Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tài liệu ôn thi cuối kỳ ( CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.98 KB, 19 trang )

ME5A

Chính Sách Ngoại Thương
CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN NGOẠI THƯƠNG
I.

Câu 1:

Sự khác nhau giữa lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh? Gần đây các nhà kinh tế phương
tây lo ngại về lợi ích ngoại thương không còn nữa khi mà các nước đang phát triển như
Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng cao. Hãy bình luận lập luận trên?
Bài Làm

 Sự khác nhau giữa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh?
 Lợi thế so sánh - David Ricardo:
- Giả thuyết của mô hình: Công nghệ là hội tụ, điều đó cho thấy tiền lương cũng sẽ có
khuynh hướng hội tụ. Nhưng thực tế điều này là không xảy ra vì tiền lương còn có
khoảng cách vì khoa học, công nghệ, tri thức, phát minh… không thể khi phát minh xong
có thể lan truyền sang nước khác 1 cách nhanh chóng vì rào cản về trình độ, có khi phải
mất 10 năm, 20 năm hơn lâu hơn… Chính những điều này tạo ra sự khác biệt về tiền
lương. Không hội tụ về công nghệ thì khó mà hội tụ về năng suất và tiền lương, bởi suy
cho cùng tiền lương có được là từ sự đóng góp của năng suất.
- David Ricardo đã triển khai lý thuyết lợi thế tuyệt đối thành lợi thế so sánh, các nước
nhường bớt những công đoạn dù đang chiếm lợi thế tuyệt đối cho nước khác để tập trung
làm những gì đem lại lợi ích nhiều nhất cho họ, chuyên môn hoá toàn bộ nguồn lực, để
sản xuất 1 loại hàng hoá mà thôi, để tận dụng tác động của chi phí cơ hội.
- Năng suất giữa các quốc gia, sự khác biệt về công nghệ tạo ra khác biệt về năng suất, từ
đó tạo lợi ích từ ngoại thương. 1 nước sẽ dùng nguồn lực bên trong của mình để tạo thế
mạnh, chuyên môn .
 Hạn chế:
- David Ricardo không chỉ ra được ai có lợi, ai bất lợi trong vi mô và cả trong bình diện vĩ


mô từ tự do thương mại. Nhưng vấn đề chưa được phù hợp lắm vì thực tế có người được
người mất, thương mại rất nhạy cảm về chính trị, khi bị đụng đến sự phân phối lại thu
nhập thì các nhóm lợi ích sẽ phản đối và tìm cách ngăn cản tự do thương mại. Vì vậy rất
khó giải quyết bằng bài toán kinh tế mà phải xem lại thể chế để ràng buộc các nhóm lợi
ích hơn. Vì trong bình diện KT vĩ mô thì có lợi nhưng chưa chắc tất cả đều có lợi.
- Mô hình cố định, tĩnh, chỉ sử dụng 1 yếu tố vốn và lao động.
- Khái niệm về lợi thế so sánh rất trừu tượng dẫn đến hiểu không đúng, từ đó dẫn đến làm
sẽ không đúng.
- Chuyên môn hoá toàn bộ nguồn lực từ sản xuất nhưng trong thực tế không có điều này.
 Lợi thế cạnh tranh – Hecksher – Ohlin: Sự khác biệt về nguồn lực là lợi thế của ngoại
thương, sự dồi dào về các yếu tố sản xuất, qua đó sẽ giải thích việc trao đổi hàng hoá là
có lợi. Vốn, lao động, kỹ thuật tạo ra lợi thế cạnh tranh, từ đó tạo ra lợi ích ngoại thương.
Vốn và lao động có thể thay thế nhau, nhưng không tự do dịch chuyển giữa các quốc gia,
nò chỉ dịch chuyển bên trong nền kinh tế theo nguyên tắc “nước chảy về chỗ trũng”.

Page 1


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương


Ưu điểm: Dự đoán tương đối phù hợp hơn so với mô hình Ricardo. Các nhà làm chính
sách dễ dàng hơn trong việc tìm ra lợi thế so sánh của nước mình như vấn đề CN và năng
suất.
Trong mô hình này, việc xác định sự dồi dào về yếu tố sản xuất là không khó và thuận lợi
như: so sánh nguồn lực bán kỹ năng so với nguồn lực khác trong nền kinh tế như thế nào,
từ đó dễ dàng hơn trong việc xác định lợi thế so sánh. Có thể tiên lượng trong tương lai
để cân nhắc lượng hàng hoá trong tương lai sản xuất ra có đặc trưng gì.

Chỉ ra được ai được và ai mất khi tự do hoá ngoại thương, từ đó các chính sách, thể chế
để ràng buộc các nhóm lợi ích.

 Gần đây các nhà kinh tế phương Tây lo ngại về lợi ích ngoại thương không còn nữa
khi mà các nước đang phát triển như Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng cao. Hãy
bình luận lập luận trên?

II.

-

Một quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế chỉ khi họ thu được lợi ích nhất định từ
thương mại. Lợi ích của ngoại thương là khả năng nâng cao mức sống và thu nhập thực tế
của một nước thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa với nước khác dựa trên cơ sở
chi phí so sánh để sản xuất những hàng hóa.

-

Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước: Vốn, việc
làm, công nghệ, sử dụng tài nguyên có hiệu quả.

-

Trung Quốc hiện nay là 1 nhà máy khổng lồ của thế giới do nhân công giá rẻ và sao chép
các phát minh của các nước khác rất tài tình nên giá thành sản phẩm rất cạnh tranh. Chính
vì vậy hiện nay Trung Quốc đang phải đối mặt với nhiều sự việc như: EU đã quyết định
đặt mức mức thuế chống bán phá giá đối với các mặt hàng thép nhập khẩu từ Trung Quốc
lên đến 24%, với thời hạn là 5 năm. Từ tháng 2/2009, liên minh châu Âu bắt đầu đánh
thuế vào các mặt hàng bán phá giá từ Trung Quốc với mức thuế chống bán phá giá là
24%. Được biết, từ tháng 1 – 6/2009, đã có 15 quốc gia và khu vực tiến hành những điều

tra nghiêm khắc với các doanh nghiệp Trung Quốc với số tiền liên quan là 8,276 tỷ USD.
Trên thực tế, từ năm 2008, các vụ va chạm thương mại của Trung Quốc đã diễn ra mạnh
mẽ. Hiệp hội thép Trung Quốc cũng chịu những ảnh hưởng nghiêm trọng của chủ nghĩa
bảo hộ thương mại, những hiện tượng này đều gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngành xuất
khẩu của Trung Quốc. Cách đây không lâu, Hội đồng Thương mại Quốc tế Hoa kỳ đã
đưa ra kiến nghị tiến hành đánh thuế trừng phạt đối với mặt hàng lốp xe của Trung Quốc
khoảng 55%, 45% và 35% trong vòng ba năm….

