Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tìm hiểu tác phẩm Việt Bắc từ phong cách nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.3 KB, 25 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Văn chương là một thế giới không thể có bút lực nào diễn tả hết được
như biển cả mênh mông không bao giờ vơi cạn bởi mọi dòng sông đều đổ về
đó. Những cây bút tài năng như muôn vàn ngôi sao sáng mà những người yêu
văn chưa thể tìm hiểu hết về họ. Trong đó phải nhắc đến Tố Hữu- lá cờ đầu của
thơ ca cách mạng hiện đại Việt Nam. Toàn bộ cuộc đời cũng như những tập thơ
từ Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa đến Một tiếng đờn, Ta với
ta của ông đã tạo nên một dòng chảy lịch sử về một nhà thơ “Sống là cho và
chết cũng là cho”. Cung đàn thơ Tố Hữu được viết bằng tình yêu của một
người chiến sĩ cách mạng suốt đời phấn đấu hi sinh vì tương lai tươi đẹp của
dân tộc với một chất thơ, một thứ giọng rất riêng không hề lẫn. Phong cách Tố
Hữu vì vậy mà có sức hấp dẫn người đọc.
Tác phẩm Việt Bắc là đỉnh cao thơ Tố Hữu cả về nội dung tư tưởng lẫn
tài năng nghệ thuật và tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. Tác phẩm
đã làm sống dậy khúc ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp
và những con người kháng chiến. Việt Bắc còn là “tiếng gọi đàn” dạo lên bao
khúc nhạc về những tình cảm lớn, niềm vui lớn, lẽ sống lớn của người cán bộ
đối với Việt Bắc, thiên nhiên, con người, Đảng, Bác Hồ và cách mạng kháng
chiến của dân tộc. Khúc tình ca và tráng ca trong thi phẩm được sống mãi bởi
cái đẹp ngôn từ và những dấu ấn nghệ thuật của một nhà thơ luôn có ý thức
trách nhiệm với ngòi bút của mình…Mọi vẻ đẹp đã tạo nên một phong cách
nghệ thuật không hề lẫn như một thứ mà nhà văn Tuốc Ghênhép nói: “Cái
quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng
biệt của chính mình không thể tìm thấy trong bất kì cái cổ họng của một người
khác”.
Vì vậy, việc tìm hiểu về tác phẩm Việt Bắc chính là tìm hiểu những cái
đẹp bí ẩn đó- cái đẹp thuộc về phong cách. Tìm hiểu một tác phẩm văn chương
từ phong cách nghệ thuật vẫn được cho là con đường hay nhất để người nghệ sĩ
đưa người đọc đến với xứ sở của cái đẹp. Không những thế, còn đánh thức con
1




người niềm đam mê đến với nghệ thuật, hiểu sâu sắc tác phẩm, tìm thấy sự
đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Chính vì vậy, bằng kinh nghiệm dạy văn của
mình, tôi xin đưa ra một sáng kiến nhỏ: Tìm hiểu tác phẩm Việt Bắc từ phong
cách nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu. Hi vọng sáng kiến sẽ hỗ trợ phần nào
trong quá trình tìm hiểu thi phẩm theo hướng đi sâu khai thác theo phong cách
sáng tác.
2. Tên sáng kiến:
Tìm hiểu tác phẩm Việt Bắc từ phong cách nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Cầm Thị Bích Thu
- Địa chỉ : Trường THPT Yên Lạc
- Số điện thoại: 0916841618
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:

Bản thân tác giả.

5. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến:
- Dạy học (môn Ngữ văn cho học sinh THPT)
- Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Nâng cao hiệu quả trong dạy học tác phẩm
Việt Bắc của Tố Hữu.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 25/10/2019
7. Mô tả bản chất sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến:
7.1.1. Cơ sở lí luận:
Những nhà văn, nhà thơ lớn phải là những phong cách lớn. Dẫu rằng, với
Tố Hữu luôn tâm niệm làm thơ đối với ông chỉ là “ nghề tay trái” vì không có
nhiều thời gian dành cho thơ. Thế nhưng, khi đã viết thơ thì đó không phải là thứ

để tiêu khiển, càng không phải ham danh vị, mà là để phục vụ lý tưởng cách
mạng mà nhà thơ đã chọn. Thi sĩ khao khát được sáng tác như một nhu cầu bức
xúc bản năng và dành hết tâm huyết cũng như tài năng cho thơ. Thế nên, nhiều
tác phẩm của ông, nhất là trong Việt Bắc, Tố Hữu đã viết lên bản hùng ca và
tình ca cách mạng về Việt Bắc, về kháng chiến của dân tộc. Tác phẩm này tiêu
2


biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
Phong cách nghệ thuật chính là diện mạo thẩm mĩ độc đáo, riêng biệt của
nhà văn trong cách sáng tác, được tạo thành bởi sự thống nhất của các phương
tiện biểu hiện, phù hợp với cái nhìn riêng biệt của nhà văn về đời sống. Phong
cách nghệ thuật được hình thành nhờ sự lặp đi lặp lại một số yếu tố thuộc phạm
trù nội dung và hình thức một cách có thẩm mĩ, xuyên suốt sự nghiệp sáng tác
của tác giả. Đặc trưng nhất quán đầu tiên của phong cách nghệ thuật là tính
thống nhất, ổn định, bền vững.
Phong cách nghệ thuật Tố Hữu không nằm ngoài đặc điểm trên. Nhìn lại
toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, ta thấy các sáng tác của ông gắn bó song
hành với con đường cách mạng của dân tộc. Ông đã dành cả cuộc đời cho Đảng
và cho thơ:
Tròn năm mươi tuổi: Đảng và thơ
Từ ấy hồn vui mãi đến giờ
Mái tóc pha sương chưa cạn ý
Con tằm rút ruột vẫn còn tơ
Thuyền con vượt sóng không nghiêng ngả
Nghĩa lớn xuôi dòng lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Đảng và thơ! (Xuân 1987)
Thơ Tố Hữu mang tính chất thơ trữ tình chính trị sâu sắc. Thơ trữ tình
chính trị là thơ ca phản ánh những vấn đề chính trị xã hội bằng phương thức của

thể loại trữ tình. Bởi vì, là nhà thơ chiến sĩ thơ trước hết nhằm mục đích phục vụ
cách mạng và những nhiệm vụ chính trị của dân tộc trong mỗi một giai đoạn lịch
sử nên thơ ông có sự thống nhất giữa mục đích tuyên truyền cách mạng và nội
dung trữ tình. Các vấn đề chính trị không khô khan mà thấm thía lòng người
bằng những cảm xúc trữ tình mãnh liệt, tha thiết sâu lắng.
Vẻ đẹp phong cách này biểu hiện ở: nguồn cảm hứng khai thác từ đời sống
chính trị đất nước, từ hoạt động cách mạng và tình cảm chính trị của bản thân…
Ở sự cảm nhận, khám phá đời sống trên phương diện chính trị, trong mối quan
hệ cuộc đấu tranh cách mạng với ân tình cách mạng. Với nội dung hướng về
những tình cảm lớn (với quê hương, đồng chí, lãnh tụ…), lẽ sống lớn (sẵn sàng
3


