Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

SKKN xây dựng và sử dụng bài giảng e learning vào dạy học tiết 20 bài 14 phong trào cách mạng 1930 – 1935 theo mô hình lớp học đảo ngược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 44 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT BÌNH XUYÊN
-----o0o-----

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến:
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG BÀI GIẢNG ELEANING VÀO DẠY HỌC
TIẾT 20 - BÀI 14: “PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 – 1935” (TIẾT 1 LỊCH SỬ LỚP 12 CƠ BẢN)
THEO MÔ HÌNH LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC.

Tác giả sáng kiến: Phan Thị Hoài
Số điện thoại: 0395.728.270
Email:
Mã sáng kiến:

31.57.03

Bình Xuyên, tháng 01 năm 2019


1. Lời giới thiệu
Trong nền giáo dục truyền thống từ xa xưa đến nay, chúng ta đã khá quen thuộc
với hình ảnh những ông đồ mặc áo dài the gõ đầu trẻ; rồi đến hình ảnh người thầy
đứng trên bục giảng say sưa giảng bài, người học ngồi dưới cắm cúi, hý hoáy chép
từng từ từng chữ. Kết quả sau đó chắc ai trong chúng ta cũng đã nắm được, người
học như những cỗ máy kiến thức khô khan, không biết thực hành hay ứng dụng
vào thực tiễn. Đó chính là hệ quả của một nền giáo dục truyền thống với việc lạm
dụng quá nhiều kiến thức lý thuyết mà không có sự chú trọng tới vận dụng, thực
hành. Với cách dạy học như vậy, nền giáo dục không thể đạt được mục tiêu giáo
dục của thời đại mới là nhằm đào tạo một con người toàn diện, một công dân toàn


cầu với những kỹ năng tự học suốt đời, tư duy phê phán, kỹ năng làm việc trong
môi trường hợp tác… Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi, và phải có một cuộc cải
cách giáo dục, đổi mới phương pháp giảng dạy: Thay vì phải ép người học phải
ngồi hàng tiếng đồng hồ nghe những bài giảng đã quá quen thuộc và thiếu sự hấp
dẫn, tại sao chúng ta không tận dụng quãng thời gian đó dành cho các hoạt động
tương tác trên lớp? Bởi lẽ những hoạt động đó mang lại nhiều giá trị, nhiều lợi ích
cho người học hơn trong yêu cầu của xã hội hiện nay.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển
như vũ bão. Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) thâm nhập và chi phối hầu
hết các lĩnh vực trong đó có giáo dục. Nhờ sự hỗ trợ của ICT mà giáo dục đã có thể
thực hiện được các tiêu chí mới: học mọi nơi (any where), học mọi lúc (any time),
học suốt đời (life long), dạy cho mọi người (any one) ở mọi trình độ tiếp thu khác
nhau. Năng lực tự học trở thành năng lực cốt lõi cần phải hình thành cho người học
ngay từ bậc học phổ thông, đặc biệt là đối với học sinh trung học phổ thông
(THPT). Vấn đề đặt ra là làm thế nào để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh
THPT trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay? Những năm gần đây, chắc hẳn
những người quan tâm đến giáo dục đã không còn xa lạ với thuật ngữ E-learning –
học trực tuyến, một hình thức tự học hiện đại dựa trên nền tảng ứng dụng Công
nghệ thông tin và truyền thông. E-learning mang lại sự thay đổi lớn lao trong việc
tiếp cận các nguồn tài nguyên giáo dục cùng với hàng loạt các ưu điểm khác nhau
như thoải mái, linh hoạt, cá nhân hóa người học,... mở ra nhiều cơ hội, điều kiện
học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của mỗi người, góp phần bồi dưỡng năng
lực tự học cho học sinh (HS). Tuy nhiên, E-learning cũng bộc lộ nhiều nhược điểm


như đòi hỏi học sinh phải có tính tự chủ lớn, có động lực học tập cao. Thông qua
E-learning, HS chủ yếu học được kiến thức hơn là học được cách vận dụng kiến
thức và không có nhiều điều kiện để học và rèn luyện các năng lực cần thiết như
năng lực giao tiếp, năng lực làm việc theo nhóm và năng lực tự học như ở các lớp
học chính khóa. Như vậy có thể thấy rằng không thể thay thế, phủ nhận vai trò của

