HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BẠCH THANH SANG
HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC
VÙNG TÂY NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BẠCH THANH SANG
HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC
VÙNG TÂY NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 9229009 (Cũ: 62220309)
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS LÊ VĂN LỢI
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Bạch Thanh Sang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến dân tộc, tôn giáo vùng Tây
Nam Bộ
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về Phật giáo Nam
tông Khmer
1.3. Nhóm công trình liên quan đến tổ chức Phật giáo và Hội Đoàn kết sư
sãi yêu nước
1.4. Câu hỏi, giả thuyết và lý thuyết nghiên cứu
1.5. Một số thuật ngữ sử dụng trong luận án
Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ TÍNH
CHẤT, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI
YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ
2.1. Khái quát Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ
2.2. Quá trình hình thành và phát triển của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước vùng
Tây Nam Bộ
2.3. Tính chất và chức năng, nhiệm vụ của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước
vùng Tây Nam Bộ
Chương 3: THỰC TRẠNG HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC
VÙNG TÂY NAM BỘ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
3.1. Thực trạng Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng Tây Nam Bộ
3.2. Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
3.3. Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT
HUY VAI TRÒ TÍCH CỰC CỦA HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU
NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ
4.1. Dự báo các xu hướng tác động đến Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng
Tây Nam Bộ
4.2. Một số quan điểm
4.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò tích cực của Hội Đoàn
kết sư sãi yêu nước vùng Tây Nam Bộ
4.4. Kiến nghị
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Trang
1
9
9
13
15
20
25
27
27
43
55
63
63
85
98
101
101
115
126
139
149
151
152
162
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTSPG
: Ban Trị sự Phật giáo
GHPGVN
: Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Hội ĐKSSYN
: Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước
HĐND
: Hội đồng nhân dân
MTDTGP
: Mặt trận Dân tộc Giải phóng
MTDTGPMNVN
: Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam
PGNTK
: Phật giáo Nam tông Khmer
PGNT
: Phật giáo Nam tông
UBĐKCG
: Ủy ban Đoàn kết Công giáo
UBND
: Ủy ban nhân dân
UBMTTQVN
: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
UBTWMTTQVN
: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Số lượng Tăng sĩ từ 1975 đến 6/1998
67
Bảng 3.2: Kết quả khảo sát tiêu chí trong cộng đồng người Khmer
92
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tin theo tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận Nhân dân và có ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Năm 1963, cùng với phong trào cách mạng của Nhân dân miền Nam,
phong trào yêu nước của Tăng, Ni, Phật tử đã bùng nổ thành phong trào Phật
giáo rộng lớn ở miền Nam - Việt Nam. Chính quyền Sài Gòn tiến hành đàn áp
phong trào Phật giáo, càn quét, bắt giam Tăng, Ni và Phật tử yêu nước; đồng
thời, cho lập nên Giáo hội Phật giáo Khemaranikay và Giáo hội Phật giáo
Theravada nhằm thực hiện ý đồ chính trị; lừa mị quần chúng, khống chế
Tăng, Ni, Phật tử nói chung, Tăng sĩ và Phật tử Khmer ở miền Nam nói riêng.
Trước tình hình diễn biến phức tạp, Khu ủy Tây Nam Bộ chủ trương
thành lập “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước” trong cộng đồng người Khmer
vùng Tây Nam Bộ nhằm tập hợp, đoàn kết, vận động các Tăng sĩ và Phật tử
Khmer ủng hộ, tham gia đấu tranh chống lại chính quyền tay sai, phản động ở
miền Nam. Năm 1964, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước (ĐKSSYN) khu Tây Nam
Bộ chính thức được thành lập và hoạt động với tư cách là tổ chức thành viên của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN). Tiếp
theo đó, các tổ chức Hội ĐKSSYN cấp tỉnh và cấp huyện lần lượt được hình
thành và hoạt động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn, giúp đỡ trực tiếp của Ban
Khmer vận cùng cấp.
Giai đoạn 1964 -1975, Hội ĐKSSYN đã tập hợp, đoàn kết được các vị
Tăng sĩ và Phật tử Khmer tích cực tham gia các phong trào kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Sự ra đời của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ được xem là
một tất yếu của lịch sử, phản ánh sự khát vọng độc lập, thống nhất đất nước
của các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer ở Nam Bộ. Tính chất hoạt động của Hội
ĐKSSYN trong giai đoạn này vừa là tổ chức chính trị, vừa là tổ chức xã hội
của giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer. Hội ĐKSSYN hoạt động như một tổ chức
đoàn thể chính trị - xã hội; nội dung và phương thức hoạt động chủ yếu là
2
tuyên truyền, vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia, ủng hộ phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Sau giải phóng, Ban Chấp hành Trung đảng Lao động Việt Nam tiến hành
Hội nghị lần thứ XXVI bàn về “nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới”; ngày 29/9/1975, Hội nghị thống nhất ban hành Nghị quyết số 247NQ/TW; quyết định: “Giải thể Trung ương Cục miền Nam, giải thể các Khu ủy
ở cả hai miền…”; theo đó, Khu ủy Tây Nam Bộ cùng với các tổ chức trực thuộc
kết thúc nhiệm vụ lịch sử và chấm dứt hoạt động. Tuy nhiên, do sự tồn tại
khách quan, Hội ĐKSSYN tại một số địa phương vẫn tiếp tục phát huy truyền
thống yêu nước, tập hợp Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia khắc phục hậu
quả chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt là việc duy trì hoạt
động của Phật giáo Nam tông Khmer (PGNTK) trong những năm đầu khi đất
nước mới giải phóng.