dấn thân, xả thân vì cách mạng), niềm vui lớn... Có thể nói “Tố Hữu đã đưa thơ
chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”
Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Vẻ đẹp sử
thi trong thơ Tố Hữu được thẻ hiện ở chỗ nhà thơ tập trung khắc họa những bối
cảnh rộng lớn, những biến cố quan trọng tác động mạnh mẽ đến vận mệnh dân
tộc. Hình tượng trung tâm là con người của sự nghiệp chung, cá nhân kết tinh số
phận, vẻ đẹp của cộng đồng. Cảm hứng chủ đạo mang cảm hứng lịch sử - dân
tộc ngợi ca. Cảm húng lãng mạn trong thơ ông hướng về tương lai, hay nói tới
“ngày mai”, khẳng định lí tưởng, niềm tin vào tương lai, vào cách mạng.
Giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết. Giọng điệu này bắt nguồn từ cơ
sở: chất Huế trong con người và hồn thơ Tố Hữu; rung động mãnh liệt với đời
sống cách mạng, nghĩa tình cách mạng; ý thức về mối giao cảm giữa nhà thơ và
bạn đọc: Thơ là chuyện đồng điệu (…) trên cở sở đồng ý đồng tình,...Biểu hiện
trong cách thể hiện tình cảm chính trị bằng giọng tình bạn, tình yêu, tình cảm gia
đình, ở cách xưng hô gần gũi, thân mật như một lời trò chuyện tâm tình.
Đậm đà tính dân tộc. Nội dung thơ Tố Hữu phản ánh hiện thực đời sống
dân tộc bằng sự gắn bó khăng khít với đạo lí tự ngàn xưa và làm giàu “nhuận

sắc” cho những tình cảm, đạo đức truyền thống. Nghệ thuật thơ mang đậm tính
dân tộc ở thể thơ: đa dạng nhưng đặc biệt thành công ở những thể thơ truyền
thống (lục bát: mang cả sắc thái lục bát ca dao và lục bát cổ điển như Việt Bắc,
Bầm ơi, Khi con tu hú…, thất ngôn: trang trọng cổ điển nhưng linh hoạt, biến
hóa trong gieo vần tạo nhịp phù hợp với việc diễn tả những tình cảm của thời đại
mới như Mẹ Tơm, Bác ơi, Theo chân Bác…). Ngôn ngữ: sở trường trong việc
sủ dụng từ ngữ hình ảnh ước lệ, ví von có tính truyền thống. Thơ ông giàu nhạc
điệu với cách tạo nhạc điệu phát cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt; biệt
tài sử dụng từ láy cùng vần, phối thanh, ngắt nhịp; tạo nhạc điệu bên trong tâm
hồn con người .
“Phong cách chính là người”(Buy- Phông). Thơ trữ tình chính chị là đặc

4


điểm phong cách bao trùm trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, làm
nên dấu ấn, diện mạo riêng như “một dấu vân tay” không hề lẫn. Đặc biệt, qua
Việt Bắc – đỉnh cao thơ ca kháng chiến khi mà“Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc
đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi”(Tố Hữu). Và “Với Tố
Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí
quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca” (Đặng Thai Mai).
7.1.2. Thực trạng của vấn đề:
Tuy trong nhiều năm gần đây, dạy học văn đã có nhiều đổi mới về phương
pháp nhưng ở hầu hết các trường phổ thông vẫn chủ yếu áp dụng phương pháp
truyền thống. Với phương pháp này, giáo viên là người truyền thụ kiến thức một
chiều giúp học sinh hiểu cơ bản những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm, học sinh hoạt động chưa tích cực, hiệu quả đem lại cũng chưa cao. Hơn
nữa, trong giảng dạy thơ ca cần nắm chắc những đặc trưng của thơ, nhưng
không phải ai cũng có thể cảm thụ hết được cái hay cái đẹp của thi ca. Nhất là
với những tác phẩm thơ ca cách mạng như Việt Bắc vốn rất khô khan khó nói

với nội dung chính trị sâu sắc.
Dạy tác phẩm văn học đi từ phong cách nghệ thuật, đi từ sức mạnh ngôn từ
không phải là mới nhưng chưa thật sự được ứng dụng rộng rãi, chưa rút được
nhiều kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả. Học sinh đôi khi hiểu tác phẩm còn
suy diễn hoặc hiểu chưa đúng phong cách của tác giả đó dẫn đến khám phá tác
phẩm chưa thật sâu sắc. Chính vì vậy, tìm hiểu tác phẩm Việt Bắc từ phong cách
nghệ thuật thơ Tố Hữu thật sự cần thiết để cả người dạy và học có thể khai thác
đầy đủ hết chiều sâu mạch ngầm văn bản và tạo hứng thú cảm nhận văn chương.
7.1.3. Tìm hiểu tác phẩm Việt Bắc từ phong cách nghệ thuật của Tố Hữu:
7.1.3.1 Vài nét về tác giả, tác phẩm:
a. Tác giả:
- Tiểu sử:
+ Tố Hữu sinh năm 1920, mất năm 2000, tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành

5


+ Quê quán: làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên – Huế.
+ Sinh trưởng trong gia đình nho học ở Huế và có truyền thống yêu văn chương.
+ Tố Hữu sớm giác ngộ cách mạng và hăng say hoạt động cách mạng, kiên
cường đấu tranh trong các nhà tù thực dân.
+ Tố Hữu đảm nhiệm nhiều cương vị trọng yếu trên mặt trận văn hóa và trong
bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
- Đường thơ, đường cách mạng: con đường thơ và con đường hoạt động cách
mạng của ông có sự thống nhất, không thể tách rời. Mỗi tập thơ của ông là một
chặng đường cách mạng.
+ Tập thơ “Từ ấy” (1937-1946)
+ Tập thơ “Việt Bắc” (1946-1954)
+ Tập thơ “Gió lộng” (1955-1961)

+ Tập thơ “Ra trận”(1962-1971) và tập “Máu và hoa” (1972-1977)
+ Các tập thơ còn lại: thể hiện những chiêm nghiệm về cuộc đời của tác giả.
- Phong cách thơ Tố Hữu:
+ Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình – chính trị.
+ Thơ Tố Hữu thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
+ Thơ Tố Hữu có giọng tâm tình, ngọt ngào tha thiết.
+ Thơ Tố Hữu mang tính dân tộc đậm đà.