lớp học chính khóa đối với việc rèn luyện năng lực tự học cho học sinh. Thời gian
trên lớp dùng để triển khai kênh giao tiếp trực tiếp giữa GV với HS và giữa HS với
nhau, giúp khuyến khích, nâng cao động lực học tập, góp phần bồi dưỡng cho HS
năng lực tự học. Trên lớp, HS không chỉ được học kiến thức mà còn được học nhân
cách, phương pháp truyền đạt kiến thức, cách thức làm việc, học tập, nghiên cứu
của thầy, trao đổi, học hỏi với các bạn,… là những nhược điểm mà E-learning chưa
giải quyết được. Mặt khác, trong điều kiện giáo dục Việt Nam, lớp học chính khóa
ở bậc THPT còn gặp nhiều khó khăn như bị giới hạn thời gian của tiết học, phụ
thuộc nhiều vào kiến thức nền tảng và khả năng học tập của mỗi HS.
Với những khó khăn trên, tôi mạnh dạn đề xuất tới phương pháp dạy học theo
mô hình lớp học đảo ngược (FL) – một mô hình có thể hạn chế tối thiểu những
nhược điểm nội tại của cả E-learning và lớp học chính khóa. Lớp học đảo ngược sẽ
điền khuyết những vấn đề còn thiếu sót của E-learning và ngược lại. Trong lớp học
đảo ngược, E-learning được sử dụng như một phương tiện hiện đại, giúp phân phối
các tài nguyên học tập, các bài giảng video, câu hỏi đóng kiểm tra mức độ tiếp thu
giúp cá nhân hóa việc học, để HS tự học ở nhà,... Giờ học ở lớp sẽ được GV tận
dụng tối đa tổ chức cho HS vận dụng, thực hành kiến thức, thảo luận nhóm hoặc
triển khai các dự án, giải quyết các vấn đề mở, giúp HS hiểu sâu hơn đồng thời bồi
dưỡng cho học sinh các năng lực tự học.
Môn Lịch sử với phương pháp dạy học truyền thống nhiều năm trước đã không
còn gây được hứng thú, chú ý và sự yêu thích của nhiều thế hệ học sinh. Bởi đặc
thù kiến thức khiến nhiều học sinh cảm thấy khô khan, khó nhớ, khó thuộc,…, lại
thêm phương pháp giáo dục truyền thụ một chiều, thiếu sự linh động và hấp dẫn đã
khiến cho nhiều học sinh cảm thấy chán nản và xa rời dần bộ môn này. Những năm
gần đây, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và quyết tâm đổi mới căn bản
toàn diện của Bộ giáo dục, đặc biệt là đổi mới về phương pháp dạy học, nhiều giáo
viên đã cố gắng tìm tòi, thử nghiệm nhiều phương pháp dạy học tiên tiến có sự ứng
dụng khá hiệu quả của các phương tiện công nghệ thông tin. Tuy nhiên, thực tế cho



thấy, nhiều giáo viên vẫn chưa ứng dụng tốt công nghệ thông tin, khiến bài giảng
trở thành một bài thuyết trình với những slide trình chiếu đơn thuần, hoặc vì áp
dụng quá nhiều phương pháp và hoạt động vào tiết học, dẫn đến hiện tượng “cháy
giáo án” hoặc làm cho học sinh cảm thấy ngạt thở, rối rắm, không tập trung được
vào kiến thức cơ bản. Mô hình “Lớp học đảo ngược” – Flipped Classroom sẽ là
một giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử. Đây là
mô hình dạy học dựa trên bài giảng điện tử Elearning kết hợp hài hòa giữa học trực
tuyến và học chính khóa được nhiều giảng viên tại các trường học ở Mỹ, Autralia
và nhiều nước trên thế giới nghiên cứu và áp dụng; những năm gần đây đã bắt đầu
xuất hiện ở Việt Nam. Hy vọng với phương pháp dạy học mới này sẽ phần nào giải
quyết được những khó khăn của giáo dục nói chung, của việc dạy và học môn Lịch
sử nói riêng, góp phần làm cho chất lượng giáo dục được nâng cao.
2. Tên sáng kiến: “Xây dựng và sử dụng bài giảng E-learning vào dạy học Tiết
20 - Bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 – 1935” (T1 - Lịch sử lớp 12 cơ bản)
theo mô hình lớp học đảo ngược.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Phan Thị Hoài.
- Địa chỉ: Trường THPT Bình Xuyên – Huyện Bình Xuyên - Tỉnh Vĩnh Phúc.
- SĐT: 0395.728.270.
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Họ và tên: Phan Thị Hoài
- Địa chỉ: Trường THPT Bình Xuyên – Huyện Bình Xuyên - Tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Học sinh lớp 12 trường THPT Bình Xuyên (Năm học 2018 – 2019).


