Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.41 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc tấn công, chống phá ta của các thế lực phản động trong và
ngoài nước, chúng thường tập trung vào lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bởi đây là
lĩnh vực nhạy cảm, có tác động lâu dài và khó lường. Với âm mưu xảo quyệt,
các thế lực phản động liên tục và ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá
trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình"; thúc
đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng ta để đi đến
tan rã, như sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây.
Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương: “Đổi mới công tác tuyên
truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông
tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo
thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển
của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức
và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn
chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ
một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải
quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không
chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp
nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà
còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt
động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ


nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết
1


học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt
hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã
học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ
đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn
cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song
chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng
bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về
mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười
năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận
thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong
vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi,
nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài
“Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc phát triển lý
luận ở Việt Nam hiện nay”.

2


NỘI DUNG

I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN THỰC TIỄN
1. Phạm trù thực tiễn
1.1 Khái niệm về thực tiễn
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít): Thực tiễn là toàn bộ
những hoạt động vật chất – cảm tính có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội

1.2 Đặc trưng của thực tiễn
Thứ nhất, theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, thực tiễn là hoạt
động gắn liền với con người, nhưng không phải là toàn bộ hoạt động của con
người mà chỉ là những hoạt động của vật chất – cảm tính, những hoạt động vật
chất cảm giác được. Đó là hoạt động của con người, sử dụng những công cụ
vật chất, tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo
những mục đích nhất định.
Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử- xã hội của con
người. Hoạt động thực tiễn phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm người,
nhưng các cá nhân phải có quan hệ với nhau và không thể tách tời các quan hệ
xã hội. Nghĩa là, thực tiễn chỉ diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông
đảo những con người trong xã hội. Đồng thởi, thực tiễn cũng trải qua các giai
đoạn lịch sử phát triển cụ thể, chịu sự chi phối của ngững điều kiện lịch sử, cả
về đối tượng, phương tiện, cũng như mục đích hoạt động của con người.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích, tính hiện thực trực tiếp.
Thực tiễn phải hướng đến cải tạo thế giới, cải tạo tự nhiên và xã hội nhằm
phục vụ con người, chứ không chỉ là hoạt động bản năng, bằng lòng với
những cái có sẵn trong tự nhiên. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính
tự giác cao của con người, khác với hoạt động bản năng, thích nghi một cách
thụ độngcủa con vật với thế giới xung quanh.
1.3 Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt
động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
3


Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động khởi nguyên, đầu
tiên, cơ bản nhất của hoạt động thực tiễn. Đó là hoạt động mà con người trực
tiếp tác động vào đối tượng vật chất, vào thế giới khách quan, nhằm tạo ra của
cải vật chất. Không có sản xuất vật chất con người và xã hội loài người không

thể tồn tại, phát triển. Không những thế, sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự
nảy sinh, tồn tại và phát triển của các hình thức thực tiễn khác, cũng như tất cả
các hoạt động khác của con người. Có thể nói, các hoạt động khác của con
người, suy cho cùng đều xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất.
Hoạt động chính trị- xã hội là hoạt động của các tổ chúc, các cộng đồng
người khác nhau trong xã hội, thể hiện tính tự giác cao của con người nhằm
biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội, v.v.
tạo ra môi trường xã hội thuận lợi, phù hợp với nhu cầu, lợi ích của chủ thể.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động
thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện không có sẵn trong tự nhiên,
mà do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái trong tự nhiên,
nhằm tìm hiểu các quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu theo
mục đích dã đề ra. Trong giai đoạn hiện nay, khoa học đóng một vai trò hết
sức to lớn đối với quá trình phát triển của xã hội thì hình thức thực tiễn này
ngày càng có vị ttri1 quan trọng trong hoạt động của con người.
Ba hình thức cơ bản của thực tiễn nêu trên, có quan hệ chặt chẽ, tác
động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng
vai trò quan trọng, quyết định hoạt động chính trị - xã hội và thực nghiệm
khoa học. Ngược lại, hoạt động chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học tác
động trở lại hoạt động sản xuất vật chất. Chính trị xã ho65u ổn định tạo điều
kiện cho sản xuất phát triển, thực nghiệm khoa học phát triển thì năng suất,
chất lượng, hiệu quả sản xuất sẽ được nâng cao.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, hoạt động thực tiễn còn có những hình
thức không cơ bản được thể hiện ở một số lĩnh vực khác nhau như gia1so dục,
y tế, nghệ thuật, thể thao,v.v..
2. Phạm trù lý luận
2.1 Khái niệm lý luận
4



Hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức là hai hoạt động đặc trưng
của con người, giữa chúng có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau,
không ta1hc rời nhau. Trong quá trình tác động vào thế giới, cải tạo thế giới,
hoạt động nhận thức của con người cũng bắt đầu hình thành.
Nhận thức, theo quan điêm của triết học máccxit là quá trình con người
rìm hiểu, phản ánh thế giới khách quan, nhưng đó không phải là sự phản ánh
giản đơn, thụ động mà là quá trình phản ánh biện chứng. tích cực và sáng tạo
trên cơ sở thực tiễn. Đó là sự phản ánh có chọn lọc, chủ động có mục đích để
nắm bắt bản chất của hiện thực chứ không phải là sự sao chép nguyên xi. Qua
quá trình nhận thức biện chứng, còn hiểu biết riêng lẻ từng mặt, bề ngoài của
đối tượng những hiểu biết kinh nghiệm, thông qua các thao tác của tư duy như
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… lý luận được nảy sinh,
hình thành và phát triển
2.2 Đặc trưng của lý luân
Thứ nhất, lý luận là một hệ thống trí thức có tính logíc chặt chẽ, tính
khái quát cao và tính phổ biến; được thể hiện thông qua những khái niệm,
phạm trù, nguyên lý, quy luật… phản ánh bản chất, tính tất yếu của sự vật,
hiện tượng trong thế giới khách quan.
Thứ hai, bản chất của lý luận là khái quát những trí thức kinh nghiệm
thực tiễn, cho nên không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn thì lý luận không
thể nảy sinh, hình thành và phát triển.
Thứ ba, lý luận không dừng lại ở việc phản ánh hiện tượng, mà đi sâu
vào xem xét bản chất, mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng. Do đó lý
luận phản ánh được tính tất yếu, tính quy luật của sứ vật, hiện tượng, đưa ra
những dự báo xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận
Điều đó có nghĩa, thực tiễn là nền tảng, là điểm xuất phát của lý luận.
Chính trên nền tảng của hoạt động thực tiễn con người mới có nhu cầu tìm

hiểu, khám phá thế giới, hoạt động nhận thức, lý luận mới nảy sinh. Thông
qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho chúng bộc lộ
những thuộc tính, tính chất, quy luật…Trên cơ sở đó, con người mới có hiểu
5


biết về sự vật và khái quát những hiểu biết ấy dể hình thành, phát triển lý luận.
Như vậy, chính nhở có hoạt động thực tiễn, lý luận mới ra đời, phát triển.
Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “…chính việc người ta biến đổi tự nhiên,
chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách tự nhiên, là cơ sở
chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người đã phát triển song song
với việc người ta đã học cái biến tự nhiên”
Có thể nói, mọi hiểu biết của con người dù trực tiếp hay gián tiếp, đối
với người này hay người khác, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh
nghiệm hay lý luận,…suy cho cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nếu không có
hoạt động thực tiễn, con người không thể có được lý luận khoa học, cách
mạng.
Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận
Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm
vụ, phương hướng mới cho lý luận, đòi hỏi lý luận phải giải quyết. Vì thế, nó
luôn bắt con ngưởi phải đi sâu nghiên cứu, mở rộng sự hiểu bết hiện có, đánh
giá kiểm tra lại kiến thức cũ, cách tiếp cận cũ, thậm chí phải thay thế những tri
thức cũ, lạc hậu bằng những tri thức mới. Trên cơ sở đó, thực tiễn thúc đẩy
nhận thức, lý luận phát triển. Đúng như Ph.Ăngghen đã nói, khi xã hội có nhu
cầu về kỹ thuật thì nó thúc đẩy khoa học phát triển hơn mười trường Đại học.
Thực tiễn còn là cơ sở góp phần rèn luyện các giác quan và tư duy của
con người, làm cho chúng ta phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, năng lực tư
duy loogic không ngừng được củng cố và phát triển. trên cơ sở đó, giúp con
người nhận thức đối tượng ngày cảng chính xác hơn, sâu sắc hơn, khái quát lý
luận đúng đắn hơn.