6


⇒ Thơ Tố Hữu là tấm gương phản chiếu tâm hồn một người chiến sĩ cách mạng
suốt đời phấn đấu, hi sinh vì tương lai tươi đẹp của dân tộc, cuộc sống hạnh
phúc của con người.
b. Tác phẩm Việt Bắc:
- Hoàn cảnh sáng tác: Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền
núi trở về miền xuôi, trung ương Đảng và Chính Phủ rời chiến khu Việt Bắc về
lại thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt
Bắc.
- Giá trị tác phẩm: Việt Bắc là bản hùng ca tái hiện cuộc kháng chiến chống
Pháp vĩ đại của dân tộc với bao gian khổ, hi sinh, mất mát nhưng hào hùng, bất
khuất. Đó cũng là bản tình ca về những tình cảm, niềm vui, lẽ sống lớn của
người cán bộ cách mạng đã từng gắn bó sâu sắc với Việt Bắc, với cách mạng
kháng chiến của dân tộc. Việt Bắc đậm đà tính dân tộc cả phương diện nội dung
lẫn hình thức nghệ thuật.
7.1.3.2. Tìm hiểu tác phẩm từ phong cách nghệ thuật của Tố Hữu:
a. Thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp trữ tình chính trị:
* Khái quát chung:
- Thơ chính trị: Là thơ trực tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị, những sự
kiện chính trị nhằm mục đích tuyên tuyền, cổ động. Chính vì thế, thơ chính trị

thường có nguy cơ rơi vào khô khan, áp đặt.
- Thơ Tố Hữu đúng là thơ chính trị, bởi đề tài trong thơ Tố Hữu là những vấn đề
chính trị, hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm
lớn và niềm vui lớn của Đảng, dân tộc, cách mạng.
- Nhưng thơ Tố Hữu cũng rất đỗi trữ tình. Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị
lên đến đỉnh cao. Có được điều ấy là nhờ những vấn đề chính trị trong thơ Tố
Hữu đã được thực sự chuyển hóa thành những vấn đề của tình cảm, cảm xúc rất
mực tự nhiên, chân thành, đằm thắm với một giọng thơ ngọt ngào, tâm tình,
giọng của tình thương mến. Dù viết về đề tài, cảm hứng gì thì nhà thơ cũng lấy
7


những vấn đề chính trị làm hệ quy chiếu. Với Tố Hữu “tả tình hay tả cảnh, kể
chuyện mình hay kể chuyện người, viết về các vấn đề lớn hay về một sự việc
nhỏ... là để nói cho được cái lí tưởng cộng sản ấy thôi” (Chế Lan Viên). Thế
nên, vẻ đẹp độc đáo trong thơ Tố Hữu chính là sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn
chất chính trị và yếu tố trữ tình.
* Biểu hiện cụ thể trong bài thơ Việt Bắc:
- Thơ Tố Hữu nói về những vấn đề chính trị:
+ Bài thơ đề cập đến sự kiện lịch sử là cuộc chia tay giữa những người kháng
chiến với nhân dân Việt Bắc vào tháng 10- 1954 “ Mình về thành thị xa xôi/ Nhà
cao còn thấy núi đồi nữa chăng?”. Đó cũng là khoảng thời gian vô cùng quan
trọng đối với dân tộc khi Hiệp định Giơ- ne- vơ về Đông Dương được kí kết.
Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây
dựng cuộc sống mới. Không khí chính trị, tình cảm cách mạng thật sự đã sống
dậy ngay từ những dòng thơ đầu tiên của thi phẩm.
+ Tác phẩm tái hiện cả một chặng đường dài “ mười lăm năm ấy” cuộc kháng
chiến chống Pháp của dân tộc. Những vấn đề liên quan đến cách mạng, kháng
chiến của đất nước như được sống lại trong nỗi nhớ của kẻ ở, người đi. Đó là
những khó khăn gian khổ, thiếu thốn mà cách mạng và nhân dân đã phải trải

qua: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù/... Bát cơm chấm muối mối thù
nặng vai”. Đó cũng là những dấu mốc lịch sử không thể quên từ lúc tiền khởi
nghĩa đến những ngày sôi động của cách mạng tháng 8-1945: “Mình về, còn
nhớ núi non/ Nhớ khi kháng Nhật, thủa còn Việt Minh/ Mình đi, mình có nhớ
mình/ Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”. Còn là những kỉ niệm tình
quân dân như cá với nước trong những tháng ngày chống giặc dốt “Nhớ sao lớp
học i tờ/ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”. Đến những đêm hành
quân với khí thế ngất trời như vẻ đẹp “Hào khí Đông A” của quân đội nhà Trần
thủa xưa: “ Những đường Việt Bắc của ta/ Đêm đêm rầm rập như là đất rung/
Quân đi điệp điệp trùng trùng”. Cả những nơi trung ương họp bàn việc quân
8


đầy nắng gió “Nắng trưa rực rỡ sao vàng/ Trung ương, Chính phủ luận bàn
việc công”...
+ Cảm hứng chủ đạo của bài thơ không phải là cảm hứng của cái tôi lãng mạn cá
nhân bày tỏ cảm xúc về tình yêu đôi lứa hay những buồn đau về cuộc đời số
phận mà là cảm hứng ân tình cách mạng, niềm biết ơn sâu sắc với Đảng, Bác
Hồ, căn cứ địa cách mạng, nhân dân... Chẳng hạn, hình ảnh Hồ Chí Minh được
lặp lại nhiều lần trong tác phẩm như một minh chứng cho nội dung chính trị của
bài thơ, bởi Bác Hồ là lãnh tụ vĩ đại, tư tưởng của Bác là kim chỉ nam cho mọi
hoạt động và con đường cách mạng của dân tộc:

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
(...)
Còn non, còn nước, còn trời,
Bác Hồ thêm khỏe, cuộc đời càng vui.
(...)
-Mình về với Bác đường xuôi,

Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người.
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời,
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường.
-Thơ Tố Hữu rất đỗi trữ tình:
+ Cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi nhớ đằm sâu, tuôn trào, mênh mang, lan tỏa
cả không gian và thời gian của “ta” và “mình”, người đi và kẻ ở gắn liền với tình
cảm sắt son chung thủy – nỗi nhớ về cảnh và người, nỗi nhớ về những kỉ niệm…
Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại đã làm nên dòng cảm xúc miên man cho thi phẩm,
9


tạo nên chất trữ tình tha thiết bay bổng. Bài thơ mang âm điệu của một bản tình
ca ngọt ngào, đằm thắm.
+ Cùng với nỗi nhớ, cảnh và người Việt Bắc hiện lên với những chi tiết vừa
chân thực, giản dị, vừa lộng lẫy, tươi tắn, thơ mộng, giàu sức rung động lòng
người.
Nhà thơ say sưa đắm mình vào cảnh vật thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đẹp
thơ mộng, lãng mạn “Nhớ gì như nhớ người yêu/ Trăng lên đầu núi nắng chiều
lưng nương”; ngắm bức tranh tứ bình trong hoài niệm một thời gắn bó với bốn
mùa mang những nét đẹp đặc trưng của núi rừng “Rừng xanh hoa chuối đỏ
tươi/...Ngày xuân mơ nở trắng rừng/...Ve kêu rừng phách đổ vàng/...Rừng thu
trăng rọi hòa bình”...
Nhà thơ cũng dạt dào cảm xúc khi nhớ những con người Việt Bắc ân tình,
ân nghĩa thủy chung, chịu thương chịu khó trong lao động mà cũng rất đỗi
duyên dáng, khéo léo... “Nhớ từng bản khói cùng sương/ Sớm khuya bếp lửa
người thương đi về”, “Nhớ người dân nón chuốt từng sợi giang”
+ Niềm vui hân hoan, hạnh phúc trong niềm vui lớn của dân tộc khi đất nước
đón nhận tin vui chiến thắng: “Tin vui chiến thắng trăm miền/ Hòa Bình, Tây
Bắc, Điện Biên vui về/ Vui từ Đồng Tháp, An Khê/ Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi
Hồng”