Năm 1981, thể theo nguyện vọng của đa số các vị chức sắc, Tăng, Ni và
Phật tử cả nước, Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam đã tổ chức Đại
hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ nhất, thành lập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam (GHPGVN); theo đó, mặc dù Hội ĐKSSYN khu Tây Nam Bộ đã
chấm dứt hoạt động nhưng do một số địa phương vẫn còn duy trì tổ chức này
nên đã đại diện cho PGNTK vùng Tây Nam Bộ tham gia thống nhất việc thành
lập và tự nguyện hoạt động trong ngôi nhà chung của GHPGVN.
Từ năm 1989, sau khi đã ổn định tình hình và tư tưởng đối với một bộ
phận Tăng sĩ và Phật tử Khmer qua một số vụ việc liên quan đến tình hình
an ninh chính trị trong vùng đồng bào Khmer và vùng biên giới Tây Nam
sau những năm mới giải phóng, thống nhất đất nước; đồng thời, nhận thức
được vị trí, vai trò của Tăng sĩ Khmer nói chung; Hội ĐKSSYN nói riêng
qua quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Ngày 18/4/1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) ban hành Chỉ thị
số 68-CT/TW về công tác ở vùng đồng bào Khơ-me, trong đó đề ra chủ
trương: “lập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước hoặc các hình thức tổ chức
3
thích hợp để động viên và phát huy truyền thống yêu nước của sư sãi góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [13, tr.04]. .
Thực hiện chủ trương của Ban Bí thư; đến nay, có 8/13 tỉnh, thành phố
vùng Tây Nam Bộ có chùa PGNTK đã củng cố, kiện toàn Hội ĐKSSYN
nhằm động viên và phát huy truyền thống yêu nước của Tăng sĩ và Phật tử
Khmer góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong hoạt động
tôn giáo, hầu hết các vị lãnh đạo Hội ĐKSSYN đều giữ các vị trí lãnh đạo
quan trọng trong hệ thống tổ chức của GHPGVN. Do vậy, mối quan hệ phối
hợp giữa Ban Trị sự Phật giáo (BTSPG) và Hội ĐKSSYN ở các địa phương
diễn ra khá thuận lợi.
Tuy nhiên, sau năm 1975, Đảng đã có chủ trương chấm dứt hoạt động
Khu ủy Tây Nam Bộ và các tổ chức trực thuộc; trong đó, có tổ chức Hội
ĐKSSYN nhưng: “Tại sao Hội ĐKSSYN tại một số địa phương vẫn duy trì
hoạt động”? “Vì sao Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đề ra chủ
trương lập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước”? Hiện nay, có một số ý kiến cho
rằng: “Sự tồn tại của Hội ĐKSSYN có cần thiết không”? “Nếu tồn tại thì phải
như thế nào” ? “Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với Hội ĐKSSYN ra
sao”? “Cần những giải pháp gì để Hội ĐKSSYN tiếp tục phát huy vai trò tích
cực của mình” ?...
Bên cạnh đó, do chưa có sự hướng dẫn thống nhất chung về Điều lệ và
Quy chế hoạt động nên cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của Hội ĐKSSYN ở
mỗi địa phương đều có sự khác nhau nhất định; trong đó, có sự chồng chéo
lấn sân lẫn nhau trong hoạt động giữa BTSPG và Hội ĐKSSYN cùng cấp.
Vấn đề này, một mặt làm giảm sút vai trò của BTSPG gây ra những mâu thuận
trong nội bộ Phật giáo; mặt khác cũng đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý
Nhà nước về tôn giáo. Hoặc là, trong khi có các địa phương chưa lập Hội
ĐKSSYN như: An Giang và các tỉnh, thành phố miền Đông Nam Bộ có
PGNTK thì lại có ý kiến cho rằng cần thành lập hệ thống Hội ĐKSSYN trên cấp
tỉnh để có sự chỉ đạo thống nhất hoạt động cho các cấp hội.
4
Do vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về “Hội Đoàn kết Sư sãi
yêu nước vùng Tây Nam Bộ” nhằm thống nhất nhận thức và quan điểm, qua
đó, có những giải pháp sát hợp để tiếp tục phát huy vai trò tích cực của loại
hình tổ chức “vừa có yếu tố dân tộc, vừa có yếu tố tôn giáo” trong đời sống
xã hội vùng Tây Nam Bộ là rất cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn theo chủ
trương xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm nâng cao chết lượng,
hiệu quả công tác dân tộc, tôn giáo và công tác đối với tổ chức hội - hội quần
chúng trong tình hình hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích quá trình hình thành và phát triển; tính chất và thực
trạng hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ. Luận án đề xuất các
quan điểm, đưa ra một giải pháp; đồng thời kiến nghị nhằm phát huy vai trò
tích cực của Hội ĐKSSYN trong đời sống xã hội vùng Tây Nam Bộ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, Luận án thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận, phương pháp và lý thuyết nghiên cứu
để vận dụng phân tích, luận giải, đánh giá vai trò của Hội ĐKSSYN vùng Tây
Nam Bộ.
Hai là, nghiên cứu sự hình thành và phát triển; tính chất, chức năng và
nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ trong quá trình lịch sử.
Ba là, nghiên cứu thực trạng hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây
Nam Bộ và những vấn đề đặt ra hiện nay.
Bốn là, đưa ra các quan điểm, đề xuất những giải pháp cơ bản và kiến nghị
nhằm phát huy vai trò tích cực của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
5
Đối tượng nghiên cứu của luận án: Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng
Tây Nam Bộ
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: các tỉnh/thành phố vùng Tây Nam Bộ có Hội Đoàn kết Sư
sãi yêu nước (cụ thể là: Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Cà Mau, Kiên Giang và Hậu Giang).
- Thời gian: Từ năm 1991 đến năm 2019 (từ khi có Chỉ thị số 68-CT/TW,
ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng - khóa VI)
4. Cơ sở lý luận, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước Việt Nam về công tác dân tộc, tôn giáo; về công tác
đối với các tổ chức hội - hội quần chúng. Luận án xác định đại đoàn kết toàn
dân tộc là chiến lược được thực hiện nhất quán trong các giai đoạn cách mạng
Việt Nam trên cơ sở kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc,
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả
các giai cấp, tầng lớp, lực lượng, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các cá nhân
yêu nước , người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả những người đã lầm đường, lạc
lối nhưng biết hối cải trở về với Nhân dân. Đặc biệt là tư tưởng đoàn kết lương giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần hoàn thành thắng lợi sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc. Ngoài ra, luận án
có kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng của các tác giả trong một số
công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
4.2. Cách tiếp cận
- Tiếp cận tôn giáo học: Nhìn nhận tôn giáo là hiện tượng xã hội, có tác
động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội và hiện nay, tôn giáo ngày càng
can thiệp sâu hơn vào đời sống chính trị với nhiều hình thức khác nhau.Mặt
6
khác, vấn đề tôn giáo - dân tộc luôn gắn liền và là một trong những nhân tố
tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định. Vì thế, không một quốc gia nào không đặt
ra vấn đề phải nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo, công tác dân tộc; do vậy,
khi nghiên cứu tôn giáo, ngoài phương pháp của bản thân ngành tôn giáo học
thì phải kết hợp nhiều phương pháp của một số ngành khoa học khác; trong
đó, có ngành dân tộc học.
- Tiếp cận hệ thống: Cách tiếp cận này giúp tìm hiểu hệ thống nội tại của
Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ cùng các chức năng tôn giáo và chức năng
xã hội của nó. Giúp nhìn nhận Hội ĐKSSYN như một hệ thống động, giao
thoa, tác động qua lại với các hệ thống khác, như: hệ thống chính trị, hệ thống
giáo hội, hệ thống tổ chức xã hội...
- Tiếp cận chính trị học: Nhìn nhận tôn giáo nói chung, PGNTK, Hội
ĐKSSYN nói riêng và Nhà nước có quan hệ rất gắn bó trong quá trình lịch sử
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tôn giáo cũng là những hình thái ý thức được lựa
chọn để xây dựng mô hình nhà nước sao cho phù hợp với sự phát triển của quốc
gia - dân tộc; phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội hiện đại.
- Tiếp cận lịch sử: Nhìn nhận Hội ĐKSSYN như một hiện tượng lịch sử,
có quá trình ra đời, quá trình vận động, biến đổi, tác động; có vai trò đối với
cộng đồng người Khmer, đối với xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
- Tiếp cận dân tộc học: Giúp nhìn nhận Hội ĐKSSYN trong mối quan hệ
tộc người Khmer - Nam bộ.
- Tiếp cận vùng: Tiếp cận vùng sẽ giúp nhìn nhận Hội ĐKSSYN gắn với
đặc trưng vùng địa lý với những đặc trưng về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội, văn hóa và tộc người ở vùng Tây Nam Bộ. Qua đó, nhận thức khách quan
về sự tồn tại của Hội ĐKSSYN trong đời sống xã hội ở vùng Tây Nam Bộ.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm phân tích mối quan hệ giữa đổi mới đường
lối chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo; mối quan hệ giữa đời sống tôn
7
giáo và chính sách tôn giáo; mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo hội qua công
tác tôn giáo; mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Luận án sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu gồm: Phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch
sử, thống kê, so sánh, SWOT, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, dự báo,
phương pháp chuyên gia, tọa đàm khoa học.
Trong đó, phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử được sử
dụng để nghiên cứu các tài liệu thứ cấp về lịch sử và thực trạng của Hội
ĐKSSYN. Phương pháp tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, SWOT, điều
tra xã hội học được sử dụng để nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và hoạt động của
Hội ĐKSSYN; so sánh tương quan giữa các Hội ĐKSSYN của các địa
phương. Phương pháp dự báo được sử dụng nhằm dự báo các xu hướng tác
động đến sự tồn tại và phát triển của Hội ĐKSSYN trong thời gian tới.
Phương pháp chuyên gia, tọa đàm khoa học được sử dụng kết hợp với các
phương pháp khác nhằm nghiên cứu các phương diện khác nhau của sự tồn tại
và phát triển của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ, cũng như quan điểm, giải
pháp phát huy vai trò tích cực của tổ chức này trong công đồng người Khmer.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án khái quát được quá trình hình thành , đánh giá khách quan thực
trạng và dự báo các xu hướng có tác động đến Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam
Bộ. Qua đó, đưa ra các quan điểm, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát
huy vai trò tích cực của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ. Điểm mới của luận
án là những luận cứ khoa học, những chứng cứ thực tiễn đang đặt ra hiện nay
ở vùng Tây Nam Bộ cho thấy sự tồn tại của tổ chức “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu
nước” là cần thiết.
Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của
Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ trong quá trình lịch sử xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; đóng góp quan trọng trong việc thực hiện chủ trương về xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa,
8
ổn định chính trị, đảm bảo an ninh trật tự vùng Tây Nam Bộ - nơi có đông
đồng bào dân tộc Khmer theo PGNTK sinh sống.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lý luận
Luận án chỉ ra cơ sở lý luận và thực tiễn từ khi có chủ trương thành lập giải thể - (tồn tại khách quan) - củng cố, kiện toàn Hội ĐKSSYN vùng Tây
Nam Bộ; luận giải được tính chất hoạt động và dự báo các xu hướng tác động
đến Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ, góp phần bổ sung vào nhận thức về vị
trí, vai trò của tổ chức này trong quá trình lịch sử.
6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đóng góp quan trọng trong việc thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh trật tự ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đồng bào tôn giáo nói
chung; vùng Tây Nam Bộ - nơi có đông đồng bào Khmer theo PGNTK sinh
sống nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời cam đoan, mục lục, các chữ viết tắt, phần mở đầu, kết luận,
phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo; luận án được kết cấu gồm 04 chương,
15 tiết.
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. NHÓM CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN DÂN TỘC,
TÔN GIÁO VÙNG TÂY NAM BỘ
Đối với công trình nghiên cứu có liên quan đến dân tộc, tôn giáo vùng
Tây Nam Bộ; nghiên cứu sinh tham khảm: Sách Tôn giáo - Tín ngưỡng của
các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long [20]. Công trình dày 488 trang, gồm
7 chương; các tác giả đã trình bày được bức tranh tổng thể, với những nét cơ bản
về các tộc người ở đồng bằng sông Cửu Long; cũng như về tôn giáo, tín ngưỡng
của từng tộc người cụ thể. Trong chương II và III, các tác giả đề cập các vấn đề
liên quan đến người Khmer ở Nam Bộ. Đây là tài liệu góp phần rất lớn cho các
nhà quản lý nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo vùng Tây Nam Bộ; hiểu hơn
về đồng bào dân tộc, hiểu hơn về các tôn giáo tránh xảy ra các xung đột sắc tộc
và xung đột tôn giáo như một số nước trong khu vực Đông Nam Á.
Sách Miền Nam giữ vững thành đồng [38]; công trình dày 422 trang, tác
giả Trần Văn Giàu đề cập đến sự ra đời của Liên minh các lực lượng dân tộc,
dân chủ và hòa bình Việt Nam; một tổ chức xã hội yêu nước có sự tham gia
đầy đủ của các thành phần xã hội, trong đó có tín đồ tôn giáo. Hoạt động của
tổ chức này luôn sát cánh với MTDTGPMNVN, đấu tranh chống Mỹ cứu
nước với mục đích rất rõ ràng. Kết quả hoạt động được Thông tấn xã Giải
phóng (03/05/1968) đánh giá rất cao; bên cạnh đó, Tạp chí Học tập (05/1968)
xem sự ra đời của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình là
một biểu hiện của sự thức tỉnh của tinh thần dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
có nhận xét: “Việc thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa
bình là một thắng lợi to lớn của chính sách đại đoàn kết toàn dân chống Mỹ
cứu nước” [38, tr.189].
Sách Cao Triều Phát - Nghĩa khí Nam Bộ [45]. Công trình dày 245
trang, tác giả Phan Văn Hoàng giành 11 trang (136 -147) để khái quát các
10
hoạt động của tổ chức yêu nước trong đạo Cao Đài qua hai thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gồm: Cao Đài Cứu Quốc, Cao Đài
Liên Giao I và Cao Đài Liên Giao II. Trong Hội nghị quyết định thành lập
một tổ chức để lãnh đạo chức sắc và tín đồ đạo Cao Đài các hệ phái góp phần
vào công cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, cụ
Cao Triều Phát phát biểu: “Các Phật tử đã có Hội Phật giáo cứu quốc, các giáo
dân đã có Hội Công giáo kháng chiến. Người Cao Đài chúng ta phải thành lập
Hội Cao Đài cứu quốc, vì hiện nay cứu quốc là hành đạo, hành đạo là cứu
quốc” [45, tr.140]. Sau khi thành lập và chỉ trong một gian ngắn hoạt động, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã có lời khen: “Mười hai phái Cao Đài do cụ Cao Triều Phát
lãnh đạo luôn luôn cùng đồng bào toàn quốc hăng hái kháng chiến, Tổ quốc và
Chính phủ sẽ nhớ công những người con trung thành” [45, tr.143].
Bên cạnh đó, trong đạo Cao Đài còn có tổ chức được thành lập từ năm
1991; qua bài viết Ban Qui ước các phái Cao Đài thành phố Cần Thơ - Một hình
thức phát huy truyền thống yêu nước của đồng bào đạo Cao Đài trong thời kỳ
đổi mới [108]. Tác giả Nguyễn Thị Ánh Ngà đã khái quát được quá trình hình
thành và phát triển; đồng thời, đánh giá kết quả hoạt động của Ban Qui ước các
phái Cao Đài thành phố Cần Thơ góp phần rất lớn trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; các công trình này giúp nghiên cứu sinh nhìn nhận sự tồn tại
của các tổ chức xã hội có yếu tố tôn giáo là khách quan và có tính lịch sử.
Bài viết Đặc điểm của phong trào yêu nước phi vô sản ở Nam kỳ đầu thế
kỷ XX và vị trí của nó trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam
[18], tác giả Võ Văn Sen và Trần Nam Tiến đã phân tích các sự kiện liên quan
đến phong trào chống Pháp của các Hội kín ở Nam kỳ và đưa ra nhận định:
Về mặt tư tưởng, phong trào Hội kín Nam kỳ thể hiện rõ tư tưởng yêu nước
qua khẩu hiệu “Phản Pháp phục Nam” và lời thề một lòng cứu nước, cứu dân
của những người gia nhập hội. Yêu nước là tư tưởng chủ đạo, nó quy định
mục đích và đối tượng đấu tranh của Hội kín. Tuy nhiên, ngoài tư tưởng yêu
nước thì tư tưởng phong kiến cũng rất đậm nét và mang đậm tư tưởng tôn
11
giáo pha lẫn ma thuật với các lễ nghi thần bí, bùa chú được sử dụng phổ biến.
Pháp thuật và bùa chú đóng vai trò như một thứ “vũ khí tinh thần”; đối với
những người lãnh đạo phong trào thì tư tưởng tôn giáo, ma thuật được dùng
như một phương tiện để họ thực hiện mục đích cứu nước.
Riêng đối với các công trình liên quan đến dân tộc Khmer: Trước năm
1975, vấn đề dân tộc Khmer ở Nam bộ - Việt Nam được nhiều nhà nghiên
cứu người Pháp như: Barrault, Francois Martine, Louis Malleret, S. Bernard
Thierry…đặc biệt quan tâm nhưng họ chủ yếu nghiên cứu và đề cấp đến từng
khía cạnh riêng biệt về lịch sử, mỹ thuật, kiến trúc chùa, nghi lễ tôn giáo, sinh
hoạt dân gian, thơ ca dân gian. Ngoài ra, còn có các công trình“Người Việt
gốc Miên” (1969) của Lê Hương và bản ghi chép “Chân lạp phong thổ ký”
của Châu Đạt Quan do Lê Hương dịch (1973) đã giới thiệu cơ bản về nguồn
gốc, dân số, sinh hoạt, xã hội, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của
người Khmer Nam bộ - Việt Nam.
Từ năm 1975 đến năm 1986, việc nghiên cứu liên quan đến người
Khmer ở Nam bộ liên tục được chú trọng và đạt nhiều kết quả đáng quan tâm;
trong đó phải kế đến tác giả Phan An, một trong những nhà nghiên cứu hàng
đầu về cộng đồng người Khmer ở Nam bộ như: “Vài khía cạnh dân tộc học về
người Khmer ở Việt Nam và Camphuchia” (1980); “Một số vấn đề kinh tế xã hội của vùng nông thôn Khmer Đồng bằng sông Cửu Long - Vấn đề dân
tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long” (1984); “Dân tộc Khmer trong các dân tộc
ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)”(1984); “Nghiên cứu người Khmer
ở đồng bằng sông Cửu Long”(1985) …Qua các công trình nghiên cứu, tác giả
đã chỉ rõ các mối quan hệ, những tương đồng và dị biệt giữa người Khmer ở
Việt Nam và người Khmer ở Campuchia; đồng thời, chú trọng nghiên cứu về
vấn đề dân tộc và tôn giáo của người Khmer ở Nam bộ trong quá trình cộng
cư với các dân tộc người khác trong khu vực.
Trong giai đoạn này, tác giả Nguyễn Khắc Cảnh cũng có công trình
nghiên cứu về Loại hình công xã của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu
12
Long [25]; tác giả giới thiệu các loại hình công xã của người Khmer dưới
nhiều góc độ khác nhau và xem đó là một đơn vị cư trú truyền thống của
người Khmer, qua đó nghiên cứu về cấu trúc và chức năng, về những biến
động trong lịch sử... Theo đó, phum là một tập hợp người Khmer dựa trên mối
quan hệ huyết thống là chính, còn sóc là một tập hợp người dựa trên cùng cư
trú trên một địa vực nhất định. Sóc truyền thống của người Khmer ở Nam Bộ
mang tính cộng đồng của một công xã nông thôn của cư dân canh tác lúa
nước ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Việc nghiên cứu loại hình công xã của
người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long cho thấy rõ hơn những đặc điểm
về tổ chức xã hội truyền thống của người Khmer.
Sau năm 1986, những công trình nghiên cứu của người nước ngoài về
dân tộc Khmer ở Nam bộ rất hạn chế nhưng công trình của các tác giả ở trong
nước thì đa dạng và phong phú; trong đó, phải kể đến sách Quá trình phát
triển dân cư và dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long từ Thế kỷ thứ XV đến thế
kỷ thứ XIX; sau đó là Vấn đề dân cư và dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long
(Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long) [32]. Tác giả Mạc Đường đã
khái quát quá trình hình thành các tộc người Việt, Khmer, Hoa và Chăm;
đồng thời, làm rõ đặc điểm các cộng đồng tộc người này ở đồng bằng sông
Cửu Long nhằm làm cơ sở nghiên cứu những đặc trưng riêng của từng tộc
người, của các cộng đồng dân cư trong vùng sinh thái nhân văn cụ thể. Ngoài
ra, còn có nhiều công trình của các tác giả: Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp,
Đinh Văn Liên, Phan Thị Yến Tuyết, Lâm Văn Tòng, Nguyễn Xuân Nghĩa,
Đỗ Khắc Tùng, Thạch Voi, Huỳnh Ngọc Trảng, Sorya, Văn Công Chí, Văn
Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo…
Đặc biệt, trong thời gian gần đây, tác giả Nguyễn Thuận Quý có công
trình nghiên cứu về Quan hệ tộc người của người Khmer ở hai bên biên giới
Việt Nam - Campuchia (khu vực Tây Nam Bộ) [87], công trình dày 145 trang
đã phân tích sâu mối quan hệ tộc người của người Khmer khu vực biên giới
Tây Nam Bộ được biểu hiện trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa thông
13
qua những trục quan hệ: Với Quốc gia - Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; với các tộc
người cận cư (tộc người đa số và các tộc người thiểu số khác); với người đồng
tộc (nội tộc và xuyên biên giới). Đồng thời, tác giả phân tích ý thức và hành
động của người Khmer đối với quốc gia - Tổ quốc Việt Nam như: Việc chấp
hành tốt chính sách, chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước; có ý thức
là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện nghĩa vụ
của công dân…Việc phân tích các mối quan hệ dân tộc và tộc người khu vực
biên giới Tây Nam Bộ; tác giả nhận định có xu hướng cố kết, đoàn kết sâu sắc
nhưng mối quan hệ này ít nhiều còn chịu ảnh hưởng từ quốc gia láng giềng và
một số nước lớn chi phối. Quá trình cộng cư của các tộc người ở khu vực biên
giới Tây Nam Bộ đã giúp các tộc người có sự giao thoa văn hóa vật chất và
tinh thần, là sợi dây liên kết giúp các tộc người xích lại gần nhau, siết chặt
tình đoàn kết giữa các tộc người cùng cư trú ở vùng biên cương. Tuy nhiên,
với đặc trưng đa tộc người, đa tôn giáo thì vùng Tây Nam Bộ vẫn còn nhiều
nguy cơ mất ổn định do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Tác giả
cũng đã đưa ra một số kiến nghị đề xuất góp phần cho việc quản lý nhà nước
về công tác dân tộc được hiểu quả hơn.
Qua các công trình như đã nêu trên, có thể thất rõ tình hình kinh tế, văn
hóa - xã hội, an ninh, trật tự an toàn xã hội ở vùng Tây Nam Bộ, nhất là
những vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo.
1.2. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU MANG TÍNH CHUYÊN SÂU
VỀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER
Nhóm công trình này, nghiên cứu sinh tham khảo: Sách Phật giáo
Khmer Nam bộ (Những vấn đề nhìn lại) [26]. Đây là công trình mang tính
chuyên đề nghiên cứu sâu về PGNTK ở Nam Bộ, tác giả Nguyễn Mạnh
Cường khái quát được lịch sử hình thành và phát triển vùng đồng bằng sông
Cửu Long, quá trình hình thành tộc người Khmer ở khu vực Đông Nam Á,
người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mối quan hệ giữa người
Môn với người Khmer; đề cập đến quá trình du nhập và phát triển của Phật
14
giáo trong vùng đồng bào Khmer ở Nam bộ; những triết lý Phật giáo và kinh
kệ mà người Khmer đã thực hành trong hành đạo; đề cập đến vai trò của
trường chùa đối với đời sống giáo dục, văn hóa Khmer, vai trò của Tăng sĩ
Khmer đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của người Khmer, vai trò
của Phật giáo trong quản lý cộng đồng phum sóc, vai trò của chùa trong đời
sống người Khmer và một số nghi thức tụng niệm kinh kệ trong PGNTK... Qua
đó, tác giả cũng đưa ra những định hướng và những đề xuất các chủ trương,
chính sách phù hợp với tâm tư, nguyện vọng với đồng bào Khmer.
Luận văn Biến đổi trong đời sống văn hóa của tu sĩ Phật giáo Nam tông
Khmer tỉnh Kiên Giang (từ sau năm 1986 đến nay)[102]. Tác giả Danh Út đã
trình bày đời sống văn hóa của Tăng sĩ Khmer ở Kiên Giang trước năm 1986
trên các lĩnh vực về văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức và văn hóa ứng xử.
Đặc biệt, trong văn hóa tổ chức, tác giả đã trình bày và mô tả được các loại
hình tổ chức truyền thống trong PGNTK gồm: Wên (một tổ chức trong Phật
tử), Ban Quản trị chùa, Hội Mêkon, Hội ĐKSSYN. Đặc biệt, công trình đã
trình bày được các hoạt động của Tăng sĩ Khmer trong các mối quan hệ xã
hội giúp nghiên cứu sinh có cở sở đánh giá các hoạt động tôn giáo trong đời
sống xã hội.
Luận văn Công tác vận động sư sãi Phật giáo Nam tông Khmer trên địa
bàn tỉnh Trà Vinh hiện nay [68]. Tác giả Kiên Ngọc Khánh trình bày được
đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán, tín ngưỡng; truyền thống đoàn kết yêu
nước của các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer; tình hình PGNTK và thực trạng
công tác vận động quần chúng trong giới Tăng sĩ Khmer hiện nay. Kết quả
nghiên cứu góp phần vào việc tổng kết thực tiễn và đề xuất một số giải pháp,
nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động, tranh thủ các vị Tăng sĩ Khmer
trong việc tuyên truyền, vận động đồng bào Khmer thực hiện chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong thời gian tới.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình, bài viết đăng tải trên các tạp chí như:
Bài viết: “Phật giáo tiểu thừa Khmer ở vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu
15
Long: chức năng xã hội truyền thống và động thái xã hội” của tác giả Nguyễn
Xuân Nghĩa in trong Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5 (2003). Tác giả luận
giải về thời gian du nhập Phật giáo Nam tông vào vùng đồng bằng sông Cửu
Long; trình bày những nghi thức thờ cúng cũng như những sinh hoạt tinh thần
của cộng đồng người Khmer; bên cạnh đó, tác giả thống kê được số Tăng sĩ
Khmer từ năm 1974 đến năm 1984. Bài viết “Phật giáo trong đời sống của
người Khmer Nam Bộ” của Phan An in trong Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 5 (2003). Tác giả nghiên cứu sâu về chức năng, vai trò của chùa và các
Tăng sĩ Khmer trong đời sống của cộng đồng người Khmer...
1.3. NHÓM CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN TỔ CHỨC PHẬT GIÁO VÀ
HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC
Riêng đối với nhóm công trình này, nghiên cứu sinh tham khảo một số
công trình và các tài liệu như sau: Sách Phật giáo sử [112]. Công trình dày
464 trang có đề cập đến 02 tổ chức xã hội có yếu tố tôn giáo gồm: “Hội
Chúng cư sĩ” và“Hội Phật giáo Đại Bồ Đề”. Hội Chúng cư sĩ là tổ chức có
nhiều cư sĩ được xem là những vị pháp tu sĩ lỗi lạc biết đem tài sản, của cải ra
cứu tế; Hội Phật giáo Đại Bồ Đề là tổ chức do ông Sri D. M. Dhammapala
thành lập nhằm khởi động phong trào phục hưng văn hóa dân tộc và Phật
giáo. Tuy tác giả không đề cập đến cơ chế hoạt động nhưng đây là tổ chức có
yếu tố tôn giáo được hình thành từ rất sớm ở quốc gia có Phật giáo Nam tông.
Sách Về sự ra đời của các tổ chức Phật giáo ở miền Nam Việt Nam, giai
đoạn 1951-1954 [76]; tác giả Dương Thanh Mừng phân tích và trình bày khác
rõ về sự ra đời, cơ cấu tổ chức và một số kết quả hoạt động của Hội Phật học
Nam Việt và Hội Tăng già Nam Việt. Tuy đây là tổ chức đoàn thể tôn giáo
nhưng hai tổ chức này đã luôn giữ vai trò nòng cốt trong các hoạt động chấn
hưng, cũng như trong cuộc đấu tranh để giữ vững sự vẹn toàn của Đạo pháp
trước Pháp nạn năm 1963 tại miền Nam - Việt Nam.
Sách Maha Sơn Thông - cách mạng là sự nghiệp cả cuộc đời [11]. Công
trình dày 88 trang, tập trung giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng
16
của Maha Sơn Thông. Ông đã sớm giác ngộ cách mạng khi bản thân còn
khoác trên mình chiếc áo “càsa” (xuất gia từ năm 13 tuổi). Ông chính là người
đề xuất việc thành lập Hội ĐKSSYN với Khu ủy Tây Nam Bộ và được Ban
Thường vụ Khu ủy Tay Nam Bộ nhất trí tán thành. Năm 1994, Hội ĐKSSYN
khu Tây Nam Bộ được thành lập; cố Hòa thượng Thạch Som ở chùa Ô Mịch
được suy cử làm Hội trưởng. Việc thành lập Hội ĐKSSYN chứng minh thêm
rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã khơi dậy trong
mọi tầng lớp Nhân dân tinh thần yêu nước mãnh liệt. Mặc dù, công trình chưa
miêu tả một cách chi tiết quá trình hình thành và kết quả hoạt động nhưng
cũng giúp nghiên cứu sinh biết được ai là người khởi xướng hình thành Hội
ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ nhằm tập hợp, đoàn kết Tăng sĩ và Phật tử
Khmer tham gia phong trào giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Sách Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ Việt Nam, từ thế
kỷ XVII đến 1975 [72]. Công trình dày 125 trang gồm 03 phần. Tác giả Trần
Hồng Liên giành riêng phần 03 để viết về PGNT của người Khmer ở Nam
Bộ; trong đó, có đề cập đến kết quả hoạt động của Hội ĐKSSYN qua trích
dẫn bài tham luận của Hòa thượng Dương Nhơn in trong Kỷ yếu Hội nghị Đại
biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam (ngày 4-7/11/1981); với nội dung: Trong
phong trào đấu tranh chống Mỹ cứu nước của các vị sư sãi càng lên cao, đến
mùa Thu năm 1964, Hội Sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ đã ra đời, do Đại
đức Thạch Som làm Hội trưởng, là một tổ chức đoàn kết rộng rãi với các tôn
giáo, dân tộc anh em, đấu tranh vì lợi ích của tổ quốc và Nhân dân... Có thể
nói Hội Sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ là sản phẩm trong sự nghiệp đấu
tranh chống Mỹ cứu nước của đồng bào Khmer và sư sãi nói chung.
Đề tài khoa học cấp bộ Vai trò của chùa Khmer đối với đời sống văn hóa
của đồng bào Khmer Nam Bộ [104]. Công trình tuy dày chỉ 64 nhưng nhóm
tác giả đã trình bày khái quát đặc điểm và phân tích khá sâu về vai trò của
PGNTK; trong đó có vai trò của Hội ĐKSSYN đối với cộng đồng người
Khmer ở Nam Bộ; nhóm tác giả có đề ra một số kiến nghị đối với Hội
17
ĐKSSYN nhằm tiếp tục phát huy vai trò tích cực trong đời sống xã hội vùng
Tây Nam Bộ.
Đề tài khoa học cấp bộ: Truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng
bào Khmer Nam bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (19391975) [103]. Công trình dày 112 trang, có đề cập đến việc thành lập các tổ
chức mang tính xã hội trong cộng đồng người Khmer dưới sự lãnh đạo của
Đảng như: Hội Cao Miên tự do, Hội Isarắk hoặc Hội Ủng hộ Isarăk, Ban
Khmer vận, Mặt trận Sư sãi yêu nước, đội võ trang tuyên truyền liên quân
Miên - Việt... nhằm tập hợp Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia, ủng hộ
phong trào cách mạng tại các địa phương. Công trình trình bày khá đầy đủ và
chi tiết các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, bất công có sự tham gia của Hội
ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ nhằm bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 20/5/2013, Ban Dân vận Trung ương ban hành Kế hoạch số 26KH/BDVTW về việc khảo thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội Đoàn kết
Sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer; với tư cách là cán bộ của
Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, nghiên cứu sinh cũng có điều kiện trực tiếp khảo
sát và tiếp cận được các báo cáo chuyên đề về thực trạng tổ chức và hoạt động
của Hội ĐKSSYN tại 08 địa phương có PGNTK vùng Tây Nam Bộ. Cụ thể,
nghiên cứu sinh trực tiếp khảo sát và tham khảo các báo cáo chuyên đề của
các Ban Dân vận Tỉnh ủy/Thành ủy: (1) Cần Thơ (số 134, ngày 4/7/ 2013), (2)
An Giang, (số 131, ngày 20/6/2013), (3) Bạc Liêu (số 133, ngày 01/7/2013), (4)
Hậu Giang (số 228, ngày 26/06/2013), (5) Kiên Giang (số 145, ngày 20/6/2013),
(6) Sóc Trăng (số 186, ngày 27/06/2013), (7) Trà Vinh (số 23, ngày 11
/7/2013), (8) Vĩnh Long (số 35, ngày 28/06/2013), (9) Cà Mau (ngày 20
/5/2014) về thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội ĐKSSYN trong PGNTK.
Qua đó, giúp nghiên cứu sinh tham khảo được lịch sử hình thành và phát triển;
thực trạng hoạt động của Hội ĐKSSYN và một số đề xuất quan điểm, giải pháp
nhằm tiếp tục phát huy vai trò tích cực của Hội ĐKSSYN của từng địa phương.
18
Mặc dù, đây là công trình và kết quả nghiên cứu mang tính rời rạc nhưng đã giúp
nghiên cứu sinh có sự hình dung nội dung tổng thể cần đạt được trong luận án.
Một năm sau đó, Ban Dân vận Trung ương phối hợp với Ban Chỉ đạo
Tây Nam Bộ tổ chức buổi tọa đàm: Tổ chức và hoạt động của Hội Đoàn kết
sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer - Thực trạng và giải pháp
vào ngày 20/5/2014 tại Cần Thơ. Trong tài liệu tọa đàm có các tham luận của
Ban Dân vận Trung ương, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Ban Dân vận và các cơ
quan quản lý Nhà nước về dân tộc, tôn giáo của 09 tỉnh, thành có đông người
Khmer vùng Tây Nam Bộ có đề cập trực tiếp đến vị trí, vai trò của Hội
ĐKSSYN; đồng thời, đề xuất ý kiến nhằm kiện toàn và phát huy vai trò của
Hội ĐKSSYN trong tình hình hiện nay là cần thiết. Qua buổi tọa đàm, nghiên
cứu sinh có dịp nghe nhiều ý kiến phát biểu của các đại biểu làm công tác
quản lý nhà nước, các đại biểu trong cấp ủy am hiểu về vấn đề Hội ĐKSSYN
vùng Tây Nam Bộ.
Song song đó, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh triển khai thực
hiện Đề án Tổng thể về chính sách đối với Phật giáo Nam tông Khmer và
đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Nghiên cứu sinh đã có dịp tham khảo Kỷ yếu hội thảo khoa học với đề tài
nhánh: “Chính sách đối với tổ chức, hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở
thờ tự của Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ” do PGS.TS Hoàng
Minh Đô (chủ nhiệm) [52]. Kỷ yếu đề tài dày 389 trang, tập hợp được 17 bài
viết của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý về công tác dân tộc, tôn giáo đầu
ngành. Đây là tài liệu có các bải viết nghiên cứu sâu về vùng đất, cư dân, về
các thể chế chính trị trong lịch sử; về tình hình tôn giáo trong cộng đồng
người Khmer. Ngoài ra, các tác giả cũng đặt ra những vấn đề cấp bách cần
giải quyết và đưa ra những giải pháp góp phần để bổ sung, hoàn thiện các
chính sách đối với tổ chức, hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của
PGNTK và đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ.
19
Bên cạnh đó, đối với các công trình nghiên cứu về Hội ĐKSSYN;
nghiên cứu sinh cũng có bài viết: Phát huy vai trò của Hội Đoàn kết sư sãi
yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ trên con đường
hội nhập và phát triển hiện nay [109]. Qua đó, nghiên cứu sinh cũng đã khái
quát được lịch sử hình thành và phát triển; thực trạng về cơ cấu tổ chức và
hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ. Đồng thời, có đưa ra một số
giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò tích cực của Hội ĐKSSYN đối với
cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ trong thời gian tới.
Tác giả Nguyễn Hồng Dương có 02 bài viết: Thực trạng tình hình và
thực hiện chính sách đối với Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước [52] và Hội Đoàn
kết Sư sãi yêu nước một tổ chức gắn đạo với đời của Phật giáo Nam tông Khmer
Việt Nam [107]. Qua hai bài viết, tác giả đề cập khá chi tiết về mô hình tổ chức
và có những đánh giá kết quả hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ;
qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của Hội ĐKSSYN
trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Luận văn Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước trong đời sống văn hóa của
người Khmer tỉnh Sóc Trăng [97]. Công trình được kết cấu gồm 03 chương,
10 tiết. Tác giả Thạch Thanh Tùng tập trung tìm hiểu vai trò của Hội
ĐKSSYN trong đời sống văn hóa cộng đồng người Khmer ở tỉnh Sóc Trăng;
đồng thời, khẳng định vai trò của Hội ĐKSSYN trong việc kêu gọi, dẫn dắt
Phật tử Khmer đề cao cảnh giác với âm mưu chia rẽ tình đoàn kết các dân tộc,
đồng lòng đồng sức xây dựng cuộc sống hạnh phúc, ấm no và thật sự là trung
tâm đoàn kết trong giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer nói riêng; tín đồ các tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói chung.
Tóm lại, dưới những góc nhìn khác nhau, các tác giả đã khái quát được
bức tranh khá toàn diện về các tổ chức Phật giáo nói chung, Hội ĐKSSYN
vùng Tây Nam Bộ nói riêng. Tuy nhiên, qua các công trình của các tác giả
chưa đi sâu nghiên cứu mang tính chuyên sâu đối với Hội ĐKSSYN - tổ chức
đặc thù của giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer vùng Tây Nam Bộ. Do vậy, còn