6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đâu: 10/11/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến: (Nội dung sáng kiến)
7.1. Những vấn đề chung.

7.1.1. Một vài nét chung về bài giảng điện tử E-learning:

 Khái quát chung:
Trong những năm qua, với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông
tin và truyền thông, việc dạy - học với sự hỗ trợ của máy tính và mạng internet đã
và đang trở nên quen thuộc, đặc biệt là thuật ngữ E-Learning đã ngày càng phổ
biến. Thuật ngữ E-Learning được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ sáng kiến này, người viết đề cập đến bài giảng E-learning
theo tài liệu tập huấn bài giảng điện tử E-learning của Cục công nghệ thông tin –
Bộ giáo dục và Đào tạo như sau: E-learning (Còn gọi là Đào tạo điện tử, Giáo dục
điện tử) là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ
thông tin và truyền thông. Bài giảng E-learning là sản phẩm được tạo ra từ các
công cụ tạo bài giảng, có khả năng tích hợp đa phương tiện gồm: phim, hình ảnh,
đồ họa, hoạt hình, âm thanh,… và tuân thủ một trong các chuẩn như HTML,
SCROM.
Như vậy, qua cách tiếp cận trên cho thấy bài giảng E-learning khác hoàn toàn
với các khái niệm như giáo án điện tử, bài trình chiếu hoặc bài giảng điện tử
(power point) thường thấy. Những bài giảng điện tử thông thường không có khả
năng tương tác với người học, và chỉ được sử dụng làm công cụ hỗ trợ cho giáo
viên trong các giờ học chính khóa. Còn bài giảng E-learning có thể dùng cho học
ngoại tuyến (offline) hay trực tuyến (online) và có khả năng tương tác với người
học, giúp người học có thể tự học mà không cần đến thầy dạy, không cần đến
trường lớp, không bị gò bó bởi thời gian. Để soạn được bài giảng điện tử Elearning có thể dùng rất nhiều phần mềm soạn thảo. Nhưng trong khuôn khổ sáng
kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ xin đề cập tới cách soạn thảo bài giảng E-learning
dựa trên phần mềm M-Powerpoint kết hợp với phần mềm Ispring 8.7 cùng một số
phần mềm hỗ trợ như Camtasia,…


 Đặc điểm của E-learning
Trên cơ sở các nghiên cứu thực tiễn, các nhà nghiên cứu giáo dục đã khẳng định

