 30C
so với mùa gió Đông bắc) và gần như đồng nhất
(cực đại ≈ 300C).
Tại khu vực ven bờ Cà Mau - Kiên Giang do
ảnh hưởng của lưu lượng nước từ các cửa sông đổ
ra nên nền nhiệt giảm hơn (khoảng 29.40C).
Khu vực trung tâm và ngoài khơi vịnh Thái
Lan, nhiệt độ khá đồng nhất mặc dù chịu sự ảnh
hưởng của gió mùa tây nam nhưng không bị ảnh
hưởng bởi nguồn nước từ lục địa đổ ra, dao động
trong khoảng 29.6 – 300C.
Nhiệt độ mặt biển khu vực xung quanh đảo
Phú Quốc tương đương với khu vực ven bờ (xấp
xỉ 29.4 – 29.60C).
Nhìn chung nhiệt độ mặt nước biển trong mùa


gió Tây nam đặc trưng cho các tháng từ tháng 6
năm đến tháng 8 trong năm, quy luật phân bố
nhiệt độ có xu thế tăng nhẹ từ bờ ra khơi, chênh
lệch nhiệt độ nhỏ, khoảng nhiệt độ dao động từ
29.40C đến 300C. Vào mùa hè lưỡi nước lạnh xâm
nhập với cường độ yếu, nên ít ảnh hưởng đến
phân bố nhiệt độ tại đây.

IV. Kết luận


Trên cơ sở tổng hợp và phân tích số liệu 15
năm (2002 – 2017) về trường nhiệt độ mặt nước
biển và xây dựng các bản đồ về trường nhiệt độ
mặt biển, có thể rút ra một số kết luận:
1. Vào mùa gió Đông bắc, sự phân bố nhiệt độ
bề mặt nước biển trung bình nhiều năm ở vùng
biển Tây Nam Việt Nam tuân theo quy luật nhiệt
độ tăng dần từ phía Đông nam lên Tây bắc, từ
vùng bờ ra khơi với khoảng dao động nhiệt độ
trung bình từ 26,4 - 28,40C. Trong khi đó, ở khu
vực trung tâm vùng nghiên cứu, nhiệt độ tương
đối ổn định.
Vào mùa gió Tây nam, nhiệt độ bề mặt nước
biển trung bình nhiều năm cũng có xu hướng
tăng từ vùng bờ ra khơi, nhưng biên độ dao động
thấp (29,4 - 300C).
2. So với mùa gió Đông bắc, nhiệt độ bề mặt
nước biển trung bình mùa gió Tây nam ở vùng
biển Tây Nam Việt Nam cao hơn từ 1 – 30C.

Tài liệu tham khảo

1. Trần Văn Chung, Bùi Hồng Long (2015).
“Ảnh hưởng của trường nhiệt độ và biến đổi bất
thường của mực nước trong Biển Đông liên quan
đến biến đổi khí hậu”. Tạp chí Khoa học và Công
nghệ Biển, 255 - 266.
2. Nguyễn Tứ Dần, Trần Anh Tuấn, Trịnh Hoà
Thu và nnk (2002). Xác định phạm vi hoạt động
của nước trồi vùng biển Nam Việt Nam. Đề tài

cấp cơ sở, Phân viện Hải dương học tại Hà Nội,
Hà Nội.
3. Phan Văn Hoặc (1995). Điều tra nghiên
cứu về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên vùng biển Tây Nam phục vụ một số nhiệm
vụ kinh tế - xã hội cấp bách hiện nay. Trung tâm
Khí tượng Thủy văn phía Nam, Thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Lei Jiang et al., (2016). Long-Range Correlations of Global Sea Surface Temperature.
PLoS ONE 11(4): e0153774,doi:10.1371/journal.
pone.0153774
5. Malcolm J. Greig, Norman M. Ridgway &
Bruce S. Shakespeare., 1988. Sea surface temperature variations at coastal sites. New Zealand
Journal of Marine and Freshwater Research, 391400.
6. Rayner et al., (2006). Improved Analyses of
Changes and Uncertainties in Sea Surface Temperature Measured In Situ since the Mid-Nineteenth Century: The HadSST2 Dataset. Journal
of climate , 446 - 469.

The trend of changing the temperature of the sea
surface of Southwest sea of Vietnam

Nguyen Thuy Linh
Based on the synthesis and analysis of 15 year
data (2002 - 2017) on surface temperature, the
map of Southwest Vietnam surface temperature
has been designed. The results show that sea
surface temperature fluctuates over time. There
is a difference between the temperature in the
northeast monsoon and the southwest monsoon
and temperature change of space (temperature

rise from south-east to northwest). Compared
with the northeast monsoon season, the average
sea surface temperature of southwest monsoon
in the South West of Vietnam is higher than 1 –
30C.
25



×