+ Giọng điệu ngọt ngào, tâm tình với kết cấu đối đáp, cách xưng hô mình – ta và
thể thơ lục bát truyền thống, sở trường sử dụng từ láy và các hình ảnh so sánh ví
von đậm đà tính dân tộc cũng góp phần làm nên chất trữ tình đằm thắm, tha
thiết, ngọt ngào trong bài thơ.
b. Từ nội dung trữ tình chính trị, thơ Tố Hữu còn mang vẻ đẹp sử thi và
lãng mạn:
* Khái quát chung:
10


- Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn là một trong những đặc điểm nổi
bật của văn học Việt Nam 1945-1975. Bởi đó là một nền văn học phát triển
trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt gắn liền với 30 năm đấu tranh của dân tộc. Nằm
trong dòng chảy đó, thơ Tố Hữu cũng dạt dào nguồn cảm hứng sử thi và lãng
mạn.
- Văn học mang chất sử thi được hiểu: Đây là văn học của những vấn đề, những
sự kiện có ý nghĩa lịch sử, của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Nhân
vật chính thường tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó số phận mình
với số phận đất nước, thể hiện và kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cả cộng
đồng. Lời văn sử thi cũng thường mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp
tráng lệ, hào hùng.
- Sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn. Đó là cảm hứng bay bổng mãnh liệt
nâng đỡ con người vượt lên hiện thực khó khăn, hướng tới tương lai tươi sáng,
niềm tin chiến thắng...
- Nội dung trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu thường tìm đến và gắn liền với
khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu
ngay từ đầu là cái tôi chiến sĩ, về sau cáng trở thành cái tôi nhân danh cộng
đồng, nhân danh Đảng và dân tộc. Nhân vật trữ tình trong thơ ông là con người
thể hiện tập trung những phẩm chất giai cấp, dân tộc. Cảm hứng lãng mạn trong
thơ Tố Hữu hướng vào tương lai, khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và niềm say

mê với con đường cách mạng, ngợi ca nghĩa tình cách mạng và con người cách
mạng. Bởi vậy mà thơ Tố Hữu thường cất lên thành những tiếng hát: khúc hát
tâm tình, bài ca chiến đấu và tiếng reo ca chiến thắng.
* Biểu hiện trong bài thơ Việt Bắc:
- Vẻ đẹp sử thi:
+ Việt Bắc là khúc hùng ca tái hiện cả một thời kì đấu tranh vĩ đại của dân tộc
trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Những địa danh gắn liền với các trận đánh,
mộc son lịch sử hiện lên trong bài thơ thật hào hùng, tráng lệ: “ Ai về ai có nhớ
không?/Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng/ Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng/ Nhớ
từ Cao- Lạng, nhớ sang Nhi Hà..” Con đường Việt Bắc ra trận với sức mạnh
11


“như nuốt trôi trâu” trùng trùng điệp điệp “ Những đường Việt Bắc của ta/ Đêm
đêm rầm rập như là đất rung”
+ Tiếng nói trong bài thơ, cảm xúc của nhà thơ không phải là cảm xúc cá nhân
mà là tiếng nói nhân danh cộng đồng, dân tộc. Tố Hữu đã thay lời cho tất cả
những cán bộ cách mạng, cho nhân dân Việt Bắc thể hiện tấm lòng biết ơn, niềm
tự hào và sự thủy chung gắn bó với Việt Bắc,với Đảng, Bác Hồ và với cách
mạng dân tộc. Sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh
hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ca ngợi công ơn của chủ
tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc. Nói cách khác, các sự kiện, các vấn
đề của đời sống cách mạng, lí tưởng và chính trị trong “mười lăm năm ấy” qua
trái tim nhạy cảm của nhà thơ đều trở thành cảm hứng sử thi thực sự.
+ Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên trong bài thơ kết tinh, hội tụ những vẻ
đẹp phẩm chất đại diện cho vẻ đẹp dân tộc. Đó là những con người “đậm đà
lòng son” luôn thủy chung gắn bó với dân tộc “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy
chung” . Họ cũng là những người dân Việt Nam bình dị, chăm chỉ trong lao
động “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Họ mạnh mẽ, kiên cường, làm chủ thiên

nhiên và cuộc sống “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Nhớ nhất là cái tình
nghĩa đùm bọc, chia sẻ ngọt bùi đắng cay của họ “Thương nhau chia củ sắn lùi/
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Trong chiến đấu, những bước chân của họ
cũng mạnh mẽ, kiên cường “Dân công đỏ đuốc từng đoàn/ Bước chân nát đá,
muôn tàn lửa bay”...
+ Nhiều đoạn thơ mang giọng điệu hào hùng, tráng ca đậm chất sử thi như đoạn
thơ miêu tả các trận đánh của nhân dân, cách mạng “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
(....)/ Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà”. Đoạn miêu tả vẻ đẹp, sức sống trỗi
dậy trong không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội “Đường về đây đó gần thôi/
Hôm nay rời bản về nơi thị thành/ Nhà cao chẳng khuất non xanh/ Phố đông
càng giục chân nhanh bước đường”...
- Cảm hứng lãng mạn:

12


+ Việt Bắc là khúc hát tâm tình thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ với
nhân dân Việt Bắc, với cách mạng, kháng chiến của dân tộc. Biết ơn chân thành
sâu sắc những con người Việt Bắc tuy cuộc sống còn thiếu thốn khó khăn nhưng
hết lòng với cán bộ cách mạng, sẵn sàng chia sẻ ngọt bùi đắng cay...
+ Khúc ca thủ thỉ tâm sự đó còn là những lời hứa thủy chung, gắn bó không bao
giờ quên của kẻ ở, người đi “Ta với mình, mình với ta/ Lòng ta sau trước mặn
mà đinh ninh/ Mình đi, mình lại nhớ mình/ Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình
bấy nhiêu”, “Nước trôi lòng suối chẳng trôi/ Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non/
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn”
+ Bài thơ còn thể hiện niềm tin vào cách mạng, Đảng, Bác Hồ và niềm tin tưởng
vào tương lai chiến thắng: “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng
như ngày mai lên”. Câu lục khái quát cả một thời kì đau thương của dân tộc, cả
dân tộc chìm trong nỗi đau nô lệ. Thế nhưng, niềm tin vào tương lai tươi sáng,
vào chiến thắng luôn bừng sáng như ngày mai lên.