Câu 2:

Page 2


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

Phong trào công đoàn của Mỹ-phần lớn đại diện cho công nhân lao động chân tay hơn là
công nhân có kỹ năng-có truyền thống ủng hộ việc hạn chế nhập khẩu từ nước nghèo. Hãy
sử dụng mô hình thương mại thích hợp để chỉ ra chính sách này là thích hợp hay thiển cận
xét theo lợi ích của thành viên công đoàn?
Bài làm:
a) Đứng trên góc độ là người lao động chân tay
Xét theo lợi ích của các thành viên công đoàn thì chính sách này là thích hợp
Để chứng minh nó là thích hợp ta sẽ sử dụng mô hình thương mại Heckscher – Ohlin
Thương mại quốc tế xu hướng làm cho những người công nhân có tay nghề thấp ở Mỹ lâm
vào tình trạng tồi tệ hơn – không chỉ tạm thời mà trên một cơ sở lâu dài vì mô hình Heckscher –
Ohlin nói rằng khi nội địa và nước ngoài buôn bán với nhau , các mức giá tương đối của chúng
sẽ hội tụ lại. Ở các nước nghèo do có lợi thế tương đối về lao động ( giá lao động thấp, lực lượng
lao động dồi dào) điều này giúp cho giá cả của các mặt hàng sử dụng nhiều lao động chân tay

của các nước này thấp hơn so với nước Mỹ, khi các mặt hàng này được phép vào Mỹ nó khiến
cho các mặt hàng này ở Mỹ sản xuất khó có thể cạnh tranh được ( do giá lao động ở Mỹ cao dẫn
đến chi phí cao ), muốn cạnh tranh chỉ có cách giảm giá điều này khiến cho lợi nhuận giảm và
thu nhập của lao động chân tay giảm theo, thậm chí không cạnh tranh được phải đóng cửa dẫn
đến lao động ở đây thất nghiệp.
 Mô hình Heckscher – Ohlin cũng nói rằng một nước sẽ chuyên môn hóa trong sản xuất
và xuất khẩu hàng hóa thâm dụng yếu sản xuất mà nước đó có lợi, khi hàng hóa của các
nước nghèo vào Mỹ làm cho các sản phẩm cùng loại của Mỹ khó có thể cạnh tranh được
vì Mỹ không có lợi thế lao động bằng các nước này do đó nước Mỹ sẽ chuyển hướng
sang phát triển các ngành mà mình có lợi thế hơn so với các nước nghèo, đó là phát triển
các sản phẩm sử dụng lao động kỹ năng điều này gây ra tình trạng thất nghiệp cho lao
động chân tay (lao động bán kỹ năng của Mỹ)
Sẽ có sự phân phối lại trong thu nhập vì công nhân bán kỹ năng bị thất nghiệp hoặc thu
nhập giảm do các sản phẩm làm ra không cạnh tranh được, phần còn lại thì nhận được lợi ích
nhiều hơn do giá cả của các mặt hàng nhập khẩu từ nước nghèo thấp hơn.
b) Đứng trên góc độ là người lao động có kỹ năng
Xét theo lợi ích của các thành viên công đoàn thì chính sách này là thiển cận
Để chứng minh nó là thiển cận ta sẽ sử dụng mô hình thương mại Heckscher – Ohlin
Các mặt hàng nhập khẩu từ các nước nghèo chủ yếu là các mặt hàng sử dụng nhiều lao
động và ít công nghệ, những người lao động có kỹ năng là người làm việc trong môi trường công
nghệ cao do vậy các sản phẩm của nước nghèo không cạnh tranh được các sản phẩm do lao động
này làm ra, Mô hình Heckscher – Ohlin nói rằng khi nội địa và nước ngoài buôn bán với nhau,
các mức giá tương đối của chúng sẽ hôi tụ lại điều này cho thấy rằng giá cả các mặt hàng do lao
động kỹ năng làm ra không thay đổi nhưng giá cả do lao động bán kỹ năng lại giảm xuống do
vậy lao động kỹ năng được hưởng lợi từ việc giá thấp này và đương nhiên cuộc sống của họ sẽ
dễ chịu hơn do vậy việc hạn chế trên là thiển cận.

Page 3



ME5A

Chính Sách Ngoại Thương



III.

Mô hình Heckscher – Ohlin cũng nói rằng một nước sẽ chuyên môn hóa trong sản xuất
và xuất khẩu hàng hóa thâm dụng yếu sản xuất mà nước đó có lợi do vậy các ngành, các
sản phẩm sử dụng lao động có kỹ năng sẽ được tập trung phát triển, lao động có kỹ năng
có nhiều cơ hội hơn về việc làm và thu nhập do có nhiều doanh nghiệp muốn thu hút họ
đến đây làm việc hơn.
Câu 3:

Một số nhà kinh tế Mỹ cho rằng thu nhập lao động của Trung Quốc khoảng 7,5 đô la một
giờ. Nếu Mỹ cho phép nhập hàng từ Trung Quốc thì thu nhập của công nhân Mỹ cũng sẽ
giảm ở mức này. Anh không thể nhập một cái áo sơ mi 10 đô la từ Trung Quốc mà không
nhập khẩu 7,5 đô la tiền lương gắn liền với áo sơ mi. Dựa vào lý thuyết thương mại hãy bình
luận lập luận trên?
Bài Làm
-

-

-

-

Trước hết, do giá yếu tố lao động tại Trung Quốc là thấp hơn Mỹ hay nói cách khác lao

động tại Trung Quốc dồi dào tương đối hơn tại Mỹ và sự thâm dụng lao động của việc
sản xuất áo tại Trung Quốc cũng hơn Mỹ. Điều này cho thấy có sự khác biệt về nguồn lực
lao động giữa 2 quốc gia. Vậy nên theo mô hình H-O (Hechsher-Ohlin) ta xác định rằng
đây là cơ sở và nguồn gốc xảy ra ngoại thương giữa 2 quốc gia.
Vấn đề tiếp theo khi đã nhập 1 cái áo với giá lao động là 7.5USD/giờ thì thu nhập của
công nhân sản xuất áo tại Mỹ thế nào? Việc nhập áo từ Trung Quốc với giá lao động rẻ
hơn thì sẽ ảnh hưởng đến lao động của ngành đó tại Mỹ hay chính xác hơn theo định lý
Stolper – Samuelson khi có ngoại thương thì chủ sở hữu yếu tố sản xuất mà hàng hóa
nhập khẩu vào sẽ bị tổ thất. Trong trường hợp này chủ sở hữu yếu tố sản xuất là người lao
động trong ngành sản xuất áo tại Mỹ (họ là chủ nguồn lực lao động của họ) và áo đối với
Trung Quốc là hàng hóa xuất khẩu nhưng với Mỹ là hàng hóa nhập khẩu. Tóm lại thu
nhập của người lao động sản xuất áo tại Mỹ sẽ giảm nhưng định lý này không giải thích
được liệu rằng có giảm đúng bằng giá lao động tại nước xuất khẩu không (7.5USD/giờ)?
Vấn đề còn lại ta xem xét đến mức giảm của thu nhập tại Mỹ thế nào? Theo lý thuyết
ngang bằng giá yếu tố sản xuất thì khi ngoại thương xảy ra thì sự khác biệt giữa giá các
yếu tố sản xuất sẽ dẫn đến sự hội tụ về giá điều đó có nghĩa là với trường hợp cụ thể như
trên thì giá lao động của người lao động sản xuất áo tại Mỹ sẽ giảm xuống bằng với giá
tại Trung Quốc tức 7.5USD/giờ.
Các lý thuyết bên trên đưa đã khẳng định điều đó thế nhưng trong thực tế ta thấy không
xảy ra đúng như thế tức giá lao động công nhân sản xuất áo không giảm đến mức bằng
công nhân tại Trung Quốc. Vậy điều này có nghĩa là đã có sự khác biệt dẫn đến khi xảy ra
ngoại thương thì giá không hoàn toàn đi theo lý thuyết ngang bằng giá yếu tố sản xuất và

Page 4


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương


sự khác biệt ở đây đó là sự khác biệt về công nghệ theo lý thuyết hố cách công nghệ hay
lý thuyết vòng đời sản phẩm. Chính các điều này đã làm cho giá lao động tại Mỹ sẽ
không giảm xuống đến 7.5USD/giờ nhưng khi ngoại thương xảy ra nhưng một điều chắc
chắn rằng nó sẽ làm giảm sự chênh lệch về giá lao động công nhân sản xuất áo tại TQ và
Mỹ

IV.

