Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Quyền tự do ngôn luận trên internet trong pháp luật và thực tiễn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MINH VỌNG

QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN INTERNET
TRONG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MINH VỌNG

QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN INTERNET
TRONG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền con ngƣời
Mã số: 8380101.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TSBùi Tiến Đạt

HÀ NỘI- 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn là trung thực, bảo
đảm tính chính xác, tin cậy. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Vọng


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: ..................................................................................................... 8
LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN
LUẬN TRÊN INTERNET ................................................................................ 8
1.1. Khái niệm và các hình thức biểu đạt của quyền tự do ngôn luận .............. 8
1.2. Khái niệm quyền tự do ngôn luận trên internet ....................................... 11
1.3. Pháp luật một số nƣớc về quyền tự do ngôn luận trên internet và bài học
kinh nghiệm ..................................................................................................... 29
Kết luận chƣơng 1 ........................................................................................... 38
CHƢƠNG 2: ................................................................................................... 40
PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN
INTERNET Ở VIỆT NAM ............................................................................. 40
2.1. Quyền tự do ngôn luận trên internet theo pháp luật Việt Nam ................ 40

2.2. Thực tiễn về việc thực hiện và bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên
internet ở Việt Nam hiện nay .......................................................................... 64
Kết luận Chƣơng 2 .......................................................................................... 78
CHƢƠNG 3: ................................................................................................... 80
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN INTERNET
Ở VIỆT NAM.................................................................................................. 80
3.1. Nhóm các giải pháp chung ....................................................................... 80
3.2. Nhóm các giải pháp cụ thể ....................................................................... 84
Kết luận Chƣơng 3 .......................................................................................... 95
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 99


DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
- ARPA: Advanced Research Projects Agency (Cơ quan quản lý dự án
nghiên cứu phát triển)
- BTTTT: Bộ Thông tin & Truyền thông
- ICCPR: International Covenant on Civil and Political Rights (Công ƣớc
Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị)
- TCP/IP: Transmission Control Protocol/Internet Protocol (bộ giao thức
liên mạng)
- WAN: Wide area network (Mạng diện rộng)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
“Nếu có một quyền có giá trị hơn tất cả các quyền khác trong một xã
hội dân chủ, thì đó chính là quyền tự do ngôn luận” [10, tr.36] - đây là nhận
định của Ông Melvin Urofsky, một Giáo sƣ lịch sử và chính sách công nổi
tiếng ngƣời Mỹ. Thật vậy, tự do ngôn luận và tự do báo chí là những quyền

rất thiết yếu và là mục tiêu đấu tranh của các lực lƣợng tiến bộ tại nhiều
quốc gia từ nhiều thế kỷ qua. Những quyền này đƣợc gọi là “quyền bảo vệ
quyền”, vì nếu không có chúng là thiếu đi một phƣơng tiện quan trọng để
bảo vệ các quyền khác [5,tr.307].
Quyền tự do ngôn luận là nền tảng mà không có nó, nhiều quyền con
ngƣời khác cũng không đƣợc thực hiện. Nó là một quyền cơ bản của con
ngƣời không phân biệt về văn hóa, chính trị, tôn giáo, dân tộc hay các yếu
tố khác. Quyền đƣợc giữ quan điểm và tự do ngôn luận là cơ sở để thực
hiện đầy đủ nhiều quyền con ngƣời khác, ví dụ để hƣởng quyền tự do hội
họp, lập hội, quyền bầu cử, ứng cử thì quyền tự do ngôn luận là cơ sở để
con ngƣời thực hiện đầy đủ các quyền này.
Tự do ngôn luận theo cách truyền thống đƣợc thể hiện qua báo chí,
thông qua biểu diễn nghệ thuật, hình ảnh… và nhiều hình thức biểu đạt
mang tính cá nhân khác nhƣ nói, viết hay ngôn ngữ ký hiệu. Tuy nhiên,
trong thời đại công nghệ số hiện nay, thời đại của công nghệ 4.0 thì việc sử
dụng phƣơng tiện mạng internet để truyền tải thông tin là rất phổ biến. Sự
phát triển của mạng internet cho phép hình thành mạng lƣới toàn cầu để
trao đổi thông tin mà không nhất thiết phải dựa trên các hình thức truyền
thông đại chúng phổ biến. Nhận thức rõ điều này, Liên minh châu Âu đã
ban hành khuyến nghị về tự do internet, trong đó trọng tâm là bảo đảm
quyền tự do biểu đạt, quyền tự do hội họp, quyền riêng tƣ và quyền đƣợc
hƣởng chế tài hữu hiệu trên môi trƣờng internet. Nhƣ vậy, với sự ra đời và
1


phát triển của mạng internet đã trở thành một công cụ hữu dụng để con
ngƣời thể hiện quyền tự do ngôn luận của mình.
Sau khi trở thành thành viên Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã từng bƣớc
tham gia hầu hết các Công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời, trong đó có
Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966, có

hiệu lực từ ngày 23/3/1976 (Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia
nhập ngày 24/9/1982). Việt Nam đã từng bƣớc nội luật hóa các quy định
của Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, trong đó, quyền tự
do ngôn luận đƣợc ghi nhận không chỉ ở đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất
là Hiến pháp mà còn đƣợc chi tiết hóa trong các văn bản pháp luật khác có
liên quan. Tuy nhiên ngay trong pháp luật và thực tế cũng còn có những
điểm hạn chế nhất định cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để có thể
đảm bảo việc ghi nhận, thực hiện đầy đủ quyền tự do ngôn luận nói chung
và quyền tự do ngôn luận trên internet nói riêng phù hợp với các quy định
và các giá trị phổ quát của quyền con ngƣời.
Với xu thế toàn cầu hóa hiện nay và với những yêu cầu mới đặt ra
trong thời đại công nghệ số, việc phân tích thực tiễn và hệ thống pháp luật
hiện hành của Việt Nam qua đó đề xuất các giải pháp hƣớng đến hoàn thiện
hệ thống pháp luật, các cơ chế nhằm mục đích bảo vệ các quyền cơ bản của
con ngƣời, trong đó có quyền tự do ngôn luận trên internet, hiện là một yêu
cầu hết sức cần thiết. Trong bối cảnh đó, học viên lựa chọn đề tài “Quyền tự
do ngôn luận trên internet trong pháp luật và thực tiễn Việt Nam” để thực
hiện luận văn thạc sĩ, với mong muốn nghiên cứu, phân tích, đánh giá một
cách toàn diện các vấn thực tiễn và thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền
tự do ngôn luận trên mạng internet, từ đó có những đề xuất các giải pháp
hƣớng đến bảo đảm, bảo vệ quyền tự do ngôn luận trên internet.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình tìm hiểu, đã có một số công trình khoa học, bài nghiên
2


cứu liên quan tới nội dung quyền tự do ngôn luận trên internet. Trong đó phải
kể đến Luận văn “Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Hoàng Đức Nhã (2016), Học viện Khoa học xã hội .
Những công trình, bài nghiên cứu này chủ yếu nêu lên nội dung lý luận về tự

do ngôn luận nói chung, có đề cập đến tự do ngôn luận trong môi trƣờng
mạng xã hội nhƣng với tính cách là một hiện tƣợng mang tính xã hội, đồng
thời tập trung nhiều vào các biện pháp mang tính quản lý thông tin nhiều
hơn, mà chƣa đi sâu vào phân tích cụ thể về quyền tự do ngôn luận trên
internet với tƣ cách là quyền con ngƣời cả dƣới góc độ lý luận và góc độ
pháp lý, thực tiễnViệt Nam.
Theo đó, chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn
diện và chuyên sâu về chủ đề này dƣới góc độ nhân quyền cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Cụ thể, có thể kể đến một số sách tham khảo, luận văn, bài tạp
chí tiêu biểu sau đây:
- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2018), Phạm vi và giới hạn
của Tự do internet, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật;
- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Nxb. Hồng Đức;
- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2015), Giới hạn chính đáng
đối với các quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức;
- Hoàng Đức Nhã (2016), Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã
hội ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ luật học – Học viện Khoa học xã
hội;
- Lê Minh Dũng (2016), “Cơ sở pháp lý của quyền tự do ngôn luận”,
Tạp chí Nghề luật;
- Nguyễn Hoàng Thanh (2016),“Hoàn thiện quy định về quyền tự do
báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân nhằm thực hiện Hiến
3


pháp năm 2013”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Đỗ Thị Hƣơng (2016), “Quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn
luận với việc đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân ở Việt Nam

hiện nay”, Tạp chí Nghề luật;
- Vũ Thƣ, Bùi Đức Hiền (2010), “Tự do ngôn luận trên internet và
vấn đề quản lý nhà nước về thông tin mạng”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
- Đƣa ra cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các vấn
đề lý luận, thực tiễn liên quan đến quyền tự do ngôn luận trên internet
dƣới góc độ luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền con ngƣời.
- Đánh giá thực trạng về quyền tự do ngôn luận trên internet trong thực
tiễn, từ đó đề xuất giải pháp bảo đảm ghi nhận, thực thi quyền tự do ngôn
luận trên internet.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ các vấn đề lý luận về quyền tự do ngôn luận trên internet.
- Nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật quốc tế, pháp luật một số nƣớc trên
thế giới và pháp luật Việt Nam về quyền tự do ngôn luận trên internet trên
các khía cạnh ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền.
- Thực trạng về quyền tự do ngôn luận trong thực tiễn, phân tích một
số vụ việc điển hình về quyền tự do ngôn luận trên internet và đƣa ra quan
điểm về việc bảo đảm tự quyền do ngôn luận trên internet.
- Đƣa ra đƣợc các giải pháp hƣớng đến bảo đảm quyền tự do ngôn
luận trên internet.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận, pháp lý và thực
tiễn của tự do ngôn luận trên internet.
4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn

về quyền tự do ngôn luận trên internet, không mở rộng đến các quyền con
ngƣời khác và các hình thức, phƣơng tiện biểu đạt khác của tự do ngôn luận.
Tuy nhiên nhiều vấn đề của quyền tự do ngôn luận trên internet đƣợc nhìn
nhận có tính chất tƣơng tự nhƣ một phần của quyền tự do ngôn luận nói
chung nhìn với góc độ là một quyền cơ bản của con ngƣời.
Đề tài nghiên cứu từ góc độ pháp luật quốc tế, pháp luật của một số
nƣớc trên thế giới và pháp luật Việt Nam, thực tiễn ở Việt Nam về quyền tự
do ngôn luận trên internet.
5. Những đóng góp của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu chuyên sâu với những đóng góp về mặt
khoa học trong việc phân tích một cách tƣơng đối toàn diện các vấn đề về cơ
sở lý luận và thực tiễn, pháp lý về quyền tự do ngôn luận trên internet với
góc độ quyền con ngƣời. Kết quả nghiên cứu luận văn có những điểm mới về
mặt khoa học nhƣ sau:
Thứ nhất, khái niệm và đặc trƣng cơ bản của quyền tự do ngôn luận
trên internet; công cụ hỗ trợ quyền tự do ngôn luận trên internet; phạm vi và
giới hạn của quyền tự do ngôn luận trên internet.
Thứ hai, phân tích pháp luật quốc tế, pháp luật một số nƣớc và pháp
luật Việt Nam về quyền tự do ngôn luận trên internet; thực trạng về tự do
ngôn luận trên internet ở Việt Nam hiện nay dƣới góc độ quyền thụ hƣởng,
giới hạn của quyền và bảo vệ quyền; phân tích, bình luận một số vụ việc điển
hình về tự do ngôn luận trên internet.
Thứ ba, phân tích các quan điểm và đề xuất các giải pháp hƣớng đến
bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên internet ở Việt Nam.
6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận
5


Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nƣớc và
pháp luật, về quyền con ngƣời, quyền công dân. Ngoài ra, luận văn còn dựa
trên cơ sở lý luận của khoa học pháp luật về quyền con ngƣời, những lý luận
có tính phổ biến ở một số quốc gia về lĩnh vực này.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của triết học Mác - Lênin, trực
tiếp sử dụng các phƣơng pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử nhƣ phƣơng pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phƣơng pháp lịch
sử cụ thể, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử
dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu của các bộ môn khoa học khác nhƣ
phƣơng pháp luận so sánh, phƣơng pháp thống kê...
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một trong số ít những công trình nghiên cứu chuyên sâu
về quyền tự do ngôn luận trên internet ở Việt Nam nhìn dƣới góc độ nhân
quyền. Chính vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn thiết thực trong việc thúc đẩy và bảo đảm các quyền con ngƣời,
quyền công dân. Luận văn cung cấp một cách chung nhất có tính hệ thống
những kiến thức, thông tin, luận điểm và các giải pháp mới có giá trị tham
khảo với việc thúc đẩy quyền tự do ngôn luận trên internet ở nƣớc ta trong
thời gian tới.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nhà nƣớc trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn bản pháp luật liên quan
đến bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên internet ở Việt Nam; đồng thời có thể
phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong pháp luật về lĩnh vực
này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu; kết luận; lời cam đoan; danh mục tài liệu
6



tham khảo, nội dung của Luận văn đƣợc chia thành 3 Chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền tự do ngôn luận trên internet.
Chương 2: Pháp luật nƣớc ngoài, pháp luật Việt Nam về tự do ngôn
luận trên internet và thực tiễn về quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam qua phân
tích, bình luận một số vụ việc điển hình.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên internet.

7


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VỀ QUYỀN
TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN INTERNET
1.1. Khái niệm và các hình thức biểu đạt của quyền tự do ngôn
luận
1.1.1. Khái niệm về quyền tự do ngôn luận
Tự do ngôn luận là một quyền con ngƣời cơ bản, có vai trò quan trọng
đối với mọi cá nhân và các xã hội dân chủ. Trong lịch sử, quyền tự do này đã
sớm đƣợc các nhà tƣ tƣởng, các nhà lập hiến, lập pháp các quốc gia bảo vệ.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống pháp luật nhân quyền quốc tế
cũng quan tâm bảo vệ quyền dân sự thiết yếu này chu[4; tr.15]. Nhiều ngƣời
cho rằng, nếu không có quyền tự do ngôn luận, thì nhiều quyền con ngƣời
cũng không thể thực hiện đƣợc.
Khái niệm tự do ngôn luận có thể đƣợc tìm thấy trong các văn kiện
chính trị - pháp lý quốc tế từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. Bộ luật về
quyền (Bill of Right) của Vƣơng Quốc Anh ngay từ năm 1680 đã quy định
hiến định về tự do ngôn luận và còn nguyên giá trị tới ngày nay. Tuyên ngôn
Dân quyền và Nhân quyền của Pháp năm 1789 cũng khẳng định tự do ngôn
luận nhƣ là một quyền cố hữu của con ngƣời. Điều 11 của Tuyên ngôn này
khẳng định “Trao đổi tự do các ý tưởng và quan điểm là một trong những
quyền quý giá nhất của con người. Mọi người đều có quyền được nói, viết, in

ấn tự do; đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với những hành vi
lạm dụng quyền tự do ngôn luận” [3,tr.51].
Về mặt nội hàm, một số nhà lập pháp và học giả cho rằng, tự do ngôn
luận là một quyền đa diện và đa chiều (a multi-faceted right), vốn không chỉ
bao gồm quyền biểu đạt, hay đƣợc phổ biến, chia sẻ thông tin và ý tƣởng mà
còn bao gồm ba khía cạnh đặc trƣng sau đây: (1) Quyền tìm kiếm thông tin
và ý tƣởng; (2) Quyền tiếp nhận thông tin và ý tƣởng; (3) Quyền đƣợc phổ
8


biến thông tin và ý tƣởng. Nhƣ vậy, tự do ngôn luận và quyền tự do ngôn
luận có mối liên hệ mật thiết với các quyền tự do biểu đạt, tự do thông tin…
Thuật ngữ tự do biểu đạt (freedom of expression) đôi khi còn đƣợc dùng để
đề cập đến cả hành động tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin hoặc quan
niệm, bất kể bằng cách sử dụng phƣơng tiện truyền thông nào [3,tr.52].
Ở một góc độ khác, tự do ngôn luận là quyền trình bày ý kiến một cách
mạch lạc, rõ ràng của một ngƣời nào đó mà không sợ sự trả thù hoặc kiểm
duyệt của chính quyền, hay chịu sự trừng phạt của xã hội. Thuật ngữ này
đồng nghĩa với tự do biểu đạt/diễn đạt hoặc tự do thể hiện đôi khi còn đƣợc
dùng để nói đến cả hành động tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin hoặc
quan niệm, quan điểm, bất kể bằng cách sử dụng phƣơng tiện truyền
thông nào
/>%ADn. (truy cập 5/2019) ].
Về mặt pháp lý, quyền tự do ngôn luận đƣợc thừa nhận là một quyền
con ngƣời trong Điều 19 Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền và còn đƣợc
ghi nhận tại Điều 19 Công ƣớc Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị,
Điều này quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao
gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không
phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in
hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại

chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”.
Tuy nhiên, cần thấy rằng theo luật nhân quyền quốc tế, quyền tự do
ngôn luận là một loại quyền tự do (liberty rights) và là một loại tự do cơ bản
(fundamental freedoms) của con ngƣời. Mặc dù có thể có nhiều quan điểm
khắc nhau về nguồn gốc hình thành của quyền con ngƣời, nhƣng theo tác giả
thì quyền cơ bản của con ngƣời, trong đó có quyền tự do ngôn luận có nguồn
gốc từ khi con ngƣời sinh ra và tồn tại mà không phụ thuộc vào hệ thống
9


pháp luật của bất kỳ quốc gia nào. Cho dù hầu hết các hệ thống pháp luật
ngày nay đều thể hiện các quyền con ngƣời cơ bản nhƣng điều đó chẳng qua
là sự ghi nhận lại các quyền vốn có này. Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế
(1948) cũng đã nêu “….thừa nhận phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng
và không thể tách rời mọi thành viên trong gia đình nhân loại”, rồi trong
Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa kỳ (1976) cũng đã nêu “mọi
người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc …”. Từ đó cho thấy rằng tự do ngôn luận là một
quyền tự do có yếu tố tự nhiên, vốn có và quan trọng của con ngƣời cần đƣợc
bảo đảm, bảo vệ.
Từ những luận điểm nêu trên, theo tác giả có thể hiểu một cách chung
nhất, tự do ngôn luận là một quyền cơ bản của con ngƣời, đó là quyền tự do
thể hiện ý chí, quan điểm của mình và tự do tìm kiếm, tiếp nhận, truyền đạt
thông tin, ý tƣởng.
1.1.2. Các hình thức biểu đạt của quyền tự do ngôn luận
Tự do ngôn luận là một quyền đa diện bao gồm không chỉ là quyền
đƣợc biểu đạt hay phát tán thông tin và tƣ tƣởng, mà còn bao gồm ba khía
cạnh sau: quyền tìm kiếm thông tin và tƣ tƣởng, quyền tiếp nhận thông tin và
tƣ tƣởng, quyền chia sẻ thông tin và tƣ tƣởng.

Về các hình thức biểu đạt của quyền tự do ngôn luận cũng rất phong
phú, đó có thể là sự tiếp nhận và truyền đạt thông tin bằng lời nói (tại các hội
thảo, cuộc họp, tọa đàm, phỏng vấn…), bằng bản viết, bản in hay qua các
hình thức nghệ thuật nhƣ múa, kịch, sân khấu, các tác phẩm văn học nghệ
thuật; có thể đƣợc truyền thông trực tiếp qua báo chí, truyền thanh và truyền
hình, mà chúng còn thƣờng đƣợc trình bày trong các loại hình nghệ thuật:
tiểu thuyết, thi ca, điện ảnh, biếm họa, và ca từ… Con ngƣời có rất nhiều
hình thức để biểu đạt quan điểm, tƣ tƣởng hay cảm xúc của mình. Có những
10


biểu đạt bằng cơ thể, thông qua khuôn mặt, mắt, chân, tay, ngón tay. Cũng có
những biểu đạt thông qua giọng nói, tiếng nói… Trong nhiều tình huống, sự
im lặng cũng là một cách biểu đạt. Các hình thức biểu đạt của quyền tự do
ngôn luận có thể đƣợc thực hiện thông qua bất kỳ phƣơng tiện thông tin đại
chúng nào, nhƣ: báo chí, phát thanh, truyền hình hay trên phƣơng tiện
internet.
Quyền tự do ngôn luận thƣờng không phải là một vấn đề có liên quan
đến các hoạt động riêng tƣ, hƣớng nội, mà liên quan đến các hoạt động
truyền thông đại chúng, hƣớng ngoại nhƣ: nói, viết ra một quan điểm, suy
nghĩ về một vấn đề chính trị, tôn giáo, quan điểm sống, công bố một quyển
sách, một bài thơ, một bài báo, hay một bức ảnh, phát sóng một chƣơng trình
phát thanh hay truyền hình, sáng tác và triển lãm một tác phẩm nghệ thuật,
đọc một bài diễn văn trong một cuộc mít-tinh chính trị, hay có thể là đăng tải
một bài phát biểu trên nhật ký web (weblog), mạng xã hội hay thu âm vào
một hệ thống podcast…[31]. Trong đó Internet trở thành một công cụ,
phƣơng tiện quan trọng để thực hiện các quyền tự do ngôn luận với nhiều
hình thức đa dạng khác nhau từ nói, viết, chia sẻ thông tin, tìm kiếm, tiếp cận
thông tin, truyền bá thông tin, lƣu trữ thông tin, trao đổi, thảo luận ....
1.2. Khái niệm quyền tự do ngôn luận trên internet

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của mạng internet
a. Khái niệm mạng internet
Tiền thân của mạng internet ngày nay là mạng arpanet. Cơ quan quản
lý dự án nghiên cứu phát triển ARPA thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ liên kết bốn
địa điểm đầu tiên vào tháng 7 năm 1969 bao gồm: Viện nghiên cứu
Stanford, Đại học California, Los Angeles, Đại học Utah và Đại học
California, Santa Barbara. Đó chính là mạng liên khu vực (Wide Area
Network - WAN) đầu tiên đƣợc xây dựng. Thuật ngữ "Internet" xuất hiện lần
đầu vào khoảng năm 1974. Lúc đó mạng vẫn đƣợc gọi là arpanet.
11


Năm 1983, giao thức TCP/IP chính thức đƣợc coi nhƣ một chuẩn đối với
ngành quân sự Mỹ và tất cả các máy tính nối với arpanet phải sử dụng chuẩn
mới này. Năm 1984, arpanet đƣợc chia ra thành hai phần: phần thứ nhất vẫn
đƣợc gọi là arpanet, dành cho việc nghiên cứu và phát triển; phần thứ hai
đƣợc gọi là milnet, là mạng dùng cho các mục đích quân sự [42].
Có thể hiểu một cách chung nhất và dễ hiểu nhất thì mạng internet là
một hệ thống thông tin toàn cầu có thể đƣợc truy nhập công cộng gồm
các mạng máy tính đƣợc liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin
theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức
liên mạng đã đƣợc chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng
ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu
và các trƣờng đại học, của ngƣời dùng cá nhân và các chính phủ trên toàn
cầu… [42].
Với những tiện ích riêng có của mình, hiện nay, internet đã trở thành
một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại. Có kể tới một số tiện ích
siêu việt mà internet mang lại nhƣ: (i) giúp kết nối bạn bè, ngƣời thân, giao
tiếp với mọi ngƣời ở khắp nơi trên thế giới thông qua các mạng xã hội
Facebook, Twitter, Google+,… ; (ii) một kho chứa đựng lƣợng kiến thức

khổng lồ, giúp chúng ta dễ dàng, nhanh chóng tìm kiếm những thông tin, tin
tức; (iii) là một môi trƣờng lí tƣởng để phát triển kinh doanh, bán hàng
online; (iv) góp phần quan trọng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, phát triển
hình thức học trực tuyến hay đào tạo từ xa; (v) có thể dùng email để trao đổi
thƣ từ với nhau một cách nhanh chóng thay bằng cách gửi thƣ truyền
thống… Vì vậy, internet là một phƣơng tiện truyền thông vô cùng hữu ích và
không thể thiếu đối với chúng ta trong đời sống ngày nay. Đặc biệt trong
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò của internet ngày càng trở nên quan
trọng và là nền tảng, là cầu nối của mọi hoạt động kinh tế, xã hội quốc gia.
b) Đặc điểm của mạng internet
12


Với vai trò là một phƣơng tiện công nghệ và truyền thông mới, so với
các phƣơng tiện truyền thống, đối với quyền tự do ngôn luận thì internet là
một phƣơng tiện đặc biệt có nhiều ƣu việt, với những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, về kỹ thuật, internet là mạng thông tin toàn cầu, tính kết nối
cao, chỉ với một thiết bị kết nối mạng internet, một cá nhân, một tổ chức, một
doanh nghiệp có thể kết nối thông tin toàn cầu, không bị giới hạn bởi một
không gian nhất định.
Thứ hai, về tốc độ truyền tin và tiếp nhận, trao đổi thông tin trên mạng
interet do những ƣu thế của mình nên khả năng lan truyền rất nhanh. Cùng
với sự hỗ trợ của những công cụ tìm kiếm giúp thì việc tìm kiếm thông tin
chỉ trong vài giây và việc chia sẻ thông tin cũng vô cùng dễ dàng. Khoảng
cách giữa con ngƣời với con ngƣời không kể không gian địa lý chỉ cách nhau
vài cái click chuột.
Thứ ba, về lƣợng thông tin, chƣa có phƣơng tiện truyền thông nào lại
có khả năng chứa đựng lƣợng thông tin khổng lồ, đa dạng và phong phú nhƣ
trên intrenet. Các thông tin đƣợc phân làm nhiều chủ đề với những lĩnh vực
và mức độ khác nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ

thuật,… từ mức độ là các mẩu thông tin cho đến các bài nghiên cứu, bình
luận về hầu khắp các vấn đề trong nƣớc, khu vực và thế giới; từ hình ảnh một
cá nhân, một tập thể đến cả các quốc gia, dân tộc… đều đƣợc trình bày với
nhiều chiều, nhiều cách tiếp cận khác nhau [9, tr. 20]. Với internet, thông tin
đƣợc cập nhật hàng giờ, hàng ngày, mọi ngƣời đều có thể biết đƣợc những gì
đang xảy ra xung quanh mình và cả trên thế giới.
Thứ tư, internet không chỉ hỗ trợ trong việc tìm kiếm và nắm bắt thông
tin mà giúp chúng ta bày tỏ ý kiến của mình về bất cứ vấn đề nào đó thông
qua mục gửi ý kiến phản hồi tại những bài viết. Đây là công cụ giúp cho mọi
ngƣời thỏa sức sáng tạo và nêu ra ý kiến của mình, bảo vệ ý kiến của mình.
Thứ năm, về giá cả, sử dụng thông tin trên internet giá rẻ hơn so với
13


nhiều phƣơng tiện truyền thông khác nhƣ truyền hình hay báo giấy.
1.2.2. Khái niệm tự do ngôn luận trên internet
Xã hội loài ngƣời ngày càng phát triển với những đòi hỏi mới cao hơn,
theo đó, với sự phát triển nhanh chóng của internet và các phƣơng thức
truyền thông trực tuyến, các chuẩn mực nhân quyền quốc tế đã có những
bƣớc tiến để bảo vệ quyền tự do biểu đạt trực tuyến, vì nó có những đặc thù
khác với tự do ngôn luận trên các phƣơng tiện truyền thống cổ điển.
Các quyền con ngƣời truyền thống khi bƣớc vào thời đại internet sẽ
đƣợc bảo vệ theo nguyên tắc chung là “các quyền mà mọi ngƣời có ngoại
tuyến (ngoài đời/offline) cũng phải đƣợc bảo vệ tƣơng tự trực tuyến (trên
không gian internet/online)”. Đây là điều đã đƣợc nhiều cơ quan bảo vệ nhân
quyền của Liên Hợp Quốc khẳng định. Nhƣ vậy, bên cạnh khả năng thực thi
các quyền giáo dục, hội họp, giao kết hợp đồng… trên internet, việc thực thi
quyền tự do biểu đạt trực tuyến là một biểu hiện cụ thể của nguyên tắc chung
đó trong kỷ nguyên kỹ thuật số [4; tr.15].
Trong các nguyên tắc nền tảng về việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận

tại Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 hay Công ƣớc quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị năm 1966, mạng internet không đƣợc nhắc đến trực
tiếp. Tuy nhiên, có thể diễn giải cụm từ “bất kỳ phƣơng tiện truyền thông nào
khác” (any other media) (Điều 19 Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị năm 1966) bao gồm cả internet, bên cạnh các phƣơng tiện truyền
thông cổ điển nhƣ sách, báo chí, radio, truyền hình…
Nhƣ vậy, tự do ngôn luận trên internet cũng giống nhƣ tự do ngôn luận
trên các phƣơng tiện truyền thông khác về cơ bản đều đƣợc pháp luật bảo vệ
nhƣ nhau. Tuy nhiên, với những đặc điểm vượt trội của mình, internet đã
trở thành một phương tiện, nhân tố quan trọng “làm phẳng” thế giới,
mạng toàn cầu đã tạo cơ hội cho con người sức mạnh thông tin và kết nối
[30]. Con ngƣời bình đẳng gần nhƣ tuyệt đối trong việc tiếp cận và phổ biến
14


thông tin trên mạng internet. Và cũng giống nhƣ các hình thức khác của tự do
ngôn luận, tự do ngôn luận trên internet cũng có những giới hạn và sự kiểm
soát nhất định, để tránh phƣơng hại tới các quyền cơ bản khác của con ngƣời,
tới an ninh quốc gia, an ninh toàn cầu và cả an ninh mạng.
Từ những phân tích nêu trên, theo tác giả, tự do ngôn luận trên internet
là quyền tự do đƣợc tiếp cận thông tin, truyền đạt thông tin, thể hiện ý chí,
quan điểm trên mạng internet phù hợp với các giá trị phổ quát của quốc tế về
quyền con ngƣời.
Tự do ngôn luận trên internet có mối liên hệ mật thiết với tự do
internet, bởi khi tự do internet là cơ sở để có thể thực hiện đƣợc quyền tự do
ngôn luận trên internet. Mặc dù chƣa có một khái niệm chính thức nào về tự
do internet và vấn đề này còn nhiều tranh cãi, nhƣng có thể hiểu rằng tự do
internet là tự do tiếp cận, sử dụng, khai thác internet mà không bị ngăn cản,
cản trở một cách tùy tiện. Tự do internet có thể là tự do sử dụng internet (và
các ứng dụng trên internet nhƣ website, ứng dụng, phần mềm, mạng xã hội,

công cụ tìm kiếm, lƣu trữ, trao đổi thông tin …) cho việc kinh doanh, giao
kết hợp đồng, quảng cáo, hoạt động nghệ thuật, giải trí, trao đổi thông tin, hội
họp vv…. Ở nghĩa hẹp, tự do internet thƣờng đƣợc tập trung quan tâm ở khía
cạnh tự do quan điểm và biểu đạt trực tuyến nên đôi khi tự do internet và tự
do ngôn luận trên internet đƣợc sử dụng chung theo nghĩa này.
1.2.3. Đặc điểm cơ bản của quyền tự do ngôn luận trên internet
Quyền tự do ngôn luận trên internet là một quyền cơ bản của con
ngƣời nên có đầy đủ tính chất chung nhƣ: (1) tính phổ quát (universal): đã là
quyền con ngƣời nên cứ hễ là con ngƣời thì sẽ có quyền này, nó mang tính
bẩm sinh, không phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo, …; (2) tính không
thể tƣớc bỏ (inalienable): đã là quyền con ngƣời thì không thể bị tƣớc đạt,
hạn chế một cách “tùy tiện” bởi bất kỳ ai, cá nhân hay cơ quan nhà nƣớc; (3)
tính không thể phân chia (indivisible): các quyền con ngƣời đều có giá trị
15


nhất định, không có sự phân chia mức độ quan trọng cao thấp; (4) tính liên
hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): nếu một quyền con
ngƣời bị vi phạm thì nó có tác động tiêu cực đến các quyền khác và ngƣợc lại
nếu bảo vệt tốt quyền con ngƣời này thì có tác động tích cực tới các quyền
khác. Trong các đặc trƣng này, thì quyền tự do ngôn luận trên internet có vai
trò quan trọng, là cơ sở, tiền đề để thực hiện nhiều quyền con ngƣời, quyền
công dân khác. Thông qua việc thực hiện quyền tự do ngôn luận trên internet,
thì cá nhân có thể thực hiện tự do hội họp, thảo luận các vấn đề chính trị, tôn
giáo, tín ngƣỡng, tìm kiếm việc làmu, làm việc, kinh doanh, nghiên cứu, học
tập trên môi trƣờng internet. Chính vì vậy, tự do internet nói chung, tự do
ngôn luận trên internet nói riêng có vai trò quan trọng giúp cho các các quyền
con ngƣời khác đƣợc thực hiện, nhất là trong bối cảnh internet đang đƣợc áp
dụng phổ biến, rộng rãi trong thời đại hiện nay.
Ngoài ra, quyền tự do ngôn luận trên internet còn có những đặc điểm

cơ bản sau đây:
Thứ nhất, quyền tự do ngôn luận trên internet là một quyền dân
sự, chính trị cơ bản của con ngƣời đƣợc Luật nhân quyền quốc tế ghi
nhận, bảo vệ.
Quyền tự do ngôn luận lần đầu tiên đƣợc ghi nhận tại Điều 19 Tuyên
ngôn nhân quyền năm 1948. Theo đó, mọi ngƣời đều có quyền tự do ngôn
luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lƣu quan điểm mà không bị can thiệp,
cũng nhƣ tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tƣởng và thông tin
bằng bất kỳ phƣơng tiện truyền thông nào.
Tiếp đó, Điều 19 Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 tái khẳng định lại nội dung quyền này. Khoản 1 Điều 19 Công ƣớc
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 bảo vệ quyền tự do biểu
đạt mà không bị ai can thiệt. Khoản 2 Điều 19 quy định: “Mọi người có
quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và
16


truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên
truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông
qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”
[5, tr.306]. Theo đó, có thể hiểu, tự do ngôn luận đƣợc luật nhân quyền quốc
tế bảo vệ trên tất cả các lĩnh vực và dƣới bất kỳ hình thức hay phƣơng tiện
nào.
Năm 2011, Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (UNHRC, cơ quan có
thẩm quyền giám sát việc thực thi Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị việc thực thi Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966) đã thông qua Bình luận chung số 34 thay thế cho Bình luận chung số
10 về Điều 19. Bình luận chung số 34, với tổng số 52 đoạn, bao trùm nhiều
khía cạnh chi tiết của quyền tự do quan điểm và biểu đạt, trong đó đặc biệt
lƣu ý đến các phƣơng tiện truyền thông hiện đại. Trong văn kiện này, internet

đƣợc nhắc đến trực tiếp ở một số nội dung. Về vai trò của các phƣơng tiện
truyền thông nói chung, Ủy ban Nhân quyền kêu gọi các quốc gia thành viên
cân nhắc đến mức độ phát triển công nghệ thông tin và truyền thông mà đã
làm thay đổi đáng kể các hành vi thông tin trên toàn thế giới, ví dụ nhƣ các
hệ thống truyền thông dựa vào internet và điện thoại di động (đoạn 16). Về
phạm vi giới hạn quyền, Ủy ban Nhân quyền lƣu ý các quốc gia khi xây dựng
pháp luật cần quan tâm đến “sự khác biệt giữa báo in, truyền thanh, truyền
hình và internet” bên cạnh những điểm chung của các phƣơng tiện này [4;
tr.17].
Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc đã thông qua ít nhất ba nghị
quyết về tự do internet (vào các năm 2012, 2014 và 2016). Năm 2012, xuất
phát từ sáng kiến của Thụy Điển và đƣợc nhiều quốc gia ủng hộ, Hội đồng
Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết số 20/8 về thúc đẩy,
bảo vệ và thụ hƣởng quyền con ngƣời trên internet. Nghị quyết số 20/8
khẳng định rằng: “các quyền mà mọi ngƣời có ngoại tuyến cũng đƣợc bảo vệ
17


nhƣ trực tuyến, đặc biệt là tự do ngôn luận, đƣợc áp dụng bất kể biên giới và
thông qua bất kỳ phƣơng tiện nào do một ngƣời lựa chọn, phù hợp với Điều
19 Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 và Công ƣớc quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị năm 1966”. Gần đây, vào năm 2016, Hội đồng Nhân quyền
Liên Hợp Quốc lại thông qua một Nghị quyết (A/HRC/32/L.20) tái khẳng
định các quyền mà mọi ngƣời có ngoài đời cũng phải đƣợc bảo vệ trên không
gian internet. Nghị quyết đặc biệt lên án các hành động ngăn chặn tiếp
cận internet, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếp cận thông
tin và quyền riêng tƣ trực tuyến để hiện thực hóa quyền tự do biểu đạt
và duy trì quan điểm mà không bị phân biệt.
Thứ hai, quyền tự do ngôn luận trên internet là quyền chủ động,
do chủ thể (cá nhân) có quyền tự thực hiện và các chủ thể khác có nghĩa vụ

tôn trọng, kiềm chế không can thiệp, cản trở quá trình thực hiện quyền của
chủ thể có quyền. Theo đó, bất kỳ ai cũng có quyền lên mạng, thông qua các
thiết bị công nghệ để thể hiện ý tƣởng, quan điểm của mình một cách tự do
mà không bị Nhà nƣớc cản trở hay xử lý, kể cả khi quan điểm đó có liên
quan đến các vấn đề chính trị hay dân sự, kinh tế, xã hội. Các tổ chức, cá
nhân khác cũng cần có quan điểm tôn trọng và không có hành vi cản trợ,
ngăn chặn. Ở khía cạnh tiếp cận thông tin, mọi cá nhân đều có thể sử dụng
các công cụ tìm kiếm hỗ trợ nhƣ google.com, research.yahoo.com, ... để tìm
kiếm thông tin, đƣợc truy cập vào các trang web công khai để tiếp cận thông
tin, ... mà không bị hạn chế, ngăn chặn, cản trở bằng bất kỳ biện pháp nào, kể
cả biện pháp pháp lý hay biện pháp kỹ thuật.
1.2.4. Phạm vi, giới hạn của quyền tự do ngôn luận trên internet
1.2.4.1. Phạm vi của quyền tự do ngôn luận trên internet
Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc đã công nhận tính chất toàn cầu
và cởi mở của internet nhƣ một “động lực đẩy nhanh tiến bộ phát triển theo
các hình thức khác nhau” và đã “kêu gọi tất cả các quốc gia thúc đẩy và hỗ
18


trợ tiếp cận internet và hợp tác quốc tế nhằm phát triển truyền thông và
thông tin và các cơ sở truyền thông ở tất cả các quốc gia” (Nghị quyết số
20/8 của Hội đồng Nhân quyền, năm 2012). Tuy nhiên, tiếp cận kết nối
intrenet có phải là một quyền con ngƣời hay không vẫn là một chủ đề tiếp tục
tranh cãi và có nhiều quan điểm khác nhau. Nhƣng do quyền tự do ngôn luận
trên internet đƣợc coi là một quyền cơ bản của con ngƣời nên quyền đƣợc
tiếp cận thông tin qua internet cũng là một phần của quyền tự do ngôn luận
trên internet.
Bàn tới nội dung quyền tự do ngôn luận trên internet, tác giả xem xét
vấn đề dƣới góc độ tự do ngôn luận là một quyền con ngƣời cơ bản đƣợc
thực hiện thông qua phƣơng tiện internet, bao hàm cả quyền đƣợc tự do tiếp

cận thông tin qua môi trƣờng internet.
Nhƣ vậy, trong phạm vi công trình nghiên cứu, nội hàm của quyền tự
do ngôn luận trên internet là bao gồm: tự do tìm kiếm, tự do tiếp nhận, tự do
tiếp cận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, biểu đạt trạng thái, thảo luận
với mọi ngƣời thông qua mạng internet, có thể là qua các diễn đàn trực
tuyến, mạng xã hội, tìm kiếm thông tin qua các công cụ tìm kiếm hay nhiều
hình thức khác trên mạng internet…
Nhờ có internet mà mọi ngƣời dễ dàng tiếp cận thông tin hơn, bày tỏ
quan điểm nhanh chóng hơn về các vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị. Phản
ứng thông tin nhanh chóng từ xã hội giúp cho nhà nƣớc, cơ quan chức năng
năng nắm bắt, điều chỉnh chính sách kịp thời hoặc giải quyết các vấn đề nổi
cộm của đời sống xã hội, của nền kinh tế. Nhờ có internet mà cơ quan nhà
nƣớc dễ dàng minh bạch thông tin, công khai thông tin một cách nhanh
chóng, kịp thời đến ngƣời dân, tạo dựng lòng tin của ngƣời dân vào các hoạt
động của mình. Nhƣ vậy, với quyền tự do ngôn luận trên internet, tất cả mọi
ngƣời đều có quyền tự do nói ra quan điểm, ý tƣởng mà không giới hạn các
vấn đề chính trị, tôn giáo, kinh tế, xã hội.
19


Nhƣ vậy, phạm vi của tự do ngôn luận trên internet không bị giới hạn
trong lĩnh vực nào dù là chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, không giới hạn về
không gian và thời gian. Bất kỳ ai cũng có quyền nhƣ nhau, không phân biệt
độ tuổi, giới tính, sắc tộc, tôn giáo, thành phân kinh tế hay chế độ xã hội.
1.2.4.2. Giới hạn của quyền tự do ngôn luận trên internet
Quyền tự do ngôn luận trên internet cũng nhƣ quyền tự do ngôn luận
nói chung mặc dù là một quyền cơ bản của con ngƣời nhƣng không phải là
một quyền tuyệt đối.
Giới hạn quyền là quy định đƣợc ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền và một số điều ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời mà bản chất

của nó là cho phép các quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện với việc
thực hiện/thụ hƣởng một số quyền con ngƣời nhất định. Vấn đề này đƣợc ghi
nhận trong pháp luật nhân quyền quốc tế và hiến pháp của nhiều quốc gia
dƣới những hình thức diễn đạt khác nhau và mức độ khác nhau. Cụ thể, Điều
29 khoản 2 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền nêu rằng: “Khi thực hiện các
quyền và tự do của mình, mọi người phải chịu những hạn chế do luật định,
nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo sự công nhận và tôn trọng thích đáng
đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như đáp ứng những yêu cầu
chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội và phúc lợi chung trong một xã hội dân
chủ”.
Cụ thể hơn trong Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 (ICCPR) cũng có quy định cho phép hạn chế quyền trong trƣờng
hợp khẩn cấp (Điều 4). Ngoài ra theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Công ƣớc
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 thì “Việc thực hiện những
quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách
nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định,
tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần
thiết để: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an
20


×