Hình ảnh của Bác như ánh sáng diệu kì, là niềm tin bất diệt mà cả dân tộc
luôn hướng tới: “Ở đâu u ám quân thù/ Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi/ Ở
đâu u ám giống nòi/ Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”, “Lòng ta ơn Bác đời
đời/ Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song/ Ngàn năm xưa nước non Hồng/
Còn đây, ơn Bác nối dòng dài lâu/ Ngàn năm non nước mai sau/ Đời đời ơn Bác
càng sâu càng nồng/ Cầm tay nhau hát vui chung/ Hôm sau, mình nhé, hát cùng
thủ đô”... Những khúc ca về Bác, về cách mạng thấm đậm cảm hứng lãng mạn
rất quen thuộc trong thơ Tố Hữu.
+ Con người cách mạng trong cảm hứng lãng mạn của bài thơ là “tình nhân
mặn nồng, người chồng chung thủy, người con hiếu thảo, người bạn thiết cốt,
người cán bộ tận tụy, là con người mang cái tình yêu của Tố Hữu đến cao độ,
những lời nói ra làm cho mọi người khóc được, cười được...” (Hoàng Như Mai)
+ Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên Việt Bắc cũng tràn đầy cảm hứng lãng mạn
“Nhớ gì như nhớ người yêu/ Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”. Nỗi
nhớ Việt Bắc được so sánh với nỗi nhớ trong tình yêu đã mở ra một không gian
hẹn hò trữ tình, thơ mộng. Hay bức tranh thiên nhiên bốn mùa vừa cổ điển vừa
13


hiện đại nơi núi rừng Việt Bắc cũng thật hài hòa đăng đối “Rừng xanh hoa chuối
đỏ tươi”, “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”...
+ Phần 2 của bài thơ tràn đầy cảm hứng ngợi ca về viễn cảnh tương lai tươi
sáng, giàu đẹp của đất nước trong tình cảm gắn bó giữa miền ngược va miền
xuôi: “Đường về đây đó gần thôi/ Hôm nay rời bản về nơi thị thành/ Nhà cao
chẳng khuất non xanh.../Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng/ Phố phường như nấm
như măng giữa trời/ Mái trường mái ngói đỏ tươi...”
c. Thơ Tố Hữu mang giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết:
- Mỗi nhà thơ đều mang trong mình một thứ giọng riêng, không sôi nổi mạnh
mẽ với những “câu thơ dậy sóng” như Phan Bội Châu, thơ Tố Hữu mang một
chất giọng riêng rất ngọt ngào tha thiết như những lời thủ thỉ tâm tình, chia sẻ,

giãi bày, giọng của tình thương mến.
- Sở dĩ có chất giọng đặc biệt đó là bởi do được thừa hưởng từ điệu tâm hồn con
người xứ Huế với những câu ca, giọng hò tha thiết ngọt ngào của quê hương.
Nhưng nó cũng xuất phát từ quan niệm của nhà thơ: “Thơ là chuyện đồng điệu
(...) Thơ là tiếng nói đồng ý và đồng tình, tiếng nói đồng chí”. Hơn nữa, nhà thơ
đặc biệt dẽ rung động với nghĩa tình cách mạng, luôn hướng đến đồng bào, đồng
chí mà giãi bày tâm sự, trò chuyện, kêu gọi, nhắn nhủ.
- Trong thi phẩm Việt Bắc, giọng điệu đó được toát lên từ chính lối câu tứ đối
đáp “mình- ta” nhẹ nhàng, đằm thắm rất quen thuộc như cách thổ lộ tình yêu
đôi lứa; từ chính tình cảm chân thành, gắn bó thiết tha nghĩa tình thủy chung của
kẻ ở người đi...
+ Chất giọng thật ngọt ngào khi lời thơ cất lên: “Mình về mình có nhớ ta/
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”... Sự chuyển hóa của cặp đại từ “Mình –
ta” trong suốt bài thơ đã đem đến một cảm xúc thật thân thiết, gắn bó. Thế nên,
câu chuyện cách mạng vốn khó nói, khô khan giờ đây như lời của tình yêu thân
mật, gần gũi, tha thiết dễ đi vào lòng người.
+ Chất ngọt ngào, tha thiết có được cũng bởi từ chính tình cảm chân thành,
gắn bó của nhà thơ với Việt Bắc và cách mạng. Đó là tấm lòng thành kính, biết

14


ơn sâu sắc những ân tình cách mạng, tình cảm của nhân dân Việt Bắc, Đảng va
lãnh tụ.
+ Bài thơ nói đến nghĩa tình cách mạng nhưng thi sĩ lại dùng giọng của tình
thương, lời của người yêu để trò chuyện, giãi bày tâm sự. Cả bài thơ được viết
theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca và phần đầu này
cũng thế - nó là lời giãi bày tâm sự giữa người đi (người về xuôi) với người ở lại
là đồng bào Việt Bắc. Mười lăm năm cách mạng thành Mười lăm năm ấy thiết
tha mặn nồng, người đi người ở thành mình - ta, ta - mình quấn quít bên nhau

trong một mối ân tình sâu nặng “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết ấy tạo nên âm hưởng trữ tình sâu đậm của
khúc hát ân tình cách mạng Việt Bắc. Từ khúc hát dạo đầu “Mình về mình có
nhớ ta”... đến những lời nhắn gửi, giãi bày “Mình đi có nhớ những ngày, Mình
về rừng núi nhớ ai... Ta đi ta nhớ những ngày - Mình đây ta đó đắng cay ngọt
bùi”...; đến những nỗi nhớ da diết sâu nặng: “Nhớ gì như nhớ người yêu/Trăng
lên đầu núi, nắng chiều lưng nương/Nhớ từng bản khói cùng sương/Sớm khuya
bếp lửa người thương đi về..”.
d. Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc:
* Khái quát chung:
- Tính dân tộc là phẩm chất tư tưởng- thẩm mĩ độc đáo của sáng tác văn học, thể
hiện sự gắn bó giữa tác phẩm văn học với văn hóa và tinh thần dân tộc. Tính dân
tộc thể hiện ở cảnh sắc thiên nhiên, nhịp điệu đời sống, cái nhìn và tính cách dân
tộc, đặc biệt là ở các hình thức thể loại và phương tiện ngôn từ mà dân tộc ấy ưa
chuộng.
- Kế thừa truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển,
thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Hiện thực
đời sống cách mạng, những tình cảm chính trị, đạo lí cách mạng qua sự cảm
nhận và thể hiện của Tố Hữu đã gắn bó, hòa nhập với truyền thống tinh thần,
tình cảm và đạo lí của dân tộc, làm phong phú thêm cho truyền thống ấy. Về thể
thơ, Tố Hữu sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ dân tộc và có những sáng tạo
làm phong phú thêm cho các thể thơ này. Trong thơ Tố Hữu có thể bắt gặp một
15


cách phổ biến những lối so sánh, các phép chuyển nghĩa và cách diến đạt trong
thơ ca dân gian. Sáng tạo hình ảnh trong thơ Tố Hữu thiên về biểu hiện giá trị
tình cảm hơn là giá trị tạo hình. Chiều sâu tính dân tộc trong thơ Tố Hữu là ở
nhạc điệu, đặc biệt phong phú về vần và cách phối âm...
* Biểu hiện trong bài thơ Việt Bắc:

- Ở phương diện nội dung:
+ Đề tài chia tay giàu tính dân tộc: Bài thơ đã được ra đời trong một hoàn cảnh
lịch sử hết sức đặc biệt, trong một không khí chung của cả nước khi miền Bắc
giành thắng lợi. Cả đất nước trong niềm vui hân hoan chiến thắng và những
người cán bộ cách mạng lại phải chia tay Việt Bắc để tiếp tục nhiệm vụ cách
mạng mới. Tình cảm của người cán bộ cách mạng đã hòa vào bầu không khí
chung của cả dân tộc: “Mình về mình có nhớ ta/ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn
nồng”
+ Cảnh sắc thiên nhiên, nhịp điệu đời sống của Việt Bắc nói riêng cũng chính là
vẻ đẹp linh hồn tạo vật Việt Nam nói chung. Trong tác phẩm thiên nhiên hiện
lên ở những thời điểm khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, có nắng, có mưa, có
sương mù… Tất cả hiện lên như một thước phim quay chậm thật thơ mộng về
thiên nhiên Việt Bắc. Chắc hẳn đọc đoạn thơ nhiều người sẽ không khỏi ngỡ
ngàng trước vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người.
Đó là vẻ đẹp cuộc sống rất đỗi bình dị, yên ả nơi chiến khu Việt Bắc “Nhớ
từng bản khói cùng sương”, “Nhớ từng rừng nứa bờ tre”, “Nhớ sao tiếng mõ
rừng chiều/ Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
Đó còn là bức tranh tứ bình với những nét đẹp hòa quyện giữa con người
với thiên nhiên rất đậm đà tính dân tộc “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/Đèo cao
nắng ánh dao gài thắt lưng/Ngày xuân mơ nở trắng rừng/Nhớ người đan nón
chuốt từng sợi giang/Ve kêu rừng phách đổ vàng/Nhớ cô em gái hái măng một
mình/Rừng thu trăng rọi hòa bình/Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Đây
vẫn được coi là đoạn thơ giàu tính dân tộc trong bài thơ bởi vẻ đẹp thiên nhiên
bốn mùa rất đặc trưng tiêu biểu cho vẻ đẹp linh hồn tạo vật Việt Nam . Cảnh sắc
mùa đông với sắc đỏ của những bông hoa chuối rừng. Bức tranh màu xuân với
16


sắc trắng bung nở của rừng hoa mơ. Bức tranh mùa hè được cảm nhận bằng cả
màu sắc và âm thanh - màu vàng của rừng phách, của nắng hè và âm thanh của

tiếng ve. Bức tranh mùa thu đẹp đẽ, êm đềm, mơ mộng với ánh trăng vàng - ánh
trăng hòa bình đang chiếu rọi khắp núi rừng. Vẻ đẹp đó hòa với những phẩm
chất tính cách con người chăm chỉ cần cù trong lao động, mãnh mẽ, kiên cường
trong cuộc sống, khéo léo, duyên dáng, thủy chung ân tình.
+ Tố Hữu đã thể hiện tình cảm ân tình, tấm lòng thủy chung gắn bó với cách
mạng, với Đảng và lãnh tụ cũng chính là thể hiện sự kế thừa tiếp nối mạch
nguồn đạo lí của dân tộc. Những phẩm chất và đạo lí của con người Việt Bắc
được nhắc đến trong bài thơ cũng chính là những nét đẹp tâm hồn, tính cách con
người Việt Nam mọi thời đại:
Những con người Việt Nam luôn hướng về Việt Bắc, về Bác Hồ coi đó là lẽ
sống cao đẹp, là sự sống trường tồn, là con đường chính nghĩa: “ Ở đâu u ám
quân thù/ Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi/ Ở đâu u ám giống nòi/ Trông về
Việt Bắc mà nuôi chí bền”, “ Còn non, còn nước, còn trời/ Bác Hồ thêm khỏe,
cuộc đời càng vui”
Việt Bắc còn vẽ nên hình ảnh những con người Việt Nam với những vẻ đẹp
truyền thống từ ngàn đời. Những con người vất vả, lam lũ, chịu thương, chịu
khó. Những con người thủy chung, tình nghĩa, luôn đồng cam, cộng khổ và san
sẻ cùng nhau. Tình nghĩa của cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng và
kháng chiến - đó cũng chính là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ bài thơ. Dặc
biệt, phẩm chất cao đẹp yêu thương, đùm bọc, nhường cơm sẻ áo, thủy chung ân
nghĩa ân tình của con người Việt Bắc đã tiếp nối đạo lí “uống nước nhớ nguồn”,
“lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta. Sao quên được bao tháng ngày gắn bó đầy
ắp kỉ niệm buồn vui của kẻ ở người đi ?“Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước
đi/ áo chàm đưa buổi phân li/ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Sao quên
được những tình cảm của nhân dân ?“Ta đi ta nhớ những ngày/ Mình đây ta đó,
đắng cay ngọt bùi/ Thương nhau, chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng”

17



- Ở hình thức nghệ thuật: Tính dân tộc chính là tất cả những đặc điểm thuần
Việt, gần gũi với tâm hồn người Việt Nam. Ở bài thơ này, tính dân tộc biểu hiện
trên nhiều phương diện như: kết cấu, hình ảnh, thể thơ, giọng điệu…
+ Tính dân tộc thể hiện ở việc nhà thơ đã vận dụng thành công thể thơ lục bát
truyền thống của dân tộc. Thể thơ này được khởi nguồn từ ca dao, có đầy đủ khả
năng để biểu hiện các trạng thái tình cảm, cảm xúc từ nơ hồ, mong manh đến sôi
nổi, mạnh mẽ. Quy tắc luân chuyển thanh điệu và tạo nhịp điều đều đặn của câu
thơ lục bát phù hợp với những trạng thái cân xứng, êm ả, nhịp nhàng của cảm
xúc hay hình ảnh. Chẳng hạn ca dao có viết:
Mình về có nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát như một cách đắc địa, và đặc biệt thành
công khi diễn tả nghĩa tình sâu sắc của cán bộ cách mạng với quê hương kháng
chiến. Giả sử Tố Hữu dùng thể thơ ngũ ngôn, lục ngôn, hay thơ tám chữ trong
bài thơ này thì chắc chắn cái vị ngọt ngào tình nghĩa của con người Việt Bắc, cái
đằm thắm nhớ thương của những cán bộ cách mạng … sẽ thật khó thể hiện.
Người đọc cảm nhận được nỗi xúc động, nghẹn ngào, lưu luyến thực sự của
“người đi – kẻ ở”:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
Những câu thơ lục bát khoan thai, nhịp nhàng đã có tác dụng đặc biệt trong
việc khơi gợi cảm xúc của người đọc. Người đọc tự nhiên hòa nhịp cùng dòng
tâm trạng của nhân vật trữ tình đầy xúc động. Từ rừng nứa, bờ tre, mái đình, cây
đa; từ hoa chuối, hoa mơ, Ngòi Thia, sông Đáy đến Phủ Thông, đèo Giàng…, tất
cả đã làm cho con người nhớ thương da diết. Những hình ảnh ấy đã ăn sâu vào
tâm khảm, trở thành “cõi nhớ” trong lòng mỗi người, đã từng gắn bó với Việt
Bắc.

