Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

DI TÍCH BẾN CỐNG CÁI TRONG HỆ THỐNG THƯƠNG CẢNG VÂN ĐỒN (QUẢNG NINH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.22 MB, 161 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ THANH NGA
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình tổng hợp và nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa học chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

DI TÍCH BẾN CỐNG CÁI TRONG HỆ THỐNG THƯƠNG CẢNG
VÂN ĐỒN (QUẢNG NINH)
Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Thị Thanh Nga

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHẢO CỔ HỌC

I


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn khảo cổ này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới
các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Khảo cổ học, Học Viện Khoa học xã hội đã giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Lê Thị Liên, người thầy đã định
hướng và luôn giúp đỡ, tân tâm dạy dỗ tôi trong suốt quá trình thu thập tư liệu,
nghiên cứu đề tài này, ngay từ ý tưởng ban đầu cho tới khi hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Khảo cổ học, Trung tâm
Nghiên cứu Khảo cổ học Dưới nước, phòng Thư viện…. đã tạo điều kiện về thời


gian và tài liệu để hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Quảng Ninh, chính
quyền xã Quan Lạn, xã Minh Châu, xã Thắng Lợi, huyện Vân Đồn đã tạo điều kiện
cho tôi cùng đoàn nghiên cứu của Viện Khảo cổ học được khảo sát và khai quật trên
địa bàn các xã từ năm 2014 đến nay.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, người thân đã động
viên, giúp đỡ và tạo cho tôi những điều kiện tốt nhất trong suốt thời gian học tập
vừa qua.
Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2019
Tác giả Luận văn

Đinh Thị Thanh Nga

II


MỤC LỤC
Mở đầu………………………………………………………………………….....1
Chương 1: Tổng quan tư liệu về thương cảng Vân Đồn và di tích bến Cống
Cái………………………………………………………………………………...11
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của thương cảng Vân Đồn và di tích bến Cống
Cái………………………………...........................................................................11
1.2. Lịch sử hình thành thương cảng Vân Đồn và vị trí địa - lịch sử qua sử liệu..15
1.3. Các cuộc khảo sát và khai quật tại di tích bến Cống Cái……….……………18
1.3.1. Khảo sát năm 2012-2013…………………………………..……………....18
1.3.2. Khảo sát năm 2014…………………………………………………………20
1.3.3. Khảo sát và khai quật năm 2016-2017…………………………………..21
1.3.4. Khảo sát năm 2018………………………………………………………….23
1.3.5. Khảo sát năm 2019………………………………………………………….23
1.4. Tiểu kết chương 1………………………………………………………….....25

Chương 2: Di tích bến Cống Cái qua tư liệu khảo cổ học…………………….27
2.1. Đặc trưng di tích……………………………………………………………...27
2.1.1. Bến cảng……………………………………………………………………...27
2.1.2. Đặc điểm tầng văn hóa……………………………………………………..29
2.1.3. Dấu tích kiến trúc……………………………………………………………30
2.1.4. Di tích hố đất đen…………………………………………………………...33
2.2. Đặc trưng di vật………………………………………………………………34
2.2.1. Đồ gốm men………………………………………………………………….35
2.2.2. Đồ gốm có áo………………………………………………………………..48
2.2.3. Đồ sành mịn………………………………………………………………….49
2.2.4. Đồ đất nung………………………………………………………………….52
2.2.5. Đồ kim loại……………………………………………………………...…...54
2.2.6. Các loại hiện vật khác………………………………………………………55
2.3. Tiểu kết chương 2…………………………………………………………….56
Chương 3: Vị trị bến Cống Cái trong bối cảnh thương cảng Vân Đồn………60
3.1. Mối quan hệ với các khu vực khác của thương cảng Vân Đồn………………60
3.2. Vai trò của di tích bến Cống Cái trong kháng chiến chống Mông - Nguyên...70
3.3. Tiểu kết chương 3………………………………………………………….....73
KẾT LUẬN………………………………………………………………………74
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………77
PHỤ LỤC………………………………………………………………………...87

III


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
a

Ảnh


B

Bảng

Ba

Bản ảnh

Bd

Bản dập



Bản đồ

BQL

Ban quản lý

BP

Cách ngày nay

Bv

Bản vẽ

CDTTĐ


Các di tích trọng điểm

h

Hình

H

Hố

HTS

Hố thám sát

KXĐ

Không xác định

L

Lớp

LM

Lớp mặt

Nxb

Nhà xuất bản


PL

Phụ lục



Sơ đồ

SCN

Sau Công Nguyên

TCN

Trước Công Nguyên

TK

Thế kỷ

Tr.

Trang

IV


DANH MỤC BẢNG BIỂU, BẢN ĐỒ, S Ơ ĐỒ, BẢN VẼ, BẢN DẬP VÀ BẢN ẢNH
I. DANH MỤC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG TRONG CHÍNH VĂN
Bảng 2.1:

Tổng hợp hiện vật xuất lộ tại bến Cống Cái năm 2014-2017
Bảng 2.2:

Niên đại nhóm gốm men Việt Nam trong đợt khai quật tháng 8/2016

Bảng 2.3:

Niên đại nhóm gốm men Việt Nam trong đợt khai quật tháng 8/2016

Bảng 2.4:

Niên đại hiện vật lon/vại qua đợt khai quật năm 2016

Bảng 2.5:

Các kỹ thuật tạo hoa văn thân sành mịn trong đợt khai quật năm 2016

Biểu đồ 2.1: Số lượng hiện vật xuất lộ tại bến Cống Cái năm 2014-2017
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ các dòng gốm men Việt Nam trong đợt khai quật năm 2016
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các dòng gốm men Trung Quốc trong đợt khai quật năm 2016
Hình 2.1:

Một số loại hình chính của gốm men Việt Nam

Hình 2.2:

Diễn tiến niên đại gốm men Việt Nam thời Trần

Hình 2.3:


Diễn tiến kỹ thuật tạo dáng trên lon sành mịn

II. DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ, BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ, BẢN VẼ, BẢN DẬP
VÀ BẢN ẢNH TRONG PHỤ LỤC
1. BẢNG THỐNG KÊ:
Phụ lục 1: Bảng thống kê hiện vật khảo sát năm 2014 tại di tích bến Cống Cái
Phụ lục 2: Bảng thống kê hiện vật khảo sát tháng 3 năm 2016 tại di tích bến
Cống Cái
Phụ lục 3: Bảng thống kê hiện vật khảo sát năm 2017 tại di tích bến Cống Cái
Phụ lục 4: Bảng thống kê hiện vật khai quật tháng 8/2016 tại di tích bến Cống
Cái
Phụ lục 5: Bảng thống kê các dòng gốm men Việt Nam khai quật tháng 8/2016
Phụ lục 6: Bảng thống kê các dòng gốm men Trung Quốc khai quật tháng
8/2016
Phụ lục 7: Bảng thống kê tiền đồng năm 2014-2017
Phụ lục 8: Bảng thống kê hiện vật sắt khai quật tháng 8/2016 tại di tích bến
Cống Cái
2. BẢN ĐỒ-SƠ ĐỒ:
Phụ lục 9:
Bản đồ huyện Vân Đồn
Phụ lục 10: Bản đồ khu vực khảo sát di tích bến Cống Cái năm 2014
Phụ lục 11: Bản đồ khu vực khảo sát di tích Mang Thúng năm 2014
V