Thông qua hoạt động thực tiễn, con người còn chế tạo ra các công cụ,
phương tiện, máy móc hiện đại, như kính hiển vi, kính thiên văn, tàu vũ trụ…
góp phần hỗ trợ con người “nối dài” các giác quan trong quá trình khám phá
chinh phục thế giới.
Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận
Thực tiễn là đích cuối cùng lý luận phải hướng tới, phải giải quyết.
Chính nhu cầu sống, nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên, xã hội buộc
con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung quanh. Nghĩa là ,
nhận thức con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cẩu thực tiễn; ngược
6


lại kết quả của nhận thức, của lý luận sẽ phục vụ cho chính thực tiễn phát
triễn. Lý luận không đáp ứng được mục đích thực tiễn đặt ra, lý luận đó sẽ
không có giá trị. Những tri thức – kết quả của nhận thức, những lý luận – kết
quả của khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn chỉ có giá trị, có ý nghĩa đích
thực khi được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiển; cụ thể là vận dụng
vào hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực
nghiệm khoa học phục vụ con người. Lý luận có mục đích tự thân, nó chỉ có
giá trị khi thâm nhập vào thực tiễn, được vật chất hóa, biến tri thức khoa học
thành phương tiện ttrong việc biến đổi hiện thực.
Thứ tứ, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra của lý luận
Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ xác nhận được tri thức
là đúng hay sai, chân lý hay sai lầm. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Mọi sự biến đổi của sự
nhận thức hay lý luận suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của
thực tiễn. Con người có được những hiểu biết về thế giới thông qua hoạt động
thực tiễn. Do vậy, chính thực tiễn là tiêu chuẩn, là thước đo giá trị của những
tri thức mà con người đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời, nó bổ sung,
điều chỉnh, phát triển những tri thức lý luận đã có, làm cbo lý luận ngày càng

đầy đủ hơn và sau sâu sắc hơn. C. Mác, trong luận cương về Phoiobac đã
khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý,
nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của
mình. Sự tranh trãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách
rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần túy”
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối
Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện ở chỗ, nó là tiêu chuẩn
khách quan duy nhất có thể kiểm tra tính đúng, sai của lý luận, khẳng định
chân lý, bác bỏ sai lầm. Tất cả những tri thức chứ được thực tiễn kiểm tra, xác
nhận đều không có cơ sở khẳng định tính đúng đắn của nó.
Tính tương đối của tiêu chuẩn thực hiện ở chỗ, nó luôn vận động, biến
đổi, phát triển, do đó, với tư cách là tiêu chuẩn chân lý nó không cho phép
người ta xem bất kỳ một tri thức nào là bất di bất dịch, không thay đổi. Vì vậy,
7


khi thực tiễn thay đổi thì nhận thức, lý luận cũng phải thay đổi theo cho phù
hợp với thực tiễn mới. Không có chân lý vĩnh viễn, bất di bất dịch; mọi tri
thức dù là đúng vẫn phải tiếp tục kiểm tra, để kịp thời bổ sung, phát triển. Mặt
khác, thực tiễn ở mỗi lĩnh vực nhất định chỉ đủ sức kiểm tra những tri thức nảy
sinh trong phạm vi lĩnh vực đó.
Như vậy, thực tiễn không những là điểm xuất phát, là yếu tố đóng vai
trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của lý luận, mà còn là nơi lý
luận phải luôn hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn của mình.
2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “ thực tiễn không có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”. Điều này có nghĩa rằng, lý luận
mặc dù do thực tiễn quyết định, nhưng bản thân quyết định, nhưng bản thân lý

luận khi đã hình thành thì lại có một vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn.
Vai trò của lý luận khoa học được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, lý luận đóng vai trò là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn.
Lý luận khoa học định hướng, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra
phương hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện thực
khách quan theo yêu cầu, mục đích phát triển của con người và xã hội. Nếu
thực tiễn không được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học thì thực
tiễn đó sẽ mất phương hướng, “ lúng túng như nhắm mắt mà đi”, rơi vào mò
mẫm, vòng vo, có khi lại quay trở lại xuất phát điểm ban đầu, không hiệu quả,
gây tốn kém, lãng phí thời gián, công sức.
Thứ hai, lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng nảy sinh, hình thành và
phát triển
Không có lý luận cách mạng không thể có phong trào cách mạng. Lý
luận khoa học, cách mạng góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập
quần chúng để tạo nên những phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của
đông đảo quần chúng. Nhờ có lý luận khoa học, phong trào cách mạng của
quần chúng không còn mang tính tự phát, trở thành hoạt động , chủ động, tự
giác, tích cực. C.Mác nhấn mạnh:… “lý luận cũng se4tro73 thành lực lượng
vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
Thứ ba, lý luận góp phần dự báo tương lai
8


Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng luôn chứa đựng những tiền đề, mầm
mống và khả năng phát triển trong tương lai của chúng. Lý luận nếu phản ánh
đúng bản chất, nắm được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Như vậy,dự báo tương lai là kết quả của thao tác tư duy, như phân tích và tổng
hợp, lo6gic và lịch sử…tức là quá trình nhận thức, phản ánh, phán đoán về sự
vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng. Dự báo tương lai là một
trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động nhận

thức và thực tiễn của con người. Khi con người ngày càng đi sâu khám phá
giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì
càng cần có những dự báo. Chính vì vậy, chức năng dự báo là một chức năng
rất quan trọng của lý luận.
Như vậy, thực tiễn và lý luận không tách rời nhau, giũa chúng có sự liên
hệ, xâm nhập, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Vì thế, trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mácle6nin. Quán triệt nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc
đổi mới ờ nước ta hiện nay.
III. VAI TRÒ NGUYÊN TẮC THÔNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là
tiêu chuẩn của nhận thức.
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan,
bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc
tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy
sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình
thành. Như vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát
triển thế giới quan( tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển
hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
9


Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra
các phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
Thư nhất, Thực tiễn là động lực của nhận thức

Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi
bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận
thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những
phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức.
Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều
vẻ, con người mới phân biệt được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài,
đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật.
Thứ hai,Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào
thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri
thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật
chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt
nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo
hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có
thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức
mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa.
Thứ ba, Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng
thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
Thứ tư,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a) Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn
khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con
người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ:
chân lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt
trong quá trình nhận thức của nhân loại.
10



b) Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm
tra chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có
thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật
chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm
tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai,
có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng
được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể
chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó
được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như
vậy mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của
nhận thức.
c) Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế
thị trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới:
công bằng, bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế
cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản
xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách
cũng như các giải pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những
thành tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần

giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải
đáp cho những vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở
nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận
thức nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta
11


những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã
hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
2.1. Lý luận
a. Khái niệm: Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn. Nó phản ánh những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách
quan.
b. Đặc điểm: Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng
nhu cầu của xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và
ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý
luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn
từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự
nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
a) Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực
tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại
và phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng
là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực
tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
b) Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn

Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp
vô sản.
Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc
vào nó được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển
của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không
tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri
thức đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan,
từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt
động thực tiễn.
12


Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể
là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c) Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh
thần tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì
chúng sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó
là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d) Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi
mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến
mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
*Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc
biệt là lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về
kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu
như không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt

xấu xí của con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố
gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không
đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái
giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài giới
hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm
và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” –
1980)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên
đối với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và
hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các
mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ
nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta
13


cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi
mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc nhận thức
quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát
triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế
khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình.
Gắn lý luận vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc.
Tinh thần ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ VI.
e) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa Mác- Lênin.

Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi
nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng
lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động
cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng
tạo. Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ
trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ
nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng
nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”-1996)
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng
vận động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách
biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng
đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự
nhận thức thực tại khách quan”.
+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của
quá trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này
được hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri
giác, biểu tượng...

14


+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình
nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang
lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng
chưa phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận
thức phải trở về với thực tiễn vì:

+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó
phải trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện
thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận
thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về
với thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng
đến thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại
làm cho nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh
sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan.
3. Thực trạng lý luận ở nước ta hiện nay
Từ khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa MácLeenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất
nước,Đảng ta không ngừng phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã
hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và bước đầu đã đạt được những thành
tựu nhất định.
Về mô hình chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh (1991), đã đề cập sáu
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Do nhân dân
lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
15


Tại Đại hội X, mô hình xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng ta bổ sung,
phát triển với tám đặc trưng: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây

dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước phát quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển tư tưởng Đại hội X, quan niệm về xã hội
xã hội chủ nghĩa trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triểm năm 2011) thông qua
tại Đại hội XI của Đảng đã được hoàn thiện hơn một bước:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới”.
Như vậy, có thể nói rằng trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, lý luận
của Đảng ta về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn, cụ thể
hơn. Cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có những nhận
thức ngày càng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc
sống, kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa
xã hội.
- Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (1991) đề ra
bảy phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội:
+ Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân, lấy liên minh công nhân- nông dân- trí thức làm nền tảng, do Đảng
16


Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm
kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc và của nhân dân.
+ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức
sở hữu. phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa.
+ Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ
Chí Minh giữ được vị trí chủ đạo trong đờ sống tinh thần xã hội; kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hóa tốt d0e5p của tất cả các dân tộc trong
nước, tiếp thu những tinh hoa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn
minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu
nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị tất
cả các nước trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn
kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa
bình dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam.
+ Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, đồng thời kế thừa
Cương lĩnh đại hội VII, trong Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm 2011), Đảng
ta đưa ra tám phương hướng lớn:
+ Đẩy mạnh công nghiệp công nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
17


+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Bảo đảm vững chăc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập. tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh!
Như vậy Đảng ta không chỉ xác định được xã hội mà chúng ta đang xây
dựng là một xã hội như thế nào, mà còn xác định đúng đắn, sáng tạo những
phương hướng cơ bản, coi đây là những vấn đề có tính quy luật của con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở thực tiễn của đất nước, ngay từ khi đổi mới. Đảng ta đã xác định
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự “ quá độ gián tiếp” trong Cương
lĩnh (1991) đã sử dụng cụm từ “ bỏ qua chế độ tư bản” và xác định: “ nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc
địa, nữa phong kiến lực lượng sản xuất rất thấp”

Qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội IX, Đảng ta đã phát triển luận điểm
trên cụ thể hơn: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
tư bản chủ n ghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Tiếp theo Cương lĩnh ( bổ sung phát triển năm 2011) chỉ rõ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh
phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các
lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhất thiết phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội đan xen.
18


Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc rằng, với đặc điểm của một nước
thuộc địa nữa phong kiến, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì
không thể quá độ trực tiếp mà phải quá độ gián tiếp theo phương thức “phát
triển rút ngắn” lên chủ nghĩa xã hội. Đây là bước phát triển tất yếu khách
quan, hợp qui luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên, là con đường
phát triển phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động việt nam.
Về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đại hội
VI Đảng ta đã xác định mô hình quản lý kinh tế tập trung, bao cấp không còn
phù hợp và nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ
quá độ. Vì vậy Đại hội VII đã khẳng định đó là “nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thi trường
có sự quản lý của Nhà nước” Đồng thời, cụ thể hóa một bước về chế độ công
hữu, đó là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.
Đến đại hội IX khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa được xác định rõ hơn nữa: “ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đến Đại hội XI, Đảng ta xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là nền kinh tế “ với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hinh thức phân phối. Các thành phần
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được cũng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Đại hội
XII của Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh lý luận về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ các quy luật của
kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
19


Như vậy, xuất phát từ đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã quan niệm kinh tế thị
trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển dưới chủ nghĩa tư
bản, nhưng bản thân nó không đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Từ đó, Đảng ta
đã xác định, với thực trạng lực lượng sản xuất của đất nước, chúng ta không
thể ngay lập tức xác lập chế độ công hữu mà phải đi qua những khâu trung
gian quá độ với nền kinh tế nhiều hình thức sỡ hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Do đó, cần phải phát triển lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa cho phù hợp, và thực tiễn đổi mới những năm qua ở Việt Nam đã chứng
minh một cách thuyết phục rằng, xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hôi chủ nghĩa là một sự lựa chọn đúng đắn và tất yếu để thúc đẩy sự
phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta
phải hướng đến mục tiêu nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, gắn với
xây dựng quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản
lý và phân phối nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”, nói cách khác kinh tế thị trường của chúng ta phải bảo đảm
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại: Công tác lý luận của Đảng ta thời gian qua đã có bước phát
trển mới. Tuy nhiên nhìn chung công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp đổi mới. Nhận thức
trên một số vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống
nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu…Trong Văn kiện Đại hội
XII Đảng ta cũng chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn
bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình mới để định
hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của
Đảng, Chính sách và pháp luật của nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ” Chính vì vậy, hiện nay Đảng
vẫn phải tiếp tục, không ngừng phát triển hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
4. Một số quan điểm cần quán triệt trong phát triển lý luận về chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
20


Trên cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
của triết học Mác-Lênin, cùng thực trạng lý luận ở nước ta hiện nay, để phát

triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải nắm vững những quan
điểm sau đây:
4.1 Quán triệt quan điểm thực tiễn
Theo VI Lênin: “ Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”
Yêu cầu của quan điểm thực tiễn:
Quan điểm thực tiễn đòi hỏi nhận thức sự vật, nghiên cứu lý luận phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, gắn với nhu cầu thực tiễn (của
thời đại, của đất nước, của địa phương, của ngành…)Thực tiễn là cơ sở của lý
luận, là nền tảng nảy sinh, hình thành lý luận không thể hình thành bên ngoài
thực tiễn, xa rời thực tiễn.
Phải thường xuyên tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, lấy
thực tiễn làm tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, chủ trương, đường
lối chính sách. Thực tiễn vừa là mục đích, vừa là tiêu chuẩn của lý luận, do đó
khi đã có lý luận nêu không tổ chức hoạt động thực tiễn, sẽ không thể phát huy
vai trò của lý luận, và cũng không có điều kiện để kiểm tra lý luận.
Tăng cường tổng kết thực tiễn để kịp thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển
lý luận, chủ trương, đường lối, chính sách cho phù hợp với thực tiễn mới. Lý
luận ra đời thông qua con đường tổng kết thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, do
đó nếu không thường xuyên tổng kết thực tiễn thì cũng không có cơ sở để bổ
sung những thiếu sót, những hạn chế lý luận và như vậy cũng không thể tiếp
tục phát triển lý luận ở trình độ cao hơn.
Chính vì vậy, một trong những bài học được Đảng ta rút ra sau 30 năm
đổi mới, trong Văn kiện XII là: “Đổi mới phải… xuất phát từ thực tiễn, bám
sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải
quết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”
4.2 Ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm, về bản chất là khuynh hướng tư tưởng và hành động
đề cao vai trò thực tiễn, tuyệt đối hóa kinh nghiệm, hạ thấp vai trò lý luận.
Biểu hiện của căn bệnh này rất đa dạng, như coi thường lý luận, hoạt

động chỉ dựa vào kinh nghiệm, không chịu học hỏi để vươn lên, cho kinh
21


nghiệm là yếu tố duy nhất quyết định mọi thành công trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn; thiếu sự định hướng của lý luận nên họ thường làm việc theo
thói quen, đường mòn, thiếu nhìn xa trông rộng .v. v
Bệnh giáo điều, về bản chất là khuynh hướng tư tưởng và hành động
tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là chìa khóa vạn năng: coi thường, hạ thấp
thực tiễn, không đánh giá đúng vai trò của thực tiễn trong hoạt động nhận
thức cũng như hoạt động lý luận; hoặc áp dụng lý luận và kinh nghiệm không
tính tới điều kiện thực tiễn, lịch sử - cụ thể.
Biểu hiện căn bệnh này ở nước ta có hai loại giáo điều. Một là giáo điều
lý luận, thể hiện ở việc vận dụng lý luận bất chấp những điều kiện thực tiễn,
lịch sử - cụ thể; học tập lý luận tách rời thực tiễn, xa rời cuộc sống, dẫn đến
hiểu lý luận chỉ dừng ở câu chữ, rơi vào bệnh sách vở, bệnh “tầm chương,
trich cú”.v.v. Hai là, giáo điều kinh nghiệm, áp dụng rập khuôn, máy móc kinh
nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác, nước khác không tính
tới những điều kiện thực tiễn, lịch sử- cụ thể của mình có phù hợp hay không.
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm và giáo điều.
Nguyên nhân cơ bản, trực tiếp nhất của cả bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, không
quán triệt quan điểm thực tiễn, tách rời lý luận vag thực tiễn.
Hướng khắc phục của bệnh kinh nghiệm và giáo điều
Để khắc phục của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần
quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, hiểu và vận
dụng đúng đắn quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn.
4.3 Vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triên chủ nghĩa Mác -Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh
Lý luận ra đời từ thực tiễn, nhưng đó không phải là con đường duy nhất,

lý luận còn được hình thành, phát triển thông qua việc kế thừa lý luận trong
lịch sử của dân tộc, của nhân loại. Chính vì vậy, để bổ sung, phát triển lý luận
về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một mặt chúng ta phải tăng cường tổng kết
thực tiễn, nhưng mặt khác cũng phải biết kế thừa tinh hoa lý luận của dân tộc
và nhân loại, cụ thể là lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng ta luôn nhấn mạnh, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
22


nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng, toàn
dân.
Khi kế thừa phải linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với điều kiện thực tiễn
mới của đất nước, nếu không sẽ rơi vào sai lầm kinh viện, giáo điều. Đại hội
XI yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính
chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học
tập chủ nghĩa Mác- Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.”
4.4 Thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của cán bộ đảng viên
trong quá trình đổi mới
Đảng phải luôn luôn nâng cao trình độ lý luận của mình và của cán bộ,
đảng viên trong quá trình đổi mới. Bởi vì, nếu trình độ tư duy lý luận yếu kém
thì không thể tổng kết thực tiễn, không thể tổng kết kinh nghiệm để xây dựng
lý luận hoặc kế thừa lý luận. Văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng đề cập vấn
đề này như sau: .. “không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ
trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu,
yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận . Tạo môi trường dân chủ thảo luận,
tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá
nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân
chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Nâng cao chất lượng hoạt động của các
cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn

với nhu cầu thực tiễn”
Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ lý
luận cho bản thân, thấm nhuần lời dạy của V.I Lênin: Học, học nữa, học mãi.
Tuy nhiên, khi học tập lý luận cần phải liên hệ với thực tiễn của địa phương,
của đất nước và gắn với thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Lý luận rất
cần thiết nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó,
trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: Lý luận phải liên hệ với
thực tế” Nói phải đi đôi với làm, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan
liêu, bàn giấy, sách vở, lý thuyết suông xa vời thực tiễn, nói mà không làm
hoặc nói một đằng làm một nẻo…
Nâng cao trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên cũng chính là điều kiện
tiên quyết giúp họ chống lại những biểu hiện lệch lạc, sai trái về tư tưởng – lý
23


luận, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta…
Như vậy, thống nhất giũa lý luận và thực tiễn là một trong những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, vì thế mỗi cán bộ, đảng viên
muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, tránh được những sai lầm của bệnh
kinh nghiệm, bệnh giáo điều phải nỗ lực quán triệt nguyên tắc này.

KẾT LUẬN
Trước sự suy thoái của nền kinh tế thế giới nói chung, Việt Nam nói
riêng, sẽ vẫn còn rất nhiều những thách thức mới mà Đảng và Nhà nước ta cần
phải có những quyết sách phù hợp, giúp nền kinh tế Việt Nam vượt qua được
những sóng gió của cuộc khủng hoảng lớn này.
Với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn quyết đoán của Đảng và Nhà
nước, chúng ta tin tưởng sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới. Nhà nước sử
dụng các đòn bẩy kinh tế trong kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoach hóa gián

tiếp để đảm bảo thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh
tế quốc dân.
Trước thực tế của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách
mạng Tháng Tám, một lần nữa ta lại càng cần khẳng định vai trò không thể
thiếu được của quá trình lý luận nhận thức và các chính sách, chủ trương xuất
phát từ thực tiễn chi phối nền kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của
nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ không bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế,
phát triển mạnh mẽ hơn. Hy vọng chỉ một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt
Nam sẽ phát triển vượt bậc, phát triển có cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí những
nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế giới.

24


Những bước phát triển gì nữa sẽ đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam trước
thềm thiên niên kỷ mới? Đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
chăng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thời đại ? Tất nhiên, những câu trả lời
cho vấn đề ấy còn đang nằm ở phía trước. Song chắc chắn, với con đường đi
đúng đắn và sự lựa chọn quyết đoán của Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ gặt
hái được rất nhiều thành tựu mới. Nhà nước sử dụng các đòn bẩy kinh tế trong
kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoach hóa gián tiếp để đảm bảo thực hiện những
phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế quốc dân. Trước thực tế của quá
trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng Tháng Tám, một lần nữa ta
lại càng cần khẳng định vai trò không thể thiếu được của quá trình lý luận
nhận thức và các chính sách, chủ trương xuất phát từ thực tiễn chi phối nền
kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ
không bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Hy
vọng chỉ một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển vượt
bậc, phát triển có cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế
tăng trưởng mạnh trên thế giới.

Để công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiệu quả,
mấu chốt là cần làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng - xem đây là
nhiệm vụ trước tiên, sống còn, để giữ vững vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng,
để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh” như Bác Hồ đã căn dặn.

25


×