Câu 4:

Ngày hôm nay 60% nút và dây kéo làm phụ kiện cho ngành may mặc thế giới được
sản xuất từ một làng nông nghiệp nghèo trước đây của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hãy sử
dụng lý thuyết lợi thế kinh tế theo quy mô để giải thích tại sao làng này lại có lợi thế trong
ngành phụ trợ sản xuất nút và dây kéo cho ngành may mặc? Tại sao Việt Nam với lợi thế
nhân công giá rẻ lại không phát triển được ngành phụ trợ này như Trung Quốc?
Bài Làm
Ôn lại 1 số kiến thức cơ bản về lý thuyết lợi thế kinh tế theo quy mô:
Lợi thế kinh tế theo quy mô hay còn gọi là lợi nhuận tăng dần theo quy mô được bộc lộ
khi chi phí bình quân dài hạn giảm theo đà tăng lên của sản lượng.
Những ngành sản xuất càng hiệu quả với quy mô càng lớn gọi là ngành có lợi thế kinh tế
theo quy mô, khi đó xuất lượng tăng lên với 1 tỷ lệ lớn hơn sự gia tăng của tất cả các nhập lượng.
Có 2 loại lợi thế kinh tế theo quy mô:
Lợi thế kinh tế theo quy mô bên trong: chi phí trung bình phụ thuộc vào quy mô của
doanh nghiệp nhưng không nhất thiết phụ thuộc vào quy mô ngành.
=> cấu trúc thị trường thường là cạnh tranh không hoàn hảo với các doanh nghiệp lớn có lợi thế
chi phí so với các doanh nghiệp nhỏ.
Lợi thế kinh tế theo quy mô bên ngoài: chi phí trung bình phụ thuộc vào quy mô ngành
nhưng không nhất thiết phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp.
=> ngành có thể bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và cấu trúc thị trường thường là cạnh tranh hoàn
hảo.

Ngày hôm nay 60% nút và dây kéo làm phụ kiện cho ngành may mặc thế giới được
sản xuất từ một làng nông nghiệp nghèo trước đây của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hãy sử
dụng lý thuyết lợi thế kinh tế theo quy mô để giải thích tại sao làng này lại có lợi thế trong
ngành phụ trợ sản xuất nút và dây kéo cho ngành may mặc?

Page 5


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

Bởi vì khi 1 ngành tập trung (nhiều doanh nghiệp) thì sẽ có hiệu quả hơn so với hoạt
động của 1 doanh nghiệp cô lập, khi đó ngành sẽ có được lợi thế kinh tế theo quy mô.
Thị trường lao động tập trung: tỉnh Vân Nam Trung Quốc là 1 tỉnh nông nghiệp nghèo
nên tình trạng thất nghiệp trong giai đoạn “nông nhàn” sẽ rất cao, đây sẽ là 1 thị trường lao động
phong phú để phát triển ngành phụ trợ sản xuất nút và dây kéo đòi hỏi sự thâm dụng lao động
lớn.
Hiệu quả chuyên môn hoá: khi sản lượng lớn hơn, người ta có điều kiện sử dụng lao
động chuyên môn và máy móc chuyên dụng.
Mỗi người công nhân có thể tập trung vào 1 công việc cụ thể và giải quyết công việc hiệu
quả hơn, góp phần làm giảm chi phí bình quân.
Do tính không chia nhỏ được của quy trình sản xuất cũng như dây chuyến máy móc và
thiết bị, đây chính là chi phí cố định, nó không phụ thuộc vào việc có sản xuất hay không. Khi
sản lượng tăng lên (quy mô sản xuất tăng) doanh nghiệp sẽ đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô
vì các chi phí cố định này có thể được chia cho 1 số lượng nhiều hơn các đơn vị sản lượng và nó
làm giảm chi phí bình quân cho 1 đơn vị sản phẩm. Kỹ thuật và tổ chức sản xuất ưu việt khi quy
mô tăng lên người ta có thể sử dụng máy tự động thay cho thiết bị vận hành thủ công hoặc thay
thế sản xuất đơn chiếc bằng dây chuyền hàng loạt một cách liên tục.
Lợi thế của việc mua nguyên vật liệu và phụ tùng với khối lượng lớn: khi các doanh

nghiệp đặt hàng với số lượng lớn hơn các yếu tố đầu vào sản xuất, họ có quyền mặc cả nhiều hơn
với các nhà cung cấp. Qua đó, có thể được giảm giá hoặc hưởng chiết khấu, hoa hồng cao hơn.
Lợi thế về tài chính: Những doanh nghiệp nhỏ thường gặp nhiều khó khăn để có được
tài chính và khi làm được điều đó thì chi phí tài chính thường là khá cao, do các doanh nghiệp
nhỏ được xem là rủi ra cao hơn các doanh nghiệp lớn. Các công ty lớn thường có khả năng gọi
vốn với điều kiện thuận lợi hơn (lãi suất, chi phí đi vay thấp hơn).
Lợi thế Marketing (hiệu quả tiêu thụ): thu được nhờ việc sử dụng phương tiện quảng
cáo đại chúng và mật độ sử dụng lực lượng bán hàng lớn hơn.
Lợi thế quản lý: Khi một doanh nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho các nhà quản lý
chuyên nghiệp hơn trong các nhiệm vụ công việc cụ thể (ví dụ như tiếp thị, quản lý nhân sự, tài
chính…)
Giao thông vận tải và các liên kết truyền thông được nâng cao. Khi 1 ngành hình
thành và phát triển ở 1 vùng nào đó thì chính phủ sẽ cung cấp hạ tầng giao thông vận chuyển tốt
hơn và liên kết truyền thông để tăng khả năng tiếp cận của khu vực. Khi đó sẽ giảm được chi phí
vận chuyển và thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năng.
Đào tạo và giáo dục trở nên tập trung, có được nguồn nhân lực lớn có tay nghề phù
hợp.

Page 6


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

Tại sao Việt Nam với lợi thế nhân công giá rẻ lại không phát triển được ngành phụ
trợ này như Trung Quốc?
Trung Quốc với lợi thế là những người đi trước đã chiếm lĩnh thị trường và tích lũy kinh
nghiệm, Việt Nam sẽ rất khó phát triển được khi là người đi sau, còn non trẻ và gặp rất nhiều trở
ngại.