Phụ lục 12:
Phụ lục 13:
Phụ lục 14:
Phụ lục 15:
Phụ lục 16:


Bản đồ vị trí các hố thám sát và khai quật tại khu vực phía bắc bến
Cống Cái năm 2014-2017
Bản đồ vị trí các hố thám sát và khai quật tại khu vực thung lũng Sơn
Hào năm 2014-2017
Sơ đồ khu vực khảo sát bằng máy dò kim loại và các hố thăm dò tháng
3/2016
Sơ đồ vị trí các hố khai quật tại di tích bến Cống Cái năm 2016
Bản đồ vị trí các viên đá buộc thuyền và Giếng Đình tại bến Cống Cái

Phụ lục 17: Sơ đồ vị trí ô lưới Grid và hố kiểm tra tại di tích Sơn Hào năm 2019
Phụ lục 18: Bản đồ các di tích thuộc xã Quan Lạn và Minh Châu
Phụ lục 19: Bản đồ các di tích trên đảo Thừa Cống
Phụ lục 20: Bản đồ các cụm di tích thuộc hệ thống thương cảng Vân Đồn
Phụ lục 21: Sơ đồ hành trình hàng hải đi qua Vân Đồn
3. BẢN ẢNH - BẢN VẼ:
Phụ lục 22: Ảnh khảo sát năm 2012, 2014, 2015, 2016 tại bến Cống Cái
Phụ lục 23: Bản vẽ địa tầng khảo sát năm 2014 tại di tích bến Cống Cái
Phụ lục 24: Bản vẽ hố 16SH.TS1
Phụ lục 25: Bản vẽ hố 16SH.TS2, TS3
Phụ lục 26: Bản vẽ hố 16SH.TS4, TS5, TS6
Phụ lục 27: Ảnh khai quật hố H1, H2, H3 năm 2016 tại bến Cống Cái
Phụ lục 28: Ảnh khai quật hố H4, H5 năm 2016
Phụ lục 29: Ảnh hố thám sát TS1, TS3, TS6, TS7, TS8 năm 2016
Phụ lục 30: Ảnh di tích Giếng Đình và đá neo thuyền
Phụ lục 31: Ảnh một số di tích khác trong hệ thống thương cảng Vân Đồn
Phụ lục 32: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H1
Phụ lục 33: Bản vẽ mặt bằng và địa tầng hố 16SH.H1
Phụ lục 34: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H2.L2-L5
Phụ lục 35: Bản vẽ mặt cắt vách bắc hố 16SH.H3

Phụ lục 36: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H3, 17SH.TS2, 17SH.TS3
Phụ lục 37: Ảnh 3D mặt bằng hố 16SH.H3, 17SH.TS1, TS2
Phụ lục 38: Bản vẽ hố 16SH.H4
Phụ lục 39: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H5
Phụ lục 40: Bản vẽ mặt cắt vách Bắc hố H5
Phụ lục 41: Bản vẽ địa tầng hố 16SH.H5, TS8
Phụ lục 42: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam
Phụ lục 43: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam

VI


Phụ lục 44: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam
Phụ lục 45: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam
Phụ lục 46: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam
Phụ lục 47: Ảnh-bản vẽ gốm men nâu, ngọc, hoa nâu Việt Nam
Phụ lục 48: Ảnh-bản vẽ gốm hoa lam Việt Nam
Phụ lục 49: Ảnh-bản vẽ gốm hoa lam Việt Nam
Phụ lục 50: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Trung Quốc
Phụ lục 51: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Trung Quốc
Phụ lục 52: Ảnh-bản vẽ gốm men ngọc Trung Quốc
Phụ lục 53: Ảnh-bản vẽ gốm men ngọc Trung Quốc
Phụ lục 54: Ảnh-bản vẽ gốm men nâu Trung Quốc
Phụ lục 55: Ảnh-bản vẽ gốm men nâu Trung Quốc
Phụ lục 56: Ảnh-bản vẽ gốm hoa lam và KXĐ men Trung Quốc
Phụ lục 57: Ảnh-bản vẽ gốm có áo
Phụ lục 58: Ảnh-bản vẽ gốm có áo
Phụ lục 59: Ảnh-bản vẽ sành mịn
Phụ lục 60: Ảnh-bản vẽ sành mịn
Phụ lục 61: Ảnh-bản vẽ sành mịn

Phụ lục 62: Ảnh-bản vẽ sành mịn
Phụ lục 63: Ảnh-bản vẽ sành mịn
Phụ lục 64: Ảnh-bản vẽ đồ đất nung
Phụ lục 65: Ảnh hiện vật kim loại
Phụ lục 66: Ảnh chụp X-quang đồ sắt và thiên thạch
4. BẢN DẬP:
Phụ lục 67: Hoa văn trên miệng và quai sành mịn
Phụ lục 68: Hoa văn bập vân trên thân sành mịn
Phụ lục 69: Hoa văn bập vân kết hợp hoa văn khác trên thân sành mịn
Phụ lục 70: Hoa khắc vạch bằng que 1 hay nhiều răng trên thân sành mịn
Phụ lục 71: Hoa trên thân sành mịn và sành thô

VII


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử Việt Nam, ở một số khu vực đã hình thành các trung tâm
kinh tế và thương cảng quan trọng. Khu vực miền Bắc từ rất sớm đã tham gia
vào quá trình giao lưu buôn bán với các nước Ấn Độ, Đông Á, Địa Trung
Hải...Các kết quả nghiên cứu cho thấy, khu vực Vân Đồn đã có sự giao lưu
với khu vực nam Trung Quốc từ rất sớm. Quá trình giao thương này tồn tại
đến thế kỷ XII thì chính thức được thành lập “trang Vân Đồn” và chỉ thực sự
suy tàn vào thời Nguyễn, thế kỷ XIX. Trong thời kỳ phát triển hưng thịnh, các
thuyền buôn và thương nhân Trung Quốc, Lưu Cấu (Nhật Bản), Đông Nam Á
như Trảo Oa (Java), Lộ Hạc, Xiêm La, Tam Phật Tề, Chiêm Thành và có thể
cả những thương nhân vùng Tây Nam Á và Châu Âu đến buôn bán trao đổi
hàng hóa. Cùng với Hội Thống, Vân Đồn trở thành hai thương cảng quan
trọng, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế đất nước ở khu vực miền Bắc.
Từ khá sớm thương cảng Vân Đồn đã thu hút sự chú ý quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Thương cảng Vân Đồn là một hệ
thống gồm nhiều bến bãi, trong đó đã được các nhà nghiên cứu và xác nhận là
các bến Cống Cái, Cái Làng, Cống Đông, Công Tây, Cống Hẹp, Vạn Ninh,
Đượng Hạc...
Bên cạnh một số vấn đề đã được giải quyết, nhiều vấn đề của thương
cảng Vân Đồn đã và đang đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu như : vị trí phân bố,
quá trình hình thành và phát triển, và mối quan hệ của các bến bãi trong hệ
thống cảng Vân Đồn như thế nào?; Cấu trúc hay chức năng của chúng như
thế nào ?; Trung tâm chính của thương cảng nằm ở đâu, có sự thay đổi qua
các thời kỳ không?. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu điều tra, khảo sát về
thương cảng này là hết sức cần thiết.

1


Cống Cái là một trong những bến bãi nằm trong hệ thống thương cảng
Vân Đồn. Vị trí nằm về phía bắc thôn Sơn Hào, thuộc xã Quan Lạn, huyện
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Sau nhiều đợt tiến hành khảo sát và khai quật, các
nhà nghiên cứu đã phát nhiều di vật xuất lộ trên bề mặt ven bờ vụng và cả
trong địa tầng. Các di vật xuất lộ gồm gốm men, sành, đồ đất nung, đồ kim
loại. Nghiên cứu các mặt cắt cho thấy tầng văn hóa ở di tích này khá dày.
Phần lớn các di vật xuất lộ có thể xác định niên đại vào thời Trần. Ngoài ra
cũng xuất hiện các di vật thuộc thời kỳ sớm hơn và muộn hơn. Với số lượng
lớn di vật và tầng văn hóa dày, ổn định, có thể xác định khu vực này đã tồn tại
một khu dân cư phát triển nhất vào thời Trần. Đây là một khu vực lý tưởng
cho việc nghiên cứu một làng cổ liên hệ chặt chẽ với lịch sử hình thành và
phát triển của thương cảng cổ Vân Đồn và những sự kiện liên quan đến cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên-Mông của nhà Trần, đặc biệt là trận đánh
của Trần Khánh Dư.
Tôi là người may mắn được trực tiếp tham gia khảo sát và khai quật tại

di tích bến Cống Cái từ năm 2014 cho đến nay. Vì vậy, tôi mong muốn tìm
hiểu quá hình hình thành, phát triển, suy tàn của di tích bến Cống Cái nói
riêng và hệ thống thương cảng Vân Đồn nói chung.
Từ những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: “Di tích bến Cống Cái
trong hệ thống thương cảng Vân Đồn (Quảng Ninh)” làm luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Được nhiều tư liệu lịch sử trong và ngoài nước nói đến với tư cách là
một thương cảng quốc tế do nhà Lý thành lập từ năm 1149, các xã đảo thuộc
huyện Vân Đồn nói chung và khu vực đảo Quan Lạn nói riêng luôn là đối
tượng nghiên cứu của các nhà sử học, khảo cổ học và các nhà nghiên cứu lịch

2


sử văn hóa. Vị trí và hình thế của thương cảng Vân Đồn được mô tả trong các
sách sử Việt Nam và Trung quốc như Đại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Trãi
toàn tập, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Việt địa dư toàn biên, Đồng
Khánh dư địa chí, Lĩnh ngoại đại đáp, An Nam Chí Nguyên…
Cuộc khảo sát về thương cảng Vân Đồn sớm nhất tại khu vực đảo Quan
Lạn có lẽ là của GS. Yamamoto Tatsuro vào năm 1936, khi ông nhắc tới
chuyến khảo sát tại đảo Vân Hải, bến Con Quy, xã Quang Châu (xã Minh
Châu ngày nay) và xã Quan Lạn. Trong đợt này, ông đã thu thập được số
lượng lớn tiền đồng Trung Quốc và Việt Nam. Tiền Trung Quốc chủ yếu là
thời Tống, một số ít thuộc thời Đường và thời Minh Thanh. Tiền Việt Nam
chủ yếu thuộc thời Lê và Nguyễn, đặc biệt là tiền Cảnh Hưng và tiền Minh
Mạng. Đồ gốm sứ sưu tầm trong dân (36 hiện vật và mảnh vỡ) được chuyên
gia Nhật Bản cho rằng chúng thể hiện nhiều loại hình, có ảnh hưởng lớn từ
các truyền thống Trung Hoa, nhưng vẫn là sản phẩm của Việt Nam, được chở
từ phía tây tới (nội địa), có lẽ để buôn, niên đại từ thời Tống đến thời Thanh.

Ông cho rằng bến Con Quy ở phía Bắc của đảo Quan Lạn là bến tốt nhất có
thể tránh sóng và có thể là một bến quan trọng trong thời phồn vinh của cảng
Vân Đồn [5, tr.76-122]. Tại đây, các nhà nghiên cứu còn phát hiện được một
số tiền đồng thời Hán và di vật gốm, sành nhưng số lượng không nhiều. Có
thể, vào thời kỳ phát triển của thương cảng Vân Đồn, bến Con Quy chỉ đóng
vai trò là cửa ngỏ, trạm dừng chân của thuyền buôn trước khi vào bến chính.
Từ những năm 1960, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tham gia vào
việc nghiên cứu các thương cảng. Thương cảng đầu tiên được chọn lựa
nghiên cứu là thương cảng Vân Đồn. Những kết quả nghiên cứu Vân Đồn
thời kỳ này đã được Đỗ Văn Ninh công bố trong tập sách “Tìm lại dấu vết
Vân Đồn lịch sử” do Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ninh xuất bản năm 1971
(tái bản năm 1997), và “Thương cảng Vân Đồn” xuất bản năm 2004. Tại Vân
3


Đồn, các nhà khảo cổ học cũng đã tiến hành khai quật một ngôi chùa - chùa
Lấm và một ngọn tháp thời Trần trên đảo Thừa Cống. Hàng loạt dấu vết các
ngôi chùa khác, các nền nhà và một hệ thống hàng chục bến bãi như Cống
Đông, Cống Yên, Cống Hẹp, Cái Làng, Con Quy… đã được phát hiện. Trong
đó, tác giả có nhắc đến cuộc khảo sát khu vực bến Cống Cái và cũng đã xác
định dấu tích sành sứ trải dài hàng trăm mét trên bờ nam bến Cống Cái. Trên
sườn núi là dấu tích các lớp nhà từ chân lên tới lưng chừng núi. Trên đỉnh núi
còn kiến trúc đình quay hướng chính nam và một lối đi mở xuống giếng Đình
quanh năm đầy nước. Trên cơ sở kết quả khảo sát của ông cho rằng trung tâm
giao dịch xưa nằm ở khu vực giữa đảo Vân Hải, tức là bến Cống Cái và Cái
Làng [60]. Như vậy, vào những năm 60-70 của thế kỷ XX, các nhà khảo cổ
học đã xác định vai trò quan trọng của khu vực Cống Cái trong thương cảng
Vân Đồn.
Năm 1990, đẩy thêm một bước nữa trong việc nghiên cứu thương cảng
Vân Đồn. Ban Quản lý các di tích trọng điểm tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức một

cuộc hội thảo về thương cảng Vân Đồn tại huyện Cẩm Phả. Kỷ yếu hội thảo
“Thương cảng Vân Đồn, lịch sử, tiềm năng kinh tế và các mối giao lưu văn
hóa” được xuất bản năm 2009. Sau đó được chỉnh sửa và xuất bản cuốn sách
“Di tích lịch sử-văn hóa thương cảng Vân Đồn” năm 2010. Trong cuộc hội
thảo này, các nhà khảo cổ học đã cố gắng đi thêm một bước trong việc xác
định trung tâm của thương cảng Vân Đồn, nhưng tại đây đã xuất hiện hai
quan điểm trái ngược nhau. Một ý kiến cho vị trí trung tâm của thương cảng
Vân Đồn từ thời Lý cho đến ngày Vân Đồn suy tàn nằm trên đảo Quan Lạn.
Ý kiến thứ hai cho rằng, tài liệu khảo cổ học cho phép xác định trung tâm
cảng Vân Đồn thời Trần là đảo Thừa Cống (xã Thắng Lợi). Cho đến nay, câu
trả lời cho vấn đề này còn để ngỏ. Trong luận văn này, theo tôi, có thể trung
tâm thương cảng Vân Đồn vào giai đoạn sớm, thế kỷ XII-XIV nằm ở đảo
4


Quan Lạn và bắt đầu suy tàn cuối thế kỷ XV. Trong giai đoạn, thế kỷ XIVXVI, đảo Thừa Cống trở thành là trung tâm của thương cảng Vân Đồn.
Bên cạnh đó, trong các năm 1990, 1993, 1997, 2000, 2002, 2003, Trung
tâm Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Tổng hợp Hà Nội nay là Viện
Việt Nam học và Khoa học phát triển, phối hợp với Khoa Lịch sử, Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Chiêu Hòa,
Đại học Tổng hợp Osaka, Trung tâm Khảo cổ học tỉnh Okinawa cùng một số
cơ quan khoa học khác của Nhật Bản đã đến khảo cứu nhiều bến cảng cổ
thuộc Vân Đồn. Đáng chú ý là cuộc khai quật năm 2002-2003 tại di tích bến
Con Quy (xã Quan Lạn) và Cống Tây (xã Thắng Lợi). Năm 2002, tại di tích
Cống Tây, đoàn nghiên cứu đã tiến hành khai quật ở vụng thôn 3và vụng thôn
5. Kết quả khai quật cho thấy, tầng văn hóa dày 40cm, hiện vật chủ yếu là
gốm men Việt Nam và Trung Quốc, sành, vật liệu kiến trúc. Một số loại hình
gốm men Việt Nam như hộp bát, bình hoa lam có nguồn gốc từ Hải Dương,
niên đại thế kỷ XV-XVI. Hiện vật gốm men Trung Quốc có niên đại thế kỷ
XIV-XV, trong đó men ngọc là điển hình gốm lò Long Tuyền, thời Nguyên.

Từ kết quả khai quật này, đoàn khai quật cho rằng: có thể ở đảo Thừa Cống
có 2 loại bến: bến chuyên chứa hàng nhập khẩu, chủ yếu lưu chứa gốm men
Trung Quốc như vụng thôn 5, vụng Chuồng Bò. Và bến chuyên lưu chứa,
xuất khẩu gốm men Việt Nam như vụng thôn 3 [40, 44, tr.56-57]. Tại bến
Con Quy, năm 2002, đoàn nghiên cứu đã tiến hành mở 3 hố thăm dò với tổng
diện tích 14m2. Ở khu vực khai quật, bề mặt đã bị san lấp do quá trình khai
thác cát, chỉ còn lớp xáo trộn dày 60-100cm, là lớp cát màu xám chưa các
mảnh hiện vật đồ gốm men, đồ sành Việt Nam và Trung Quốc, có niên đại
TK XIII-XVII và bộ sưu tập tiền đồng mà chủ yếu là tiền Trung Quốc có niên
đại khá dài từ TK I đến TK XIII [39]. Như vậy, có thể nhận thấy di tích bến

5


Con Quy có thời gian tham gia vào hệ thống thương mại sớm hơn các di tích
khác trên đảo Quan Lạn.
Năm 2003, một cuộc khai quật đã được thực hiện ở Bến Cái Làng, cách
khu vực Cống Cái-Sơn Hào khoảng 3km về phía tây nam. Kết quả đã xác
định được các dấu tích cầu cảng, kiến trúc nhà ở và nhiều di vật gốm sành, đồ
sứ Trung Quốc và Việt Nam. Trong đó đồ sứ Việt Nam được xác định có các
loại hình từ thời Lý đến thời Lê, số lượng nhiều nhất thuộc thời Trần và thời
Lê Sơ. Di tích theo đó được cho là phát triền thịnh đạt nhất từ thời Trần đến
thời Lê Sơ [36].
Năm 2014, cuốn sách “Vân Đồn thương cảng quốc tế của Việt Nam”
của PGS. TS. Nguyễn Văn Kim được xuất bản, đã nêu ra thương cảng Vân
Đồn vào thời Lý - Trần đã hình thành ba tiểu vùng. Tiểu vùng thứ nhất tập
trung ở đảo Thừa Cống, là nơi đặt trị sở của trang Vân Đồn thời Lý-Trần.
Tiểu vùng thứ hai gồm các địa điểm ở đảo Quan Lạn, là cửa ngõ của vùng
thương cảng, có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh và kiểm soát
thuế, đảm bảo các hoạt động bang giao và trao đổi sản phẩm cao cấp của tiểu

vùng thứ nhất. Tiểu vùng thứ ba là nhóm đảo phía đông nam của thương cảng
thuộc xã Ngọc Vừng, là nơi buôn bán, kiểm soát và đảm bảo an ninh cho phía
nam thương cảng Vân Đồn. Ba tiểu vùng này hợp thành một hệ thống tạo nên
vùng thứ nhất, hay gọi là vùng lõi của thương cảng. Vùng thứ hai là cụm bến,
cảng ven bờ bao gồm các tiểu vùng: Yên Hưng, Cửa Lục, Cái Bầu kéo dài
đến Vạn Ninh ở phía Bắc. Vùng thứ hai có vai trò trong việc cung cấp, luân
chuyển hàng hòa từ các làng nghề thủ công, trung tâm nội địa ra thương cảng
quốc tế, đồng thời đón nhận, tiêu thụ, điều phối hàng hóa của vùng thứ nhất.
Vùng thứ ba là các cảng vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh, là các cảng trung chuyển
của Vân Đồn. Như vậy, Nguyễn Văn Kim đã hệ thống các địa điểm theo tầm
quan trọng của các địa điểm, Cống Cái là một địa điểm nằm ở tiểu vùng thứ 2
6


trong Vùng thứ nhất. Ông nhận định các địa điểm ở đảo Thừa Cống vào giai
đoạn thời Lý-Trần có vai trò quan trọng nhất [46, tr.278-297]. Việc xác định
các vùng và tiểu vùng trong thương cảng Vân Đồn và chỉ ra mối quan hệ của
chúng với nhau, đã làm cho chúng ta có cái nhìn tổng thế, mối quan hệ khăng
khít giữa các di tich trong hệ thống thương cảng Vân Đồn. Tuy nhiên, theo
ông thì các di tích trong đảo Thừa Cống có vai trò quan trọng nhất vào giai
đoạn thời Lý-Trần.
Từ năm 2012 – 2019, kết quả 8 cuộc khảo sát và 1 cuộc khai quật do
Viện Khảo cổ học và nhóm chuyên gia quốc tế về khảo cổ học dưới nước
cũng đã xác định được khu vực có tầng văn hóa thời Trần và nhiều dấu tích có
liên quan đến bến bãi ở khu vực bến Cống Cái như giếng nước, đá neo
thuyền, các dấu tích kiến trúc và số lượng lớn hiện vật có nguồn gốc Việt
Nam và Trung Quốc, niên đại thế kỷ IX-XIX, nhưng tập trung nhất vẫn là thế
kỷ XII-XIV. Bến Cống Cái do vậy là một khu vực lý tưởng cho việc nghiên
cứu một làng cổ liên hệ chặt chẽ với lịch sử hình thành và phát triển của
thương cảng cổ Vân Đồn và những sự kiện liên quan đến cuộc kháng chiến

chống quân Nguyên-Mông của nhà Trần, đặc biệt là trận đánh Trần Khánh
Dư. Các dấu tích khảo cổ học mới phát hiện còn cho thấy lịch sử chiếm cư ở
khu vực này có thể còn bắt đầu từ thời xa xưa hơn. Ngoài ra nhóm nghiên cứu
còn phát hiện loại hình di vật đáng chú ý là khẩu súng thần công, thuộc phong
cách thế kỷ 16, nhưng được đúc tại địa phương [49, tr.1].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thu thập và hệ thống hoá, phân tích, đánh giá tư liệu lịch sử và khảo cổ
học đầy đủ nhất, từ trước đến nay về địa điểm bến Cống Cái.
Nghiên cứu tính chất và loại hình của các di vật xuất lộ, vai trò của
những di vật này đối với sự phát triển của thương cảng

7


Trên cơ sở các kết quả khai quật và nghiên cứu khảo cổ học, bước đầu
xác định niên đại hình thành và phát triển của di tích, vai trò và vị trí của di
tích trong bối cảnh chung của khu di tích thương cảng Vân Đồn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Di tích, di vật kết hợp với các tư liệu liên ngành
liên quan đến địa điểm Bến Cống Cái và hệ thống thương cảng Vân Đồn.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Toàn bộ khu vực Bến Cống Cái, thuộc thôn Sơn Hào, xã
Quan Lạn, huyện Vân Đồn. Luận văn kết hợp nghiên cứu so sánh một số di
tích bến bãi khác trong hệ thống thương cảng Vân Đồn.
Về thời gian: Trong thời gian hình thành, phát triển và suy tàn của di tích
bến Cống Cái, từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVIII. Ngoài ra còn liên hệ với các
thời kỳ trước và sau đó.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu: Các báo cáo điều tra, khai quật khảo cổ học, các bài
nghiên cứu về di tích bến Cống Cái nói riêng, các di tích bến bãi khác thuộc

thương cảng Vân Đồn nói chung đã được công bố trên các sách, tạp chí
chuyên ngành và trong các kỷ yếu hội thảo về khảo cổ học. Luận văn tham
khảo một số sách khoa học có liên quan như địa chất, địa mạo, địa hình, khí
hậu thuỷ văn, môi trường, dân tộc học... có liên quan đến khu vựcVân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh.
Các nguồn tư liệu lịch sử liên quan đến hệ thống thương cảng Vân Đồn
và kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ 3.
Phương pháp nghiên cứu:

8


Luận văn sử dụng các phương pháp khảo cổ học truyền thống như:
phương pháp điều tra, khảo sát không tác động, thăm dò và khai quật khảo cổ,
phân loại loại hình học, miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh di tích, di vật khảo cổ...
Phương pháp nghiên cứu so sánh khảo cổ học được sử dụng nhằm làm rõ
sự tương đồng và khác biệt giữa di tích bến Cống Cái và những di tích bến bãi
khác thuộc hệ thống thương cảng Vân Đôn. Từ đó làm rõ những đặc trưng
riêng, nổi bật của di tích bến Cống Cái trong lịch sử. Ngoài ra, sử dụng
phương pháp này để làm rõ xuất xứ, niên đại của các nhóm đồ gốm men đặc
biệt là nhóm gốm men Trung Quốc.
Vận dụng kết quả nghiên cứu của các khoa học có liên quan như: địa lý,
địa chất, ... để bổ sung vào phương pháp tiếp cận đánh giá tổng thể.
Ứng dụng phương pháp sử dụng hệ thống tọa độ GPS để xây dựng bản
đồ tiềm năng phân bố của những dấu tích thương mại ở khu vực này.
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, toàn diện, cụ thể và biện chứng
trong luận giải các mối quan hệ giữa di tích, di vật và các hiện tượng tự nhiên,
xã hội có liên quan để minh chứng cho các nội dung khoa học cần giải quyết
của luận văn.
Thuật ngữ:

Luận văn còn bàn về một số thuật ngữ được sử dụng như thương cảng,
bến bãi/bến tàu/thuyền.
Thương cảng: là khu vực bờ cùng với vùng nước tiếp giáp (nước ngọt,
nước lợ, nước mặn) và tổ hợp những công trình, thiết bị được sử dụng cho
hoạt động giao thương buôn bán trong và ngoài nước. Nó phải có những điều
kiện và trang thiết bị cần thiết cho việc dừng đỗ tàu thuyền, sửa tàu, cung cấp
nhiên liệu, vật liệu, bốc dỡ hàng hóa. Quy mô của thương cảng được biểu thị

9


qua lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và nó là đầu mối quan trọng trong việc
vận chuyển lưu thông hàng hóa [33, tr.28]. Như vậy, Vân Đồn hoàn toàn
xứng đáng là một thương cảng quốc tế có số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu
lớn, đa dạng và là một hệ thống với nhiều bến bãi.
Bến bãi/bến tàu/thuyền: Là một bến trong hệ thống cảng/thương cảng.
Theo đó, về cơ bản, bến được hiểu là chỗ bờ sông, thường có bậc lên xuống
để lấy nước tắm giặt. Chỗ quy định để tàu/thuyền, dừng lại để xếp dỡ hàng
hóa [88, tr.97]. Địa điểm Cống Cái là một bến bãi điển hình với các di tích có
liên quan như giếng nước, bãi sành sứ dài 200m, các viên đá neo thuyền, dấu
tích kiến trúc hai bên bờ. Vào thời kỳ thương cảng Vân Đồn hoạt động, bến
Cống Cái là nơi neo đậu tàu/thuyền, bốc dỡ hàng hóa. Tuy nhiên, vào thời
Nguyễn trở về sau, địa điểm này đã đánh mất vai trò là bến bãi mà nó chỉ còn
tính chất là bến neo đậu tàu thuyền, không còn hoạt động buôn bán.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đóng góp những tư liệu quan trọng về mặt
tư liệu khoa học với hệ thống di tích, di vật ở di tích bến Cống Cái. Góp phần
làm rõ diện mạo của di tích này và bổ sung tư liệu mới cho việc nghiên cứu
thương cảng Vân Đồn.
Ý nghĩa lý luận: Tập hợp, hệ thống hóa tư liệu và kết quả nghiên cứu về

di tích bến Cống Cái nói riêng, các di tích bến bãi khác thuộc thương cảng
Vân Đồn nói chung.
Phân tích, nghiên cứu so sánh để tìm hiểu về quy mô, tính chất, chức
năng, thời gian sử dụng của di tích bến Cống Cái. Nêu bật các giá trị về lịch
sử, văn hóa của di tích bến Cống Cái trong hệ thống thương cảng Vân Đồn.
Góp phần nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề lịch sử thương cảng
Vân Đồn.
10


Cung cấp cơ sở khoa học tin cậy phục vụ cho công tác quy hoạch, bảo
tồn và phát huy giá trị địa điểm bến Cống Cái trong hệ thống thương cảng
Vân Đồn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục minh họa,
luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1. Tổng quan tư liệu về thương cảng Vân Đồn và di tích bến
Cống Cái
Chương 2. Di tích bến Cống Cái qua tư liệu khảo cổ học
Chương 3. Vị trí bến Cống Cái trong bối cảnh thương cảng Vân
Đồn.

11


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TƯ LIỆU VỀ THƯƠNG CẢNG VÂN ĐỒN VÀ DI
TÍCH BẾN CỐNG CÁI
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của thương cảng Vân Đồn và di
tích bến Cống Cái

Thương cảng Vân Đồn là một hệ thống có nhiều bến bãi, nằm về phía
đông bắc của Việt Nam, hiện nay các di tích của thương cảng này thuộc tỉnh
Quảng Ninh gồm các huyện Vân Đồn, Hoành Bồ, Móng Cái, Quảng Yên.
Theo Địa chí Quảng Ninh thì: “khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu các
tỉnh miền Bắc Việt Nam vừa có nét riêng của một tỉnh miền núi ven biển. Các
quần đảo ở huyện Cô Tô và Vân Đồn ... có đặc trưng của khí hậu đại dương.
Theo số liệu quan trắc, mùa lạnh ở Quảng Ninh bắt đầu từ hạ tuần tháng 11
và kết thúc vào cuối tháng 3 năm sau, mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 và kết
thúc vào đầu tháng 10. Mùa ít mưa bắt đầu từ tháng 11 cho đến tháng 4 năm
sau, mùa mưa nhiều bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 10. Giữa
hai mùa lạnh và mùa nóng, hai mùa khô và mùa mưa là hai thời kỳ chuyển
tiếp khí hậu, mỗi thời kỳ khoảng một tháng (tháng 4 và tháng 10). Dưới tác
động của sự biến đổi khí hậu hiện nay, thời tiết của khu vực đảo Quan Lạn
cũng có nhiều biến đổi” [83, tr.229]. Vào tháng 8 - 9 năm 2016, vẫn có những
cơn bão liên tiếp cùng với lượng mưa lớn. Vào tháng 4 năm 2017, thời tiết đã
nắng gắt nhưng rất khô hạn, mực nước ngầm trong các giếng xuống rất thấp.
Bến Cống Cái có vai trò quan trọng trong hệ thống các bến ở đảo Quan
Lạn nói riêng và cả hệ thống thương cảng Vân Đồn nói chung. Di tích bến
Cống Cái nằm ở phần trung tâm của đảo Quan Lạn, một hòn đảo thuộc tuyến
Vân Hải nằm ở rìa phía đông nam của huyện đảo Vân Đồn. Về quản lý hành
chính, hiện nay khu vực này thuộc thôn Sơn Hào, xã Quan Lạn, huyện Vân

12


Đồn. Di tích nằm cách trung tâm xã Quan Lạn khoảng 5km về phía đông bắc,
các xã Minh Châu khoảng 5km về phía tây nam. Di tích này gồm thung lũng
Sơn Hào và ngã ba Cống Cái - Sông Mang.
Thung lũng Sơn Hào được vây quanh bởi một dãy núi cao ở phía tây
nam và một dãy đồi thấp ở phía đông bắc. Nhân dân địa phương gọi đây là

núi Vân, có thể đây là nguồn gốc tên gọi Vân Đồn ngày nay. Những cồn cát
trắng ở phía đông chạy dọc theo bờ biển theo hướng đông bắc - tây nam tạo
cho thung lũng khá kín, tránh được gió bão từ biển đông và khá rộng rãi, với
nhiều cánh ruộng kiểu bậc thang từ trên sườn các quả đồi thấp và ven chân
núi kéo xuống vùng trũng thấp giữa thung lũng.
Về phía bắc thung lũng Sơn Hào, những quả núi nhỏ có độ cao không
lớn lắm nằm bao lấy một vụng nước - vụng Cống Cái, mở vào dòng Cống Cái
ở phía tây. Quanh ba phía của vụng là những quả núi khá cao, nối với nhau
bằng các võng núi hoặc khe núi thấp, có thể leo qua khá dễ dàng, đặc biệt là
sườn đồi phía nam, nơi dẫn xuống thung lũng Sơn Hào. Cống Cái là một cửa
vụng được mở ra do đảo Quan Lạn và núi Man chạy song song ngăn một dải
nước tạo thành. Mỗi lần thủy triều lên xuống, nước biển cũng chảy vào hay
rút ra theo dải sông này như cái cống. “Người vùng đảo gọi những dải nước
hẹp là “cống”, như vậy cống là chỉ dòng sông nhỏ. Vì nhỏ, nên nước ra vào
với lưu tốc lớn hơn sông và lưu tốc nước lớn lại là một tiêu chí quan trọng để
gọi dải nước biển là sông hay là cống” [60, tr.133]. “Cái” là vụng biển kín
đáo, không sâu, khi thủy triều dâng cáo thuyền bè vừa và nhỏ có thể cập bờ.
Chính vì vụng ở ngay bên cống và cống lại chảy qua cái nên vụng này được
gọi là Cống Cái” [60, tr.143].
Vụng Cống Cái kín gió và không lớn lắm. Cửa vào rộng khoảng 100m
khi nước triều lên, nơi hẹp nhất khoảng 50m rồi lại mở rộng ở phía trong, có
diện tích mặt nước khoảng 20,000m2 khi triều lên. Hiện nay, do việc đắp
13


đường ngăn một phần vụng cho việc xây dựng lò đốt rác nên diện tích phần
còn lại chỉ khoảng hơn 1/2. Vụng thường cạn trơ đáy khi thủy triều xuống
thấp, nhưng lúc thủy triều lên cao đủ sâu cho thuyền bè hàng chục tấn vào neo
đậu. Đặc biệt là ở bờ phía bắc, nơi có các khúc bãi khá phẳng và rộng. Tình
trạng cạn kiệt khi triều rút ngày nay còn do một thời kì đây là bến vận chuyển

cát khai thác từ các cồn ven biển, tạo nên một lớp cát đọng phủ dầy dưới đáy.
Án ngữ phía bắc vụng Cống Cái là Đồi Đình, một quả đồi khá cao, có
sườn phía tây nam thoải xuôi xuống dòng Cống Cái. Đồi Đình cũng chắn
ngay phía đông nam khu vực ngã ba sông Mang mở vào Cống Cái, cách nơi
mở vào vụng Cống Cái khoảng 500m. Phía nam Vụng Cống Cái là một quả
đồi khác, thấp hơn Đồi Đình, nhưng có sườn phía bắc khá dốc với nhiều khối
đá lổn nhổn, không thuận lợi cho việc đi lại trên bộ cũng như dưới nước. Tuy
nhiên, một số khe nước chảy từ trên núi xuống được các khối đá lớn chặn lại,
tạo nên những điểm dừng chân nhỏ, được chứng thực bởi sự có mặt của một
số mảnh sành sứ phía trong vụng.
Ở khu vực rộng hơn, vụng Cống Cái là một trong những vụng nhỏ nằm
hai bên bờ Cống Cái, một dòng nước từ Sông Mang mở vào khu vực Cái
Làng. Vụng Cái Làng là một vụng biển rộng, được ngăn lại bởi đảo Quan Lạn
phía nam và núi Man nằm chặn giữa Sông Mang và Cống Cái ở phía bắc. Về
phía bắc, ở khoảng giữa vụng là làng Cái Làng, một làng cổ nổi tiếng trong hệ
thống các di tích của thương cảng cổ Vân Đồn.
Từ cửa Cống Cái mở về phía bắc là Sông Mang, đoạn này rộng tới
khoảng gần 900m. Đảo Con Quy nằm về phía bắc-đông bắc, cách Đồi Đình
khoảng hơn 900m. Nhưng những cồn cát và doi đất nổi lên về phía nam của
đảo kéo tới cách Đồi Đình khoảng 300m, tạo nên những bãi nông rộng rãi.
Giữa Đồi Đình và cụm đảo này là một dòng nước mở ra hướng biển Đông,
nhưng nay đã bị chặn lại bởi các cồn cát và đường nhựa. Từ trên sườn phía
14


bắc đồi đình, một khe nước hầu như chảy suốt quanh năm đã được cư dân địa
phương lợi dụng, thu vào một cái giếng nông, với một khối đá lớn bên ngoài,
có thể để neo thuyền.
Sông Mang, có hình cách cung, chảy theo hướng đông bắc-tây nam, đến
đoạn mở vào Cống Cái lại có hướng đông-tây, chếch nam khoảng 15. Chiều

rộng trung bình khoảng 7-800m, nơi rộng nhất tới trên 1000-1500m. Nơi sâu
nhất đo được ở cửa Đối tới trên 30m, trong dòng chính trung bình khoảng 1015m. Hai bên bờ có nhiều vụng, được gọi là “mang”, như Mang Thúng, Mang
Đò… Hiện nay, nhiều mang được xây bờ chặn lại để nuôi thủy sản. Hướng và
mức độ dòng chảy của sông Mang phụ thuộc vào thủy triều và thời gian trong
năm. Trong các cuộc lặn khảo sát năm 2014 ở đây, có thể thấy dòng nước
chảy khá mạnh khi triều rút, độ sâu ở khu vực lặn khảo sát trong Mang Thúng
và Cống Cái không quá 9m [98].
Về phía đông khu vực nghiên cứu, dọc theo đảo Quan Lạn là những cồn
cát cao ngăn những bãi cát trắng phau với những cánh ruộng và đồi núi bên
trong. Một số quả núi ăn lan ra biển, ngắt đoạn những cồn cát, tạo thành
những bãi tắm tuyệt đẹp, như bãi tắm Quan Lạn, bãi tắm Sơn Hào và bãi tắm
Minh Châu. Bên trong những cồn cát cao, nay phủ đầy phi lao và các loại cây
khác, được giữ làm rừng phòng hộ, có những gò đất pha cát xám nâu. Một số,
hiện là nơi cư trú hoặc được sử dụng làm đất nghĩa trang.
Ngoài thung lũng Sơn Hào và những cánh ruộng thấp xen giữa các cồn
cát, núi đá, đồi đất, phần lớn diện tích đồi núi, gò cát ở đây là rừng tạp tự
nhiên, một phần là rừng trồng cây công nghiệp, chủ yếu là cây keo và cây
thông. Trước đây, rừng có nhiều loại cây gỗ quý, nhưng nay ở khu vực Sơn
Hào rất ít thấy. Rừng tự nhiên ở đây có nhiều loại cây làm thuốc và gia vị có
giá trị, vẫn được dân địa phương thu hoạch, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tại

15


chỗ. Hải sản ở khu vực này, cũng như trong toàn huyện Vân Đồn nói chung
rất đa dạng và có nhiều loài quý, có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là sá sùng.
Một trong những bãi khai thác sá sùng lớn của Quan Lạn là khu vực Cống Cái
- Cái Làng.
1.2. Lịch sử hình thành thương cảng Vân Đồn và vị trí địa - lịch sử
qua sử liệu

Ngày xưa, việc đi lại với phương Bắc theo con đường thủy ven vịnh Bắc
Bộ. Thiên nhiên đã bố trí một loạt đảo chạy suốt ven biển tạo bức bình phong
kín đáo, ngăn dòng nước ở giữa khiến việc đi lại yên bình như trên đường
sông. Theo “Lĩnh Nam ngoại đáp” đời Tống ghi rõ: từ Khâm Châu thuyền đi
hướng Tây-Nam, một ngày đến châu Vĩnh An, theo trại Đại Bàn thuộc Ngọc
Sơn, tới Vĩnh Thái, Vạn Xuân liền tới Thăng Long, thuyền đi mất 5 ngày” [60,
tr.121]. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: năm 1006, “Duyên biên an phủ
sứ Thiệu Việp từng dâng vua Tống bản đồ đường thủy, bộ từ Ung Châu đến
Giao Châu với ý đồ muốn lấy nước ta”[29; tr.168]. Chứng tỏ con đường này
đã được người Tống nghiên cứu rất kỹ.
Đường đi thuận lợi không những dùng cho quân đội mà còn là con
đường buôn bán giữa nước ta với phương Bắc. Trong suốt những năm chống
Hán hóa, thuyền buôn các nước vẫn buôn bán với Việt Nam. Đến năm 792,
thuyền buôn qua lại nhiều đến nỗi, bọn quan lại nhà Đường cho rằng sự phồn
vinh của Đại Việt có hại cho nền ngoại thương ở Quảng Châu nên họ yêu cầu
vua Đức Tông ra lệnh cấm không cho tàu buôn các nước qua lại với Đại Việt
[5, tr.20]. Năm 1009, vua Lê Ngọa Triều đã cầu thông thương với Ung Châu
nhưng vua Tống chỉ cho “thông thương với Liêm Châu và trấn Như Hồng
thôi” [29, tr.169].

16


Qua kết quả khai quật 3 ngôi mộ tại khu mộ Đá Bạc (xã Minh Châu) cho
thấy người chết cùng gia quyến là người có quan chức cao. Niên đại thế kỷ IIIII với số lượng di vật phong phú và đa dạng đã cho thấy tầm quan trọng về
mặt kinh tế vùng hải đảo, có thể là vào thời Hán, người Trung Quốc đã thiết
lập một trị sở quản lý ở đâu đó xung quanh đảo Trà Bản hoặc Quan Lạn [60,
tr.120]. Với những tư liệu khảo cổ học được phát hiện tại di tích Đồng Chổi
và các ngôi mộ Hán tại Đá Bạc (xã Minh Châu), đảo Thẻ Vàng (xã Thắng
Lợi) cho phép ta tin rằng, khu vực Vân Đồn vào khoảng 2000 năm trước đã

có thể là trọng điểm kinh tế và nằm trên trục đường biển quốc tế.
Tên gọi Vân Đồn xuất hiện lần đầu tiên trong chính sử nước ta vào năm
1149 đời vua Lý Anh Tông, “lúc này thuyền buôn nước ngoài đến xin đỗ một
chỗ để buôn bán, vua cho ở, lập các trang trại ở cạnh bờ biển nên mới gọi là
trang Vân Đồn, thuộc đạo Hải Đông, để buôn bán với ba nước ở phía Nam
nước ta là Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La” [29, tr.302].
Từ đơn vị “trang” thời Lý, sau hai thế kỷ tồn tại, Vân Đồn phát triển
mạnh mẽ trở thành thương cảng lớn và quan trọng của Đại việt. Chính sử
nhiều lần chép về việc thuyền buôn từ nhiều nước trong khu vực đến Vân
Đồn xin buôn bán cư trú. Bời vậy, vào năm 1349, đời Trần Dụ Tông, Vân
Đồn đã được nâng lên thành “trấn” thuộc lộ Hải Đông, và cử quan lại, quân
đội đến đây để quản lý đời sống của cư dân và khách thương.
Thời thuộc Minh, Vân Đồn được đặt làm một huyện thuộc châu Tĩnh
An. Vào thời Lê sơ, Vân Đồn được lập làm châu thuộc phủ Hải Đông, đạo An
Bang. Sang thời Lê Trung Hưng và Nguyễn, Vân Đồn là một châu thuộc phủ
Hải Đông, trấn Yên Quảng. Ngày nay, Vân Đồn là một huyện của tỉnh Quảng
Ninh.

17


Về vị trí của trang Vân Đồn, đến ngày nay vẫn là một câu hỏi lớn vì các
ghi chép trong sử sách không rõ ràng khiến các nhà nghiên cứu vẫn còn nhiều
ý kiến trái ngược nhau. Tuy nhiên, có thể xác định, thương cảng Vân Đồn
được lập trên một hòn đảo trong vùng vịnh Bái Tử Long kín đáo.
Sách “Đại Việt địa dư toàn biên” của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu
chép: “Núi Vân Đồn ở phía đông bắc phủ Giao Châu, huyện Vân Đồn, ở
trong biển lớn. Hai núi đối nhau, một dòng nước chảy qua giữa, thuyền buôn
của các phiên quốc phần nhiều họp ở đấy” [78, tr.112]. Như vậy, sách này chỉ
rõ địa điểm núi Vân, sông Mang. Điều này hoàn toàn phù hợp với địa danh

hiện nay tại đảo Quan Lạn.
Ngoài ra có một số sách ghi chép về cửa biển Vân Đồn. Sách “Đại Nam
nhất thống chí” ghi: “ở phía đông của huyện bên ngoài có đảo Mai, cũng gọi
là cửa biển Mai”. Có thể là chỉ cửa Gót, cũng có thể là cửa vào giữa núi Gót
với đảo Phượng Hoàng, cũng có thể là chỉ cửa giữa đảo Phượng Hoàng và
Ngọc Vừng ngày nay. Sách “Đồng Khánh dư địa chí” ghi: “Đảo Vân Đồn ở
giữa biển, ngoài cửa biển Vân Đồn”, “cửa biển Vân Đồn ở địa phận xã Quan
Lạn, phía ngoài có đảo Mai, còn gọi là cửa biển Mai, bên phải có đảo Ngọc
Vừng, bên trái có đảo Cảnh Cước, phía trong có đảo Phượng Hoàng, phía
đông đảo là sông Trạo Lai, thủy triều ở cửa biển sâu 1 trượng 8 thước, mực
nước ban đêm sâu 1 trượng, rộng 140 trượng” [dẫn theo 5, tr.22].
Nhiều tài liệu xưa có ghi chép chung chung, như trong “An Nam chí
nguyên” của Cao Trùng Hưng chép: “Vân Đồn, tức Đồn Sơn, ở huyện Vân
Đồn, trong biển, hai dãy núi đối ngọn nhau, một dải nước chảy thông ở giữa,
lập các hành rào chắn bằng gỗ đặt làm cửa biển, nhà dân ở dọc hai bên bờ.
Thời Lý-Trần thuyền buôn các nước thường tụ tập nhiều ở đó” [87]. Theo Đỗ
Văn Ninh thì hai ngọn núi ở đây là núi của đảo Trà Bản và núi đảo Quan Lạn

18


×