hiệu quả của việc ứng dụng E-Learning trong hoạt động dạy và học, bồi dưỡng cho
HS những năng lực cần thiết. Từ các kết quả nghiên cứu có thể rút ra những đặc
điểm của E-learning như sau:
- Tính linh hoạt: Với mỗi bài học E-learning có thể tùy biến theo nhu cầu và
hoàn cảnh của học viên. Người học tự do lựa chọn bài học, chương trình học theo ý
thích, phù hợp với trình độ, tốc độ tiếp thu của bản thân, mở ra nhiều cơ hội học
tập cho mọi người.
- Sự thoải mái: Với bài giảng E-learning, người học không bị giới hạn bởi
không gian và thời gian. Người học có thể học tập mọi nơi, mọi lúc theo nhu cầu
của mình chỉ cần có máy tính, Tablet, smartphone được kết nối mạng. Tất cả các
bài giảng và tài liệu cần thiết được cung cấp qua các nền tảng trực tuyến, dễ dàng
để truy cập. Khi học với E-learning, người học không phải mất thời gian, chi phí đi
lại đến lớp, không cần tuân thủ theo thời gian biểu cứng nhắc (phải dậy sớm, mặc
quần theo quy định khi đến lớp...).
- Khả năng tự học - tự định hướng: Người học tự xác định lịch trình học tập
theo nhu cầu cá nhân của mình; có thể hoàn thành các mục tiêu bất cứ lúc nào. Với
ưu điểm này, E- learning cho phép họ tiến bộ với nhịp điệu riêng, phù hợp với họ.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, khóa học E-learning có thể yêu cầu thời hạn
hoàn thành. Ví dụ, HS phải hoàn thành khóa học trước khi khóa học kết thúc theo
lịch quy định của nhà trường.
- Có khả năng tiêu chuẩn - tái hiện: Các khóa học E-learning được thiết kế
theo một quy trình chuẩn hóa và nhất quán trong việc phân phối nội dung. Nội
dung học tập đa phương tiện, phong phú, lôi cuốn. Người học dễ dàng xem lại, kéo
nhanh hoặc lưu lại lâu hơn ở các đơn vị kiến thức mà cá nhân quan tâm, cần hiểu
rõ hơn. Tài liệu học, các bài kiểm tra đã làm có thể được lưu trữ lại và người học
có thể tham khảo lại khi cần.
- Tương tác chia sẻ: Người học có thể tương tác với nhau hoặc với GV, phản
hồi và chia sẻ những điều đã biết, qua đó tiếp nhận và hoàn thiện kiến thức, kĩ năng



của bản thân. Khi cần hỗ trợ hoặc thắc mắc, người học chỉ cần truy cập bảng hỗ trợ
để gửi câu hỏi đến GV.
- Phản hồi tức thì: Thông thường cuối mỗi môđun, người học được làm kiểm
tra để đánh mức độ tiếp nhận kiến thức vừa học. E-learning hỗ trợ phản hồi kết quả
ngay lập tức, qua đó người học sẽ biết được mức độ tiếp thu của mình, kiến thức
nào cần nghiên cứu lại hoặc gửi thông báo chúc mừng họ đã hoàn thành môđun
học đó.
- Tự do thể hiện: Trong quá trình học tập, đôi lúc người học có thể mắc các sai
sót. E-learning cho phép người học không phải xấu hổ khi bị sai sót. Điều này
khuyến khích việc khám phá và thử nghiệm các ý tưởng. Nếu làm sai, người học
hoàn toàn có thể bắt đầu lại mà không gặp trở ngại gì.
- Nâng cao kĩ năng sử dụng máy tính và Internet: Học tập với E-learning giúp
người học rèn luyện và nâng cao kĩ năng sử dụng máy tính một cách dễ dàng. Bằng
cách sử dụng máy tính mỗi khi học, họ sẽ dần dần trở nên giỏi hơn trong việc truy
cập Internet và máy tính.
Trên cơ sở những đặc điểm của E-learning, chúng ta có thể thấy đây là phương
pháp dạy học mới, có ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, tăng cường khả năng
tự học của Học sinh và sẽ trở thành môi trường học tập trong xã hội tương lai. Tuy
nhiên, trong thời điểm hiện tại khi kho bài giảng E-learning chưa thực sự được
chuẩn hóa, cũng như người học với khả năng tự học bằng giáo trình E-learning
chưa cao thì việc có sự hướng dẫn của giáo viên trên lớp để tiếp cận dần với bài
giảng E-learning là vẫn rất cần thiết. Nhất là bài giảng E-learning đôi khi chưa thể
chuyển tải hoàn toàn đầy đủ các kiến thức quan trọng hoặc đi vào chiều sâu của
kiến thức, khả năng vận dụng kiến thức… Lúc này, vai trò của thầy cô giáo trên
lớp học cũng còn khá quan trọng trong việc giúp học sinh tiếp cận dần với bài
giảng E-learning cũng như giúp các em làm sáng tỏ những vấn đề mà chưa tự mình
tìm ra được, nâng cao khả năng tìm tòi sáng tạo và vận dụng kiến thức vào thực tế
cuộc sống.
7.1.2. Một vài nét về mô hình lớp học đảo ngược
* Khái quát chung:



Lớp học đảo ngược (FL - Flipped Classroom) là mô hình giáo dục tiên tiến
được ứng dụng dựa trên sự phát triển của công nghệ E-learning và phương pháp
đào tạo hiện đại. Mô hình này (FL) được hiểu một cách đơn giản nhất là “đảo
ngược/đảo trình lớp học là chuyển đổi những hoạt động trong lớp ra ngoài lớp và
ngược lại”. Hoạt động này có thể tóm tắt dưới dạng bảng sau:
Bảng 1. Hoạt động chuyển đổi giữa lớp học đảo ngược và lớp học truyền thống.
Loại hình
Lớp học truyền thống
Lớp học đảo ngược

Trong lớp học
Bài học/Bài giảng
Bài tập và luyện tập

Ngoài lớp học
Bài tập và luyện tập
Bài giảng E-learning
(Video bài giảng)

Đặc điểm lớn nhất của mô hình lớp học đảo ngược đó chính là dạng thức học tập
kết hợp (E-learning) giữa học tập trực tuyến và học tập giáp mặt và có sự đảo
ngược tiến trình học tập của người học. Theo phương pháp dạy học truyền thống
thì học sinh tới trường, lắng nghe thầy cô giảng bài rồi trở về nhà làm bài tập…
Nhưng với mô hình lớp học đảo ngược thì học sinh xem các bài giảng ở nhà
qua mạng. Giờ học ở lớp sẽ dành cho các hoạt động hợp tác giúp củng cố thêm
các khái niệm đã tìm hiểu như giải đáp các thắc mắc của học sinh, làm bài tập
khó hay thảo luận sâu hơn về kiến thức...
* Ưu điểm

Việc tìm hiểu kiến thức được định hướng bởi người thầy (thông qua những giáo
trình E-Learning đã được giáo viên chuẩn bị trước cùng thông tin do học sinh tự
tìm kiếm), nhiệm vụ của học sinh là tự học kiến thức mới này và làm bài tập mức
thấp ở nhà. Sau đó vào lớp các em được giáo viên tổ chức các hoạt động để tương
tác và chia sẻ lẫn nhau. Các bài tập mức độ cao cũng được thực hiện tại lớp dưới
sự hỗ trợ của giáo viên và các bạn cùng nhóm.
Cách học này đòi hỏi học sinh phải dùng nhiều đến hoạt động trí não nên được
gọi là “High thinking". Như vậy những nhiệm vụ mức độ cao trong thang tư duy
được thực hiện bởi cả thầy và trò.
Phương pháp này không cho phép học sinh ngồi nghe thụ động nên giảm được
sự nhàm chán. Mặc dù vậy, muốn quá trình đảo ngược thành công thì những giáo
trình E-Learning phải rất bài bản và hấp dẫn để lôi cuốn được học sinh không xao
lãng mà tập trung vào việc học. Vì lý do đó, phương pháp này phải gắn chặt với


phương pháp E-Learning. Giáo viên phải quản lý và đánh giá được việc tiếp thu
kiến thức thông qua các bài tập nhỏ đi kèm với bài giảng E-learning.
Một ưu điểm khác là học sinh có thể học mọi lúc, mọi nơi và với mọi thiết bị chỉ
cần thiết bị đó có thể online được như smartphone, máy tính bảng, Ipad, tivi hoặc
máy tính bàn có kết nối Internet...
Phân biệt rõ thời gian trên lớp chỉ luyện tập và ôn tập, hỏi đáp kiến thức, không
bị lẫn với thời gian nghe giảng như phương pháp truyền thống. Giảm được thời
gian dành cho những khái niệm mà học sinh dễ dàng nắm bắt để tập trung vào các
vấn đề khó hơn, đào sâu hơn. Lý do này xuất phát từ việc đôi khi giáo viên khó xác
định chính xác khái niệm nào học sinh dễ nắm bắt và khái niệm nào thì khó khăn.
Đôi khi, giảng kĩ một khái niệm cho nhóm học sinh này sẽ lấy đi thời gian của các
nhóm học sinh đã hiểu còn lại. Cách giải quyết là học sinh chỉ cần tua video xem
lại đoạn chưa hiểu.
Như vậy, lớp học đảo ngược sẽ giúp:
 Hướng vào dạy học cá thể. Giáo viên có nhiều thời gian trên lớp hơn để tiếp