Việc gia nhập WTO sau 148 nước, trong đó có những nước tiềm năng xuất khẩu lớn như
Thái Lan, Trung Quốc… càng làm tăng sự bất lợi của Việt Nam. Việc Trung Quốc trở thành
thành viên chính thức của WTO từ năm 2001 đã khiến Việt Nam khó khăn hơn trong việc cạnh
tranh với hàng hóa Trung Quốc vốn đang tràn ngập thị trường thế giới với giá rẻ.
Các ngành phụ trợ của Việt Nam chủ yếu cung cấp những sản phẩm có chất lượng kém
và giá thành cao vì công nghệ lạc hậu, vì quản lý kém... nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ. Các
doanh nghiệp trong nước không đủ niềm tin và ý thức tích lũy kỹ năng như: yêu cầu nâng cao
chất lượng, giá thành, thời gian giao hàng, dịch vụ, tốc độ… Các cán bộ quản lý bậc trung, cán
bộ quản lý kỹ thuật, công nhân tay nghề cao đều bị thiếu hụt và không ổn định.
=> các ngành phụ trợ quá yếu không hấp dẫn các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp sản
xuất tại Việt Nam.
Một nguyên nhân nữa là các doanh nghiệp Việt Nam thường có thói quen cái gì cũng
muốn làm từ A đến Z, ít chịu hợp tác, liên kết với các đối tác nước ngoài.
Hiện nay, công nghệ dễ lan nhanh từ nước này sang nước khác nên những nước có nguồn
lực lao động dồi dào, khéo tay và tiền lương rẻ sẽ dễ trở thành những cứ điểm sản xuất các sản
phẩm phụ có sức cạnh tranh lớn. Việt Nam rất có triển vọng cạnh tranh được trong lĩnh vực này
nhưng vì những lý do nói ở trên, Việt Nam chưa trở thành một trong những nơi sản xuất chính tại
châu Á.
V.

Câu 5:

Lý thuyết ngoại thương cho rằng tự do ngoại thương là tốt nhất và chính sách ngoại thương
tốt nhất là không có chính sách gì. Tuy nhiên trong thực tế hầu hết các quốc gia đều có rào
cản ngoại thương. Hãy giải thích tại sao các quốc gia lại làm như vậy?
Bài Làm
Trong thực tế hều hết các quốc gia đều có rào cản ngoại thương bởi vì:
- Hàng rào thương mại nhằm khuyến khích sản xuất trong nước thay thế nhập khẩu &
thúc đẩy xuất khẩu.
- Bảo vệ các doanh nghiệp trong nước trước sức ép cạnh tranh bởi các doanh nghiệp

nước ngoài.
- Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ trong nước vừa mới hình thành.
- Giảm sự tin cậy & lệ thuộc vào những nhà cung cấp nước ngoài.
- Giảm bớt những vấn đề về cán cân thanh toán.

Page 7


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương
-

Ngăn cản những công ty nước ngoài phá giá, nghĩa là bán hàng hóa với giá thấp hơn
chi phí để chiếm thị phần.
Thúc đẩy những mục tiêu chính trị như là từ chối giao dịch với những quốc gia theo
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hoặc phủ nhận quyền tự do nhân quyền.
Khuyến khích đầu tư trực tiếp trong nước & nước ngoài.

Là công cụ trừng phạt nhằm gây thiệt hại kinh tế, mà các nước có ưu thế gây ra cho nước khác
(trừng phạt kinh tế mang màu sắc chính trị).

VI.
Câu 6
Thuế nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu là những công cụ để bảo hộ sản xuất trong nước.
Hãy giải thích tại sao trong các hiệp định thương mại người ta chấp nhận thuế như công cụ
bảo hộ tạm thời nhưng hạn ngạch thì không?
Bài Làm









Hàng rào Thuế quan: Đây là một loại thuế đánh vào hàng mậu dịch, phi mậu dịch khi
hàng hóa đi qua khu vực hải quan của một nước Hiện nay, khi hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng thì các quốc gia tìm cách giảm dần và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế
quan.
Hàng rào phi thuế quan: Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang
tính cản trở đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lí, khoa học hoặc bình
đẳng. Hàng rào phi thuế quan thường được áp dụng đối với hàng nhập khẩu. Hình thức
của hàng rào phi thuế quan rất phong phú, gồm: Các biện pháp hạn chế định lượng, các
biện pháp tương đương thuế quan, các rào cản kỹ thuật, các biện pháp liên quan đến đầu
tư nước ngoài, các biện pháp quản lý hành chính, các biện pháp bảo vệ thương mại tạm
thời. Trong đó, hạn ngạch nhập khẩu thuộc các biện pháp hạn chế định lượng.
Wto và các đinh chế thương mại khu vực thường thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ
hợp pháp bởi tính rõ ràng và minh bạch của nó. Mức thuế đánh vào hàng hóa xuất nhập
khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ hải quan của một quốc gia được quy định bởi một con số cụ
thể rõ ràng. Do đó người ta có thể dễ dàng ước tính được mức độ bảo hộ của nó và từ đó
gây sự ép để điều chỉnh.
Các biện pháp hạn chế định lượng nói chung và hạn ngạch nói riêng là biện pháp dùng để
hạn chế về số lượng hoặc giá trị hàng hóa xuất khẩu, nhậu khẩu trong một thời gian nhất
định (thông thường là 1 năm). Biện pháp này bị quy đinh nghiêm ngặt và không được
chấp nhận như thuế quan vì:

Page 8



ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

Thứ nhất, nó không thể hiện tính minh bạch như thuế quan do tính pháp lý không
cao bằng thuế và thời gian quy định thông thường chỉ một năm.
 Thứ hai, hạn ngạch và các biện pháp hạn chế định lượng dễ bị biến tướng hơn thế
quan. Nhiều khi chỉ thay đổi cách gọi tên biện pháp nhưng nội dung chủ yếu vẫn
là hạn ngạch.
Thứ ba, hạn ngạch khác thuế quan ở điểm chính phủ sẽ không có thu nhập từ hạn ngạch. Khi một
hạn ngạch được dùng để hạn chế nhập khẩu thay cho thuế quan thì lượng tiền đáng ra là thu nhập
của chính phủ từ thuế quan sẽ rơi vào túi bất kỳ người nào có giấy phép nhập khẩu


VII.

Câu 7:

Khi các nước trong EU trợ cấp xuất khẩu vào Mỹ, trên bình diện chung nước Mỹ sẽ có lợi vì
người tiêu dùng Mỹ được mua hàng hóa có giá rẻ hơn. Hãy giải thích tại sao Mỹ lại sử dụng
biệp pháp thuế đối kháng thay vì cám ơn EU đã trợ cấp?
Bài Làm
Theo quan điểm của Tổ chức Thương mại Thế giới, thuế đối kháng là khoản thuế đặc biệt áp
dụng nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản ưu đãi hay trợ cấp dành trực tiếp hay gián tiếp cho
công đoạn chế biến, sản xuất hay xuất khẩu bất cứ hàng hóa nào. Mục đích áp dụng thuế đối
kháng là nhằm loại bỏ lợi ích do trợ cấp “bất hợp pháp” mang lại.
Khi trợ cấp xuất khẩu thì giá cả hàng hóa xuất khẩu các nước trong EU sẽ giảm, lúc đó giá nhập
khẩu hàng hóa tại Mỹ cũng sẽ giảm. Giá nhập khẩu giảm thì hàng hóa trong nước kém sức cạnh
tranh so với hàng xuất khẩu, gây thiệt hại đến lợi ích và ngành sản xuất nội địa của Mỹ. Chính
phủ Mỹ không đặt mục tiêu để cho người tiêu dùng mua hàng giá rẻ. Mà vì mục tiêu trợ cấp sản

xuất cho hàng hóa trong nước.
VIII.
CÂU 8:
Hãy giải thích nguyên tắc đối xử bình đẳng trong thương mại hàng hóa của GATT/ WTO?
Hãy cho một ví dụ trong thực tế vi phạm nguyên tắc này?
Bài Làm
 Nguyên tắc đối xử bình đẳng trong thương mại hàng hóa của GATT/WTO:
 Nguyên tắc tối huệ quốc (Most favoured nation - MFN): được hiểu là nếu một nước dành
cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi
đó cho tất cả các nước thành viên khác.

Page 9


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

Theo nguyên tắc này, các quốc gia không phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của
mình, cho dù đối tác đó giàu hay nghèo, mạnh hay yếu. Mỗi thành viên phải đối xử với các thành
viên khác trong tổ chức một cách công bằng, như những đối tác thương mại “ưu tiên nhất”. Nếu
một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một số ưu đãi thì nước đó phải đối xử
tương tự như vậy với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia đều “được ưu
tiên nhất”.
 Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (National Treatment - NT): được hiểu là hàng hóa nhập khẩu
nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước.
Theo nguyên tắc này, khi áp dụng những qui chế trong nước và thuế nội địa đối với hàng
nhập khẩu, thì cũng phải cung cấp các điều kiện tương tự đối với sản phẩm trong nước. Vì thế
các thành viên của WTO không được áp dụng thuế nội địa để bảo vệ hàng sản xuất trong nước và
không được phân biệt đối xử với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên WTO.

Ví dụ thực tế việc các nước vi phạm nguyên tắc này:
Trong vụ Mỹ kiện Thái Lan về những hạn chế số lượng và tăng thuế tiêu thụ đánh vào thuốc
lá điếu nhập khẩu, nhóm chuyên gia của GATT đã quyết định rằng chính phủ Thái Lan có quyền
thành lập "Thai Tobacco Monopoly" là công ty của nhà nước độc quyền trong lĩnh vực nhập
khẩu và phân phối thuốc lá ở Thái lan và có quyền sử dụng công ty này để điều chỉnh giá và hệ
thống bán lẻ thuốc lá. Tuy nhiên, ngựoc lại,Thái Lan cũng có nghĩa vụ theo đãi ngộ quốc gia
không được đối xử với thuốc lá nhập khẩu kém ưu đãi hơn so với thuốc lá sản xuất trong nước.
Vì vậy, việc Thái lan hạn chế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thuốc lá ngoại và tăng thuế tiêu thụ
nội điạ căn cứ vào tỷ lệ "nội hoá" trong thuốc lá là vi phạm Điều III của GATT về đãi ngộ quốc
gia. Bồi thẩm đoàn của GATT đồng thời cũng bác bỏ lập luận của Thái lan viện dẫn điều khoản
cho phép hạn chế số lượng vì lý do sức khoẻ vì cho rằng mục tiêu thực sự của chính phủ Thái lan
không phải là để hạn chế việc tiêu thụ thuốc lá nói chung (việc hạn chế nhập khẩu và tăng thuế
không áp dụng đối với sợi và giấy để sản xuất thuốc lá nội địa) mà thực chất là nhằm bảo hộ
ngành sản xuất thuốc lá của Thái lan.
IX.

Câu 9:

Trong chiến lược kinh doanh toàn cầu, hầu hết các công ty torng ngành thâm dụng lao
động- may mặc và giầy dép sử dụng các hợp đồng thuê ngoài đối với những nước dồi dào lao
động như Việt Nam, nhưng các ngành thâm dụng vốn các công ty thường đầu tư trực tiếp
thay vì hợp đồng gia công. Hãy giải thích tại sao có sự khác biệt về chiến lược này?
Bài Làm
Ngày nay, các công ty FDI sẽ đầu tư vào những ngành thâm dụng lao động bằng những hợp
đồng gia công hay thuê ngoài tại các nước nghèo, đang phát triển với lí do chính là do giá nhân
công rẻ, đây là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, và những tập đoàn đa quốc gia này sẽ dành vốn ,
nguồn lực để phát triển nhiều hơn về công nghệ, đối vối những ngành thâm dụng lao động không
đòi hỏi kỹ năng, công nghệ kỹ thuật của người lao động cao. Đây cũng là thực trạng đối vối
nguồn lao động của Việt Nam không có tay nghề chuyên môn cao, chủ yếu vẫn là lao động phổ


Page
10


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

thông… Ngoài ra, Chi phí cho dịch vụ thuê ngoài thường thấp hơn so với chi phí đầu tư trực tiếp.
Các công ty đa quốc gia sẽ không phải trả thêm khoản thuế thu nhập cá nhân cho nhân viên, đó
là chưa kể các khoản tiền đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, tiền quản lý…Tiết kiệm chỗ ngồi
làm việc: Việc tạo dựng cơ cấu tổ chức nhân sự làm việc toàn phần trong doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp đòi hỏi phải có đủ diện tích văn phòng, các trang thiết bị làm việc… Việc kiểm soát
thông qua hợp đồng.
Đối với những ngành thâm dụng vốn, các công ty FDI thường chọn đầu tư trực tiếp do năng lực
hấp thu FDI của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu về mặt phát triển khoa học công nghệ,
trình độ quản lý, nhân công có kỹ năng không cao. Ngoài ra còn những lý do khác liên quan đến
thị trường mà dẫn đến quyết định đầu tư trực tiếp và nắm quyền kiểm soát trực tiếp bằng biện
pháp hành chính thay cho việc sử dụng hợp đồng thuê ngoài:
-

Thị trường ở Việt Nam chưa thật sự là một nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo, nhiều
thông tin bất cân xứng.
Chi Phí giao dịch trên thị trường cao khi sử dụng hợp đồng thuê ngoài:
+ Khó tìm kiếm được nhà cung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được yêu cầu.
+ Do thông tin bất cân xứng làm cho việc soạn thảo hợp đồng thuê ngoài khó khăn,
không đầy đủ,không lường trước được những chuyện xảy ra trong tương lai. Những
khoảng trống trong hợp đồng, làm cho bên cung cấp tận dụng và làm cho bên công ty
FDI bị thiệt hại trong trường hợp thất bại thị trường xảy ra. Tình thế thắt chặt. Chi phí
sang lọc thông tin bị chê giấu cao.

+ Việc kiểm soát khó khăn, chi phí cao…
+ Sự khác biệt về cơ chế pháp luật giữa nước ngoài và Việt Nam, chi phí kiện tụng
cao nếu trong trường hợp một bên vi phạm hợp đồng.
+ Vấn đề sở hữu công nghệ, phát minh, sáng chế.

X.

Câu 10 :

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là gì? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự lựa chọn vị trí đầu
tư của các công ty đa quốc gia? Hãy giải thích tại sao ở Việt Nam trong các ngành thâm dụng
vốn các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng các ngành thâm dụng lao
động các công ty lại sử dụng các hợp đồng gia công quốc tế?
Bài Làm
1.1. Khái
niệm
FDI
- Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những quan
hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi
ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực

Page
11


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tếđó.

- Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về
FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các
công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc
vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ
phận: vốn cở phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
- Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước
này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà
đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực
thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
- Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoái hoặc
bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở
hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
theo
quy
định
của
luật
này”
- Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một doanh nghiệp đầu
tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà
đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu
chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không
phải tất cả các QG nào đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có
những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10%
nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn
nhưng
vẫn
chỉ


người
đầu

gián
tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như
sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nươc
khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu
và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa
hoá
lợi
ích
của
mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc,
thiết bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp đòng và giáy phép có giá trị …), tài
sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính
(cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan
hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản
trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động
sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư.

1.2. Những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự lựa chọn vị trí đầu tư của các công ty đa quốc gia
+ Môi trường kinh tế

Page
12


ME5A


Chính Sách Ngoại Thương

Với điều kiện của từng nước mà các nhà đầu tư quyết định tham gia vào từng khu vực với từng
dự án cho phù hợp với điều kiện của nước đó như về điều kiện kinh tế:GDP,GDP/đầu người,tốc
độ tăng trưởng kinh tế,cơ cấu các ngành…
Nói chung để quyết định đầu tư và một quốc gia nào đó các nhà đầu tư phải cân nhắc xem điều
kiện kinh tế tại nước sở tạị có đáp ứng được yêu cầu về mặt kinh tế cho dự án của mình phát
triển và tồn tại hay không. Chẳng hạn như thu nhập bình quân đầu người nếu quá thấp thì sẽ ảnh
hưởng tới đầu ra của sản phẩm vì người dân sẽ không có tiền để mua sản phẩm đó, cơ cấu các
ngành trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt đông đầu tư của các nhà đầu tư vì
với cơ cấu của nền kinh tế thiên về những ngành công nghiệp chế tạo hay công nghiệp cơ khí.
Cơ chế kinh tế của nước sở tại, điều này ảnh hưởng rất lớn tới xu hướng đầu tư, cơ chế không
phù hợp sẽ là rào cản đối với họ, nếu giờ chúng ta vẫn còn giữ cơ chế tập chung thì thành phần
kinh tế quốc doanh vẫn là chủ yếu thì sẽ không thể chấp nhận một dự án đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài được hơn nữa các nhà đầu tư không dại gì mà đầu tư vào một quốc gia như thế bởi họ
không được hoan nghênh và còn phải cạnh tranh với doanh nghiệp quốc doanh
+ Về tình hình chính trị
Các nhà đầu tư thường tìm đến những quốc gia mà họ cảm thấy yên tâm không có những biến
động về chính trị vì chính trị không ổn định sẽ ảnh hưởng tới dự án của mình và nhất là xác suất
về rủi ro là rất cao, có thể dự án sẽ không tiếp tục được thực hiện và không có cơ hội sinh lời,
thậm chí còn có thể sẽ mất khả năng thu hồi vốn. Các biến động về chính trị có thể làm thiệt hại
cho các nhà đầu tư do có những quy định đưa ra sẽ khác nhau khi có những biến động chính trị
vì khí thể chế thay đổi thì các quy định và các luật có liên quan cũng hoàn toàn thay đổi và
những hiệp định ký kết giữa hai bên sẽ không còn do đó các nhà đầu tư phải gánh chịu hoàn toàn
những bất lợi khi xẩy ra biến động chính trị. Khi có chiến tranh xẩy ra sẽ khiến cho các hoạt
động kinh doanh ngừng trệ và có thể gây ra thiệt hại về cơ sở vật chất.
Đây là yếu tố thường được các nhà đầu tư nước ngoài phải thường xuyên quan tâm theo dõi
trước khi có nên quyết định đầu tư vào quốc gia này hay không. Những bất ổn về chính trị không
chỉ làm cho nguồn vốn đầu tư bị kẹt mà còn có thể không thu lại được hoặc bị chảy ngựơc ra

ngoài .
Nhân tố tác động này không chỉ bao gồm các yêu cầu như bảo đảm an toàn về mặt chính trị xã
hội mà còn phải tạo ra được tâm lý dư luận tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài .Bất kể sự không
ổn định chính trị nào .Các xung đột khu vực, nội chiến hay sự hoài nghi, thiếu thiện cảm từ phía
các nhà đầu tư đối với chính quyền các nước sở tại đều là những yếu tố nhậy cảm tác động tiêu
cực tới tâm lý các nhà đầu tư có ý định tham gia đầu tư
Trong giai đoạn hiện nay nước ta được coi là một nước có tình hình chính trị ổn định nhất, đây là
lợi thế rất lớn cho chúng ta và chúng ta phải luôn tạo ra được sự tin tưởng từ phía các đối tác

Page
13


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

+ Môi trường văn hoá
Môi trường văn hoá cũng ảnh hưởng ít nhiều đến đầu tư nước ngoài, ví dụ sau sự kiện ngày
11/9/2001 tất cả các nhà đầu tư từ Mỹ và cả thế giới khi tìm tới đầu tư tại một nước có dân số là
đạo hồi đều rất dè dặt . Đây là yếu tố rất nhạy cảm mà các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm , theo đó
các nhà đầu tư xem xét xem có nên đầu tư vào quốc gia này hay không .
+ Yếu tố Luật pháp
Luật pháp là những quy định đã được quốc hội thông qua, bắt buộc mọi người phải tuân theo và
kể cả các đối tác tham gia đầu tư vào nước đó cũng phải tuân theo điều này. Để quyết định tham
gia đầu tư vào một nước nào đó các nhà đầu tư phải xem xét rất kỹ về yếu tố này vì nó liên quan
trực tiếp tới cách thức thực hiện đầu tư dự án của mình mà còn ảnh hưởng tới phương án kinh
doanh của mình trong tương lai. Các quốc gia muốn thu hút được các nhà đầu tư tham gia đầu tư
vào nước mình thì phải bằng cách nào đó từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình đặc
biệt là hoàn thiện hệ thông luật đầu tư nước ngoài .

Ngoài sự kín kẽ không sơ xuất của hệ thống luật đầu tư không có khe hở thì các nhà làm luật Việt
Nam cũng còn phải chú ý tới các quy định để không quá khắt khe đối với nhà đầu tư
Hệ thống pháp luật là thành phần quan trọng trong môi trường đầu tư bao gồm các văn bản luật
các văn bản quản lý hoạt động đầu tư nhằm tạo nên hành lang pháp lý đồng bộ và thuận lợi nhất
cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Các yếu tố quy định trong pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn cho
các nhà đầu tư, bảo đảm pháp lý đối với tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh,
đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư được dễ dàng . Nội dung của hệ
thống luật ngày càng đồng bộ , chặt chẽ , không chồng chéo , phù hợp với luật pháp và thông lệ
quốc tế thì khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư sẽ cao hơn hiện nay rất nhiều
+ Mức độ hoàn thiện của chính sách
Qua thời gian thực hiện và điều chỉnh sẽ làm cho các chính sách dần hoàn thiện và phù hợp, với
những quốc gia có kinh nghiệm trong thu FDI thì họ đã phải trải qua nhiều thời gian thực hiện
chính sách chính vì thế mà họ đã có được những kinh nghiệm trong lĩnh vực này, không chỉ thu
hút được nhiều dự án đầu tư mà còn khiến cho các dự án đầu tư phát huy hết những ưu điểm của
mình, đóng góp nhiều hơn vào thu nhập ngân sách , góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã
hội ,thu được những kết quả hết sức to lớn trong lĩnh vực này. Với các nước mới thực hiện Chính
sách đầu tư do kinh nghiệm còn ít trong lĩng vực này và chưa hoàn thiện chính sách thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài thì đóng góp của nó không phải nhiều song những gì mà đầu tư trực
tiếp nước ngoài mang lại không phải là nhỏ, nếu đưa ra được chính sách đầu tư hợp lý không

Page
14


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

những sẽ thu hút được nhiều vốn mà còn làm cho các dự án phát huy hết hiệu quả của mình, góp

phần vào phát triển kinh tế xã hội trong tương lai và từng bước tạo nền tảng kinh tế vững trắc
phục vụ cho nền kinh tế có đà phát triển tốt hơn .
Không chỉ chính sách đầu tư mà sự kết hợp chính sách này với những chính sách khác một cách
hợp lý và nhịp nhàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thu hút vốn đầu tư .
Chính sách thương mại thông thoáng theo hướng tự do hoá để bảo đảm khả năng xuất nhập khẩu
về vốn cũng như về máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất được tiến hành một cách rễ ràng hơn,
giúp các nhà đầu tư thực hiện các công đoạn đầu tư được một cách liên tục và không bị gián
đoạn, điều này sẽ tạo ra được sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Các chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ để nhà
đầu tư nhìn vào nền kinh tế với một cách nhìn khả quan hơn .
Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu
tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận ở một thị trường nhất định.
+ Các ưu đãi của nhà nước
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Mức thuế đánh vào thu nhập của các doanh nghiệp cũng ảnh
hưởng không nhỏ tới dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào trong nước bởi nó liên quan tới
việc ăn chia lợi nhuận của nhà đầu tư với các bên đối tác, sự hấp dẫn của chính sách là làm sao
cho các dự án có vốn đầu tư trực tiếp đóng góp nhiều nhất có thể vào ngân sách nhưng phải đảm
bảo vẫn phải hấp dẫn được các nhà đầu tư. Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng với các dự án có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao thấp sẽ ảnh hưởng tới dòng chảy của FDI vào trong nước .
Thuế nhập khẩu vốn, máy móc trang thiết bị, nguyên liệu vật liệu: Đây là những yếu tố liên quan
tới đầu vào của doanh nghiệp thực hiện đầu tư, nếu có sự khuyến khích giảm mức thuế đối với
các yếu tố kể trên thì sẽ làm cho đầu vào của các dự án giam xuống do đó làm tăng lợi thế của
các dự án đầu tư vì thế mà số lượng các dự án sẽ tăng và trang thiết bị cũng như vốn sẽ được đưa
vào nhiều hơn .
Thuế đánh vào các khoản lợi nhuận luân chuyển ra nước ngoài
Ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính giành cho đầu tư
nước ngoài, mức ưu đãi thuế cao hơn là động lực lớn khuyến khích các nhà đầu tư tìm tới, vì thế
cần áp dụng sự ưu đãi này với những mức khác nhau cho từng loại dự án và áp dụng với mức
thấp nhất có thể, đặc biệt đối với các dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn dài
hạn, sử dụng nhiều nguyên liệu vật liệu và lao động trong nước .


Page
15


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

Chính sách đầu tư phải đảm bảo cho các nhà đầu tư nhận thấy khi tham gia đầu tư, họ sẽ thu
được lợi nhuận cao nhất trong điều kiên kinh doanh chung của khu vực để khuyến khích các nhà
đầu tư tìm tới như một điểm tin cậy và có nhiều cơ hội để phát triển nguồn vốn của mình .
+ Các yếu tố thuộc nền hành chính
Mỗi quốc gia có con đường chính trị riêng của mình và kèm theo đó là đường lối phát triển kinh
tế đặc thù của quốc gia đó. Do đó thể chế nền hành chính cũng khác nhau. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là hình thức đầu tư xuyên quốc gia do đó nhà đầu tư khi tham gia đầu tư vào quốc gia thì
phải tuân thủ theo những quy định của quốc gia đó. Một thể chế hành chính phù hợp sẽ đem lại
những thuận lợi hết sức lớn cho quá trình hội nhập cũng như tiếp nhận FDI, thủ tục hành chính
quá rắc rối như thủ tục cấp giấy phép có liên quan trong thực hiện đầu tư dự án, thời gian cấp
giấy phép quá lâu gây lãng phí thời gian vô lý và thậm chí còn gây thiệt hại về kinh tế, làm mất
cơ hội của các nhà đầu tư. Điều này sẽ gây tâm lý không tốt từ phía các nhà đầu tư và có cái nhìn
không tốt đối với điều kiện đầu tư ở nước đó.

+ Các yếu tố thuộc thể chế luật pháp
Luật pháp kín kẽ đầy đủ sẽ giúp cho các nhà quản lý quản lý chặt chẽ được các hoạt động kinh tế
và sẽ giảm bớt những rủi ro trong các hoạt động kinh tế của các nhà đầu tư, hơn nữa còn giúp
cho các nhà quản lý giải quyết một cách thoả đáng đối với những tiêu cực, tranh chấp phát sinh.
Hệ thông luật pháp rõ ràng và kín kẽ sẽ tạo được tâm lý yên tâm của bên đầu tư đối với bên đối
tác .
+ Hệ thống giao thông thông tin liên lạc

Các nước phát triển trên thế giới rất quan tâm đầu tư phát triển hệ thống giao thông đường bộ hệ
thống sân bay, bến cảng, cầu cống bởi đây chính là vấn đề quan trọng hàng đầu trong chiến lược
phát triển một nền kinh tế vững mạnh. Hệ thống giao thông có phát triển thì mới làm cho các dự
án các công trình được triển khai và đi vào thực hiện vì đây được coi là huyết mạch lưu thông
của nền kinh tế, nếu hệ thôngnày hoạt động kém có nghĩa là các hoạt động kinh tế cũng bị ảnh
hưởng và không thể tiến nhanh được, các dự án đầu tư không nằm ngoài quy luật đó nên cũng
chịu ảnh hưởng của sự phát triển hệ thông giao thông và hệ thống thông tin liên lạc. Các nhà đầu
tư quan tâm tới điều này bởi vì nó có ảnh hưởng tới tính khả thi của dự án và liên quan tới tương
lai của dự án mà họ sẽ quyết định kinh doanh. Các nước trên thế giới đa phần là tận dụng nguôn
vốn đầu tư phát triển và hỗ trợ để đầu tư xây dựng phát triển và hoàn thiện, nâng cao hệ thống cơ
sở hạ tầng này

Page
16


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương
+ Hệ thống cung cấp điện nước

Đây cũng là một yếu tố quan trong trong chiến lược cải thiện môi trường nhằm thu hút FDI, nếu
không có các yếu tố nầy thì sẽ không thể thực hiện được dự án, hệ thống lưới điện cần phải được
đưa tới tất cả các vùng và được bố chí đầy đủ hợp lý ,thuận tiên cho các dự án phát triển và đi
vào thực hiện. Các yếu tố về hệ thống lưới điện hoàn thiện và nguồn nước được cung cấp tận nơi
sẽ khuến khích các dự án tìm tới vì ở nơi đó cũng có điều kiện tương tự như các vùng khác và
còn có thể tốt hơn .
+ Các khu chế xuất , khu công nghiệp
Với nhiều dự án để có thể triển khai được, nó đòi hỏi những điều kiện hết sức khắt khe và không
thể nơi nào cũng có thể đáp ứng được, các nước sở tại phải tiến hành đầu tư xây dựng các khu

chế xuất và các khu công nghiệp đặc biệt và trong đó có đầy đủ các điều kiện có thể đáp ứng đầy
đủ các điều kiện mà dự án đặt ra. Với những khu công nghiệp hiện đại này có thể tập chung rất
nhiều dự án và có nhiều vốn, các dự án khác nhau này có thể hỗ trợ và cung cấp các đầu vào và
tiêu thụ đầu ra cho nhau chính vì thế các khu chế xuất là nơi rất tốt để thu hút vốn đầu tư. Quốc
gia nào có nhiêu khu công nghiệp khu chế xuất hiện đại thì sẽ thu hút được nhiều dự án đầu tư
1.3 Hãy giải thích tại sao ở Việt Nam trong các ngành thâm dụng vốn các công ty đa quốc

gia đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng các ngành thâm dụng lao động các công ty lại sử
dụng
các
hợp
đồng
gia
công
quốc
tế?
Thâm dụng vốn: Tăng sản lượng bằng cách tận dụng phương tiện sản xuất hiện có
Thâm dụng lao động (thâm dụng nguyên liệu): Tăng sản lượng bằng cách sử dụng nhiều lao
động
Gia công quốc tế là một phương thức giao dịch trong đó người đặt gia công cung cấp
nguyên liệu, định mức , tiêu chuẩn kỹ thuật, bên nhận gia công tổ chức sản xuất sau đó giao
lại sản phẩm và được nhận một khoản tiền công tương đương với lượng lao động hao phí để
làm
ra
sản
phẩm
đó,
gọi

phí

gia
công
Gia công quốc tế ngày nay là phương thức giao dịch khá phổ biến trong buôn bán quốc tế của
nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ lợi dụng được giá rẻ về
nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương
thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân trong nước và có thể nhận được
thiết bị hay công nghệ mới về nước mình,giúp họ phần nào trong công cuộc xây dựng nền
công
nghiệp
dân
tộc
Câu
hỏi
được
hiểu
là:
1. Tại sao các công ty đa quốc gia chọn đầu tư trực tiếp vào Ngành thâm dụng vốn?
2. Tại sao các công ty đa quốc gia chọn sử dụng các hợp đồng gia công quốc tế vào Ngành
thâm
dụng
lao
động?

Page
17


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương


"Một bất cập khá rõ nét là cho đến nay, các dự án FDI ở Việt Nam dường như có khuynh
hướng tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu và ít dùng lao động, chứ không phải là
vào những ngành hướng về xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động, như mong muốn của chúng
ta. Số liệu thống kê cho thấy, trong khi tỷ trọng của FDI trong ngành công nghiệp khá cao
(chiếm gần 40% giá trị sản xuất toàn ngành - số liệu năm 2000) nhưng lại chỉ chiếm khoảng
10% tổng lực lượng lao động công nghiệp. Dĩ nhiên, điều này có một phần là do năng suất
lao động của các doanh nghiệp FDI cao hơn các thành phần kinh tế khác, nhưng chắc chắn
không chỉ vì như vậy. Thêm vào đó, tỷ trọng của FDI trong tổng nhập khẩu cao hơn trong
tổng xuất khẩu. Rõ ràng là các doanh nghiệp FDI nhập khẩu nhiều nguyên liệu và thiết bị để
phục vụ cho cả các dự án đầu tư hướng về xuất khẩu, nhưng nếu phần lớn FDI là hướng về
xuất khẩu thì tỷ lệ của FDI trong nhập khẩu sẽ thấp hơn nhiều. Một biểu hiện khác của
khuynh hướng này là các dự án FDI tập trung khá nhiều ở một số vùng xung quanh các thành
phố lớn (như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Bình Dương,...) là những thị
trường nội địa lớn, nằm sâu trong lãnh thổ; trong khi đó, những khu kinh tế cửa khẩu hoặc
những vùng ven biển, vốn thuận lợi cho xuất khẩu, thì lại thu hút được tương đối ít vốn FDI.
Ở đây có lý do là chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ ở những vùng xa đô thị lớn không đáp
ứng được yêu cầu của nhà đầu tư; song phải thấy một thực tế khác là phần lớn lao động hiện
đang làm việc tại các khu công nghiệp xung quanh Thành phố Hồ Chí Minh đều là người
ngoại tỉnh. Từ đó, một câu hỏi được đặt ra là phải chăng vừa qua nguồn vốn FDI đầu tư vào
Việt Nam không hướng vào xuất khẩu, như ở các quốc gia "con rồng Đông Á" trước đây, mà
hướng vào phục vụ thị trường nội địa, vừa còn khan hiếm hàng hóa vừa còn được sự bảo hộ
của
Nhà
nước.
Một hệ quả bất lợi khác của thực tế các dự án FDI quá tập trung ở một số địa bàn nói trên là
đã tạo thành một sức ép đối với Chính phủ Việt Nam trong việc phân bổ vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước nhằm bảo đảm tính cân bằng theo vùng lãnh thổ; vô hình chung đã tác động
thêm khiến cho đầu tư của Nhà nước thiếu hiệu quả và mang tính dàn trải. Khả năng tạo việc
làm, cả trực tiếp và gián tiếp, của khu vực FDI thời gian qua được đánh giá là còn thấp. Số

liệu thống kê cho thấy, số lao động đang làm việc trong khu vực này chỉ khoảng 850 nghìn
người, chiếm khoảng 1,5% tổng lực lượng lao động xã hội; trong khi tỷ trọng vốn FDI trong
tổng vốn đầu tư xã hội là trên 15%. Thực tế này càng làm rõ thêm nhận định nêu trên là vừa
qua các dự án FDI chủ yếu được đầu tư vào những ngành thâm dụng vốn, sản xuất để phục
vụ thị trường nội địa, cạnh tranh với chính các doanh nghiệp trong nước, chứ không khai thác
nhiều lợi thế lao động rẻ của Việt Nam để cạnh tranh trên thị trường quốc tế (trích
trong NCEIF )"

Page
18


ME5A

Chính Sách Ngoại Thương

XI.

Câu 11:

Việc thu hút FDI là cần thiết cho phát triển công nghiệp đối với những nước đang phát triển
như Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tuy nhiên, lợi ích mang lại từ FDI lại phụ thuộc
vào năng lực hấp thu vốn. Việt Nam cần phải làm gì để tận dụng được lợi ích từ luồng FDI?
Bài Làm

 Để tận dụng được lợi ích từ nguồn vốn FDI, Việt Nam cần phải:
- Cải thiện thủ tục hành chính. VN còn hạn chế nhiều ở khâu này, các thủ tục qui định vừa
lỏng lẻo vừa chồng chéo nhau, mỗi địa phương làm 1 kiểu, không có sự thống nhất gây ra
nhiều phiền phức cho các DN nước ngoài khi đầu tư vào VN. Bên cạnh đó chí phí giao
dịch của Vn còn quá cao.

- Công tác giải phóng mặt bằng phải được chú trọng.
- Môi trường kinh doanh phải bình đẳng. Hiện nay có sự phân biệt giữa DN trong nước và
nước ngoài.
- Chú trọng đến đào tạo nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực VN hiện nay thừa lao động giản
đơn nhưng thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao và kỹ năng.
- Cải thiện kết cấu cơ sở hạ tầng, giao thông, hệ thống viễn thông...

Page
19



×