Chính thể thơ lục bát đã quyết định giọng điệu, tiết tấu của bài thơ. Tiết tấu
18


của mỗi câu thơ trong Việt Bắc viết nhịp nhàng, thường có nhịp 2/2/2; 3/3;
2/2/2/2; 4/4. Chẳng hạn:
- Ở đâu u ám quân thù (2/2/2)
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi (4/4)
- Mình đi, mình lại nhớ mình (2/2/2)
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu (4/4)
Nhịp thơ cũng chính là nhịp điệu cảm xúc, giúp cho những kỉ niệm được
gợi dậy, vang ngân trong lòng người đi – kẻ ở và trong cả người thưởng thức.
Những cặp lục bát bắt vần, thả nhịp đều đặn thiết tha. Cứ mỗi cặp lục bát lại
điểm một nốt nhạc cảm xúc “có nhớ”. Những tiếng ấy lại liên hồi xô đuổi, dồn
dập như những đợt sóng thương nhớ cồn cào.
+ Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc thể hiện ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao
duyên. Rất nhiều bài ca dao xưa thường dùng kiểu đối đáp để diễn tả tâm trạng
của nhân vật trữ tình: “Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò” , “Mình nói với ta
mình chửa có chồng”, “Ta đi qua ngõ mình bồng con ra …” “Tiện đây mận mới
hỏi đào/ Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?/ Mận hỏi thì đào xin thưa/ Vườn
hồng có lối nhưng chưa ai vào.”
Kiểu kết cấu đối đáp trong cao dao giao duyên là một kiểu kết cấu độc đáo
để nhân vật trữ tình có thể vừa kể lể sự việc vừa bộc lộ cảm xúc, thể hiện thái độ
tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được nói tới. Đây cũng là kiểu kết
cấu tạo ra những khả năng vô hạn cho nhân vật trữ tình một “diện mạo” như ý
muốn.
Tố Hữu đã vận dụng kiểu kết cấu tuyệt vời ấy trong một bài thơ mà mục
đích của nó không phải để nói tới tình yêu của chàng – nàng, anh – em mà là
một bài thơ ngợi ca mối quan hệ khăng khít gắn bó giữa chính phủ cách mạng và
quê hương cách mạng với nhân dân Việt Bắc.

– Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng?
– Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
19


Ở đây 2 chữ “mình – ta” biến hóa chỉ là sự phân đôi của một chủ thể. Cái
“tôi” trữ tình của nhà thơ tự tách mình ra, một phần tâm hồn đã “thấm đất Việt
Bắc” đang tâm tình với người cán bộ về xuôi. Nhân vật trữ tình đã bộc lộ tâm
trạng nhớ thương, tình cảm ân nghĩa thủy chung giữa cán bộ cách mạng và
mảnh đất Việt Bắc. “Mình – ta” cùng nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng
khổ: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, nhớ những ngày tháng reo ca lớp
học i tờ; nhớ những ngày liên hoan vang ngân núi rừng; nhớ những tiếng mõ
rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối, nhớ người mẹ nắng cháy lưng, cô em
gái hái măng một mình, nhớ người đan nón, nhớ những đuốc sáng từng đoàn
quân điệp điệp trùng trùng tiến bước nhau ra trận địa… Các tiếng “mình – ta”,
các tiếng gọi, hỏi, đáp cứ liên tiếp, xoắn xuýt lấy nhau, gối lên nhau, liên tiếp
như những đợt sóng cảm xúc không ngừng nghỉ:

“Mình về mình có nhớ

không?”, “Mình đi có nhớ những ngày”/ “Mình về có nhớ chiến khu”/ “Mình
về, rừng núi nhớ ai?”/ “ Mình đi, có nhớ những nhà…”
“Mình – ta” điệp khúc đan xen tạo ra âm hưởng từ những đợt sóng hoài
niệm, những vùng kí ức tươi đẹp về sống động như vừa mới diễn ra. Tất cả tỉ mỉ,
cụ thể tới mức người đọc có thể hình dung và tái hiện từng đường nét, dáng vẻ
của mảnh đất Việt Bắc và con người nơi đây.
Kiểu kết cấu đối đáp “mình – ta” được Tố Hữu vận dụng một cách độc
đáo, sáng tạo. Nó tạo nên giọng điệu tâm tình ru vỗ lúc như thủ thỉ, tâm tình, lúc

lắng sâu vào nỗi nhớ, niềm thương, lúc trào dâng như những đợt sóng cảm xúc
ào ạt, dạt dào. Sử dụng kiểu đối đáp trong ca dao, người đọc cứ tự nhiên bước
vào tác phẩm mà không bị vướng cản bởi câu chữ, ngôn từ. Giọng điệu ru vỗ tha
thiết của bài thơ cứ tự nhiên khiến hồn người đọc hòa chung vào dòng cảm xúc
của “mình-ta” lúc nào không hay.
Có thể nói, đối đáp đã trở thành một kiểu kết cấu mở, có khả năng bộc lộ,
mời gọi cảm xúc hết lớp này đến lớp khác tưởng chừng như không có điểm
dừng. Đây là kiểu kết cấu giúp cho nhân vật trữ tình có khoảng rộng để bộc lộ
tâm trạng, cảm xúc của mình. Và với mỗi người Việt Nam luôn tìm thấy cho mối

20


liên hệ rất gần gũi khi bắt gặp kiểu kết cấu đối đáp này khi thưởng thức bài thơ
Việt Bắc như họ đã từng được nghe trong những bài ca dao, từ thuở xa xưa.
+ Tính dân tộc mang đậm hồn ca dao và truyện Kiều, thể hiện qua các hình ảnh
ước lệ tượng trưng, so sánh ví von độc đáo, các phương tiện chuyển nghĩa quen
thuộc của văn học truyền thống.
Chẳng hạn ca dao:
Người về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ …
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói nhớ thương mình bấy nhiêu
Thì Tố Hữu viết:
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Trong Truyện Kiều:
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Tố Hữu viết:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Những hình ảnh ước lệ quen thuộc của ca dao, dân ca được Tố Hữu sử dụng
rất thích hợp với khung cảnh và tâm trạng trong bài Việt Bắc như: “ Nhìn cây
nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”, “Nước trôi lòng suối chẳng trôi”, “Đá mòn
nhưng dạ chẳng mòn”.

21


Những biện pháp tu từ nghệ thuật như so sánh “Nguồn bao nhiêu... bấy
nhiêu”, “Nhớ gì như nhớ..”; hoán dụ “Áo chàm đưa buổi phân li...”; đối lập
“Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”...
+ Về ngôn ngữ: Bài thơ sử dụng từ ngữ và lối nói quen thuộc của dân tộc, những
so sánh ví von truyền thống nhưng lại biểu hiện được nội dung mới của thời đại.
Bài thơ có sự chuyển đổi linh hoạt về ngôn ngữ, giọng điệu, tạo nên hiệu quả
biểu đạt cao. Chất thơ mang đậm sắc màu núi rừng và cuộc sống của những
người dân Việt Bắc.
+ Nhạc điệu cũng thể hiện chiều sâu tính dân tộc của nghệ thuật thơ Tố Hữu.
Phát huy tiếng nhạc phong phú của các câu thơ, diễn tả nhạc điệu bên trong của
tâm hổn, một thứ nhạc tâm tình mà ở bề sâu của nó là điệu cảm xúc dân tộc, tâm
hổn dân tộc. Tố Hữu có biệt tài trong việc sử dụng các từ láy, dùng vần và phối
hợp thanh điệu: các từ láy xuất hiện dày đặc trong bài thơ :“thiết tha, bồn chồn,
bâng khuâng,đêm đêm, điệp điệp...”; các vần “ta...tha”, “không...sông”,
“cồn...chồn”...Giai điệu thơ vừa ngọt ngào sâu lắng khi diễn tả tình cảm gắn bó
thủy chung, vừa sôi động hào hùng thể hiện cuộc chiến đấu và chiến thắng vẻ
vang của dân tộc, vừa tha thiết thành kính với hình ảnh Đảng và Bác Hồ kính
yêu…
7.1.3.3. Kết luận:
Việt Bắc của Tố Hữu đã hội tụ tất cả những cái đẹp của một tác phẩm

văn chương. Đó là cái đẹp trong nội dung cảm xúc của nhà thơ với tấm lòng
chân thành đầy xúc động biết ơn sâu sắc với nhân dân, cách mạng, kháng chiến,
Đảng và Bác Hồ. Đó cũng là những lời thủ thỉ tâm tình như lời hứa thủy chung
gắn bó của tác giả với Việt Bắc và kháng chiến. Cái đẹp của thi phẩm còn chính
bởi những dấu ấn phong cách độc đáo của nhà thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp thơ trữ
tình chính trị, khuynh hướng sử thi và lãng mạn, giọng điệu thơ ngọt ngào tha
thiết và đậm đà tính dân tộc. Giáo viên là người có vị trí đặc biệt quan trọng
22


giúp học sinh khám phá những giá trị thẩm mĩ đó. Tuy rằng, không có một
phương pháp tiếp cận nào là tuyệt đối, mỗi cách đều có cái hay riêng. Thế
nhưng, dạy học tác phẩm văn học khai thác từ phong cách nghệ thuật của tác giả
luôn mang lại những hiệu quả rất thiết thực, đặc biệt là nhắm thẳng vào đối
tượng trung tâm là học sinh, khơi gợi ở các em hứng thú trong việc học văn. Dạy
học tác phẩm theo cách này sẽ giúp chúng ta đi sâu tìm hiểu những giá trị tác
phẩm một cách hoàn chỉnh nhất. Các em học sinh sẽ phát huy rất nhiều năng lực
của bản thân, được mở mang hiểu biết về cảnh đẹp quê hương đất nước, về con
người trong cuộc sống lao động, hướng các em tới những lẽ sống cao đẹp, niềm
tin vào Đảng, cách mạng, biết ơn nhân dân và lãnh tụ...
7.2. Về hiệu quả và khả năng áp dụng của sáng kiến:
- Sáng kiến cải thiện rất nhiều những vướng mắc khó khăn trong dạy học văn.
- Vận dụng dạy học tác phẩm văn học khai thác theo đặc điểm phong cách nghệ
thuật có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo
viên, góp phần để giáo viên phát huy, phát triển các phương pháp giảng dạy tích
cực, đồng thời đánh giá được năng lực người học.
- Cách dạy học văn như vậy tạo nên sự sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có
ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Giờ đọc văn,
nhất là thơ ca vì thế không nhàm chán. Kiến thức tác phẩm văn học được khám
phá một cách đầy cảm hứng, đầy đủ, chính xác.

- Kết quả thu được sau khi áp dụng sáng kiến

12A
12I

Học sinh học theo hướng

Học sinh tìm hiểu tác phẩm

tìm hiểu tác phẩm từ phong

theo hướng cũ

cách nghệ thuật
<5
5 → 7,75 8 → 10
0%
63,8%
36,2%
3,1%
70,4%
26,5%

<5
9,1%
12,5%

5 → 7,75 8 → 10
77,3%
13,6%

78,4%
9,1%

Nhận xét: Từ bảng trên ta thấy khi được học tác phẩm theo hướng khai
thác tác phẩm từ phong cách nghệ thuật và vận dụng vào bài kiểm tra, số lượng
23


học sinh đạt kết quả yếu kém giảm. Đồng thời số lượng học sinh đạt kết quả giỏi
tăng rõ rệt từ đó cho thấy sáng kiến đã đem lại những hiệu quả nhất định.
- Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi ở tất cả các trường THPT.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Sách giáo khoa, vở ghi.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia
áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có)
- Khi tiến hành triển khai học sinh rất hứng thú trong các công việc được giao và
tham gia sôi nổi vào quá trình tìm hiểu tác phẩm trên lớp học.
- Nâng cao khả năng đọc hiểu và vận dụng kiến thức cho học sinh.
- Sáng kiến này còn giúp tăng cường phát triển năng lực cho học sinh khi học
tập nói chung cũng như học môn Ngữ văn nói riêng.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả
Đạt theo đúng mục đích ban đầu đề ra.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
Nâng cao khả năng ôn tập cho học sinh, tăng kết quả trung bình môn Ngữ văn.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu


Số

Tên tổ

TT chức/cá nhân
1
Lớp 12A
2
Lớp 12 I

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực

THPT Yên Lạc
THPT Yên Lạc

áp dụng sáng kiến
Ngữ văn THPT
Ngữ văn THPT
Yên lạc, ngày 06 tháng 02 năm 2020

Thủ trưởng đơn vị

Tác giả sáng kiến
24


(Kí tên, đóng dấu)


(Kí, ghi rõ họ tên)

Cầm Thị Bích Thu

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuyển tập thơ Tố Hữu, Nhà xuất bản văn học, 2007
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD, 2008
3. Lí luận văn học, NXBGD, 1996
4. Tư liệu Ngữ văn 12, NXBGD, 2008
5. Các bài viết liên quan đến vấn đề đề cập trong sáng kiến trên các
phương tiện truyền thông …

25


×