cận các học sinh yếu kém.
• Học sinh có thể thu lại hoặc xem đi xem lại đoạn video bài giảng chưa hiểu.
• Học sinh vắng mặt sẽ không bỏ lỡ bài giảng.
• Có được nhiều thời gian hơn cho các hoạt động học trên lớp.
• Phụ huynh có thể phối hợp cùng giáo viên trong việc hướng dẫn học tập của
học sinh.
Nhược điểm
Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những nhược điểm khi vận dụng vào quá
trình dạy học ở phổ thông do đặc thù của giáo dục mỗi nước cũng như tính cách và
kỹ năng của học sinh.
Trước hết nó làm mất nhiều thời gian và công sức cho việc soạn giảng của giáo
viên. Với khối lượng kiến thức khổng lồ và số môn học trong một năm quá nhiều
thì việc học tập theo phương pháp này là khó khả thi. Cộng với việc kiểm tra đánh
giá vẫn chưa rõ ràng theo tiêu chí đánh giá toàn diện chứ không chỉ chú trọng đánh
giá về mặt nội dung thì giáo viên vẫn còn vất vả chạy theo kiểu “thi gì dạy nấy".
Ngoài ra, muốn thực hiện các bài giảng E-Learning và sử dụng các công cụ khác
để tổ chức hoạt động học tập trong lớp thì đòi hỏi giáo viên phải giỏi về công nghệ
và vững về phương pháp. Mặc dù vậy, không phải học sinh nào cũng hứng thú hợp


tác hoặc do đường truyền Internet kém sẽ gây gián đoạn việc học tập ở nhà. Cuối
cùng giáo viên, tổ bộ môn phải có một kế hoạch đồng bộ và xuyên suốt năm học vì
không phải bài học nào cũng phù hợp với phương pháp này.
Nếu khắc phục được những nhược điểm trên thì phương pháp lớp học đảo ngược
- Flipped classroom - sẽ là rất tuyệt vời cho việc rèn kỹ năng trong thế kỷ 21.
7.1.3. Tiện ích Google Classroom – nơi quản lý bài học trực tuyến hiệu quả.
Giới thiệu chung về tiện ích Google Lớp học.
Tiện ích Lớp học trên Google (Google Classroom) là một công cụ mới trong
công cụ Google hỗ trợ giáo dục (Google Apps for Education) giúp giáo viên tạo và
sắp xếp bài học, bài tập một cách nhanh chóng, cung cấp phản hồi một cách hiệu

quả và giao tiếp với các lớp học của họ một cách dễ dàng. Lớp học này còn giúp
học sinh sắp xếp bài tập của mình trong Google Drive, hoàn thành và nộp bài tập
cũng như trực tiếp giao tiếp với giáo viên và bạn cùng lớp của họ bằng hình thức
trực tuyến. Bên cạnh đó, nó còn có chức năng tạo và thu bài tập, chấm điểm: Lớp
học kết hợp với Google Tài liệu, Drive và Gmail giúp giáo viên tạo và thu bài tập
không cần giấy. Họ có thể nhanh chóng xem những ai đã hoặc chưa hoàn thành bài
tập và cung cấp phản hồi trực tiếp, theo thời gian thực đến từng học sinh. Thêm
vào đó, nó còn có vai trò nâng cao hiệu quả giao tiếp trong lớp: Giáo viên có thể
thông báo, đặt câu hỏi và nhận xét về học sinh theo thời gian thực—nâng cao hiệu
quả giao tiếp trong và ngoài lớp học.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu này, tôi chỉ sử dụng tiện ích Google
Classroom nhằm tạo ra một kho kiến thức theo từng bài học để học sinh và giáo
viên có thể dễ dàng thuận tiện trao đổi với nhau, lưu giữ thông tin… trong thời
gian ngoài giờ trên lớp.
7.1.4. Sự kết hợp hoàn hảo giữa mô hình lớp học đảo ngược với bài giảng Elearning bằng tiện ích Google Classroom.
Trên cơ sở hiểu những nét cơ bản nhất về bài giảng E-learning, mô hình –
phương pháp lớp học đảo ngược, và tiện ích Google Classroom, tôi nhận thấy hoàn
toàn có thể sử dụng phương pháp dạy học đảo ngược thông qua các bài giảng Elearning và đăng tải, quản lý nó bằng tiện ích Lớp học của Google. Đây là Tiện ích
đơn giản mà học sinh và giáo viên dễ dàng có thể thực hiện các thao tác để điều


hành lớp học trực tuyến. Lớp học đảo ngược là sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa việc
học trực tuyến và học chính khóa trên lớp, nó phát huy được những ưu điểm và hạn
chế được các khuyết điểm của hai hình thức này, nhằm mục tiêu cuối cùng là giúp
tăng cường khả năng tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức của học sinh.
7.2. Các giải pháp thực hiện – Quy trình thực hiện:
7.2.1. Giáo viên lập kế hoạch dạy học:
 Lựa chọn bài học:
Giáo viên lựa chọn bài dạy là Tiết 20 bài 14: (Lịch sử lớp 12 Ban cơ bản):
Phong trào cách mạng 1930 – 1935(tiết 1).

 Xác định mục tiêu bài học:
 Về kiến thức: Sau khi học xong bài học, học sinh nắm được:


Tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khủng hoảng

kinh tế trong những năm 1929-1933.


Những cuộc đấu tranh tiêu biểu trong phong trào cách mạng 1930-1931.



Sự ra đời và hoạt động của chính quyền Xô Viết Nghệ - Tĩnh.

 Về tư tưởng: Bồi dưỡng cho học sinh niềm tự hào dân tộc về sự nghiệp đấu
tranh của Đảng, niềm tin về sức sống mãnh liệt, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
đưa sự nhiệp cách mạng dân tộc đi lên.
 Về kĩ năng: Xác định kiến thức cơ bản của bài “Xô Viết Nghệ – Tĩnh”; Kĩ
năng phân tích, đánh giá sự kiện lịch sử.
 Về định hướng năng lực hình thành:
Năng lực quan trọng nhất là năng lực tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu kiến thức
mới, làm việc độc lập; năng lực ứng dụng CNTT, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng
lực hợp tác,…
 Xác định phương pháp: Sử dụng phương pháp Lớp học đảo ngược.
 Phương tiện: Máy tính, hoặc điện thoại thông minh có nối mạng.
 Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
 Chuẩn bị của giáo viên: Bài giảng E-learning về Phong trào cách mạng 1930
– 1931, phiếu học tập (bản cứng hoặc bản mềm). Máy tính, máy chiếu (trên lớp).



 Chuẩn bị của học sinh: Máy tính hoặc điện thoại thông minh có nối mạng, tự
học bài Elearning và làm phiếu học tập ở nhà…
7.2.2. Soạn bài giảng E-learning:
Cách sử dụng các phần mềm như M- powerpoint, Camtasia, Ispring,… được
viết khá cẩn thận thành các tài liệu tập huấn cơ bản cho giáo viên. Trong phạm vi
bài viết của mình, tôi không đi sâu vào từng bước hay cách thức cụ thể để xây
dựng bài giảng E-learning mà chỉ có đôi điều lưu ý trong từng bước thực hiện cũng
như cách thức sử dụng các phần mềm mà trong thực tế quá trình làm tôi rút ra.

 Bước 1: Soạn bài giảng powerpoint
Bài giảng Powerpoint dùng để thiết kế Elearing có đôi chút khác biệt so với
bài giảng powerpoint dạng thô mà giáo viên dùng để giảng dạy hay thuyết trình
trên lớp. Nó cần đảm bảo tính đồng nhất, khoa học, rõ ràng, mạch lạc,…
 Bước 2: Ghi âm, ghi hình (Có sử dụng phần mềm Camtasia tạo, cắt ghép
video lời giảng cho phù hợp).
- Trước khi thực hiện ghi âm, ghi hình, cần viết lời dẫn như một kịch bản sẵn có
để ghi âm và ghi hình.
- Ghi âm: Nên ghi âm bằng điện thoại cho tiếng trong, rõ ràng. Tuy nhiên file
ghi âm bằng điện thoại có đuôi m4a, không tương thích với phần mềm soạn bài Elearning, bởi vậy cần chuyển đổi đuôi sang mp3 (dùng phần mềm hay có thể
chuyển đổi trực tuyến) để chèn vào bài giảng.
- Ghi hình: Trong quá trình thực hiện, tôi thấy ấn tượng nhất là các video mà có
hình giáo viên đứng giảng trên nền là 1 video hoặc 1 hình ảnh liên quan đến nội
dung bài học. Thực tế, làm được điều đó, đầu tiên, tôi quay video đứng giảng bài,
trên phông nền là màu xanh lá. Sau đó sử dụng phần mềm Camtasia để lồng hai
video vào với nhau, sẽ ra được một video khá thú vị, hấp dẫn.


(Hình 1). Video giáo viên giới thiệu bài học ghép trên nền video về cuộc khủng
hoảng kinh tế 1929 – 1933.


 Bước 3: Sử dụng phần mềm Ispring suit 8.7 để đồng bộ âm thanh, hình ảnh
và xây dựng các câu hỏi tương tác.
Một vài lưu ý:
- Nên sử dụng phần mềm Ispring bản 8. vì nó ổn định và dễ làm hơn. Hơn nữa,
có thể đầu tư mua bản Việt hóa để giáo viên tự làm thuận tiện, biết các chức năng
của từng mục mà không mất công phải dịch hay ghi nhớ nội dung nào.
- Trong quá trình đồng bộ âm thanh phải làm sao cho khớp các slide với từng
hiệu ứng và có thể cho thêm nhạc nền âm lượng nhỏ làm mềm bài giảng hơn, đồng
thời có thể che được những tiếng ồn nhỏ do trong quá trình ghi âm bị xen lẫn tạp
âm. (Nên dùng nhạc không lời kích thích tư duy cho học sinh). Bên cạnh đó, trong
quá trình đồng bộ cũng cần chỉnh sửa âm thanh cho đều nhau tránh chỗ tiếng quá
to, chỗ tiếng nhỏ, hay bị hụt hơi…
- Xây dựng các câu hỏi tương tác: Thông thường, nhiều giáo viên thường xây
dựng các câu hỏi ở đầu bài và cuối bài học nhằm kiểm tra bài cũ và ôn tập lại kiến


thức vừa học. Tuy nhiên, quan điểm của tôi là cần kiểm tra mức độ nhận thức của
học sinh cả trong qua trình lĩnh hội kiến thức mới (ở dạng nhận biết và thông hiểu).
Nên trong bài học tôi có xây dựng 5 câu hỏi với 3 hình thức trắc nghiệm: Lựa chọn
phương án đúng nhất, Đúng/Sai và Điền khuyết ngay chính trong phần tìm hiểu
kiến thức mới. Như vậy bài giảng E-learning có tính tương tác cao hơn, yêu cầu
học sinh phải tập trung vào bài học và giáo viên có thể kiểm tra được từng học sinh
qua quá trình trả lời. Bởi vì sau mỗi câu hỏi sẽ có phần gửi kết quả phản hồi về
email cho giáo viên.

 Bước 4: Xuất bản bài giảng E-learning:
Cần xuất bản bài giảng Elearning theo chuẩn HTML hay SCROM để dễ dàng
tương thích với giao diện của các loại máy tính, điện thoại nối mạng. Trong bài làm
của mình tôi đã xuất bản theo chuẩn HTML, bài giảng được xem thông qua file

index.html hoặc flash.html.
7.2.3. Sử dụng tiện ích của Google Lớp học để đăng tải và quản lý bài học.
 Bước 1: Trước hết phải yêu cầu học sinh cả lớp cung cấp danh sách học sinh
và địa chỉ gmail. Để thuận tiện, cũng có thể giáo viên tạo gmail đồng bộ cho học
sinh trong lớp theo số thứ tự.
 Bước 2: Tiếp theo, giáo viên Đăng nhập vào Gmail và click chuột vào mục
ứng dụng. Sau đó, Click vào biểu tượng Lớp học để tạo lớp học mới. (Trong bảng
này, đặt Tên Lớp học (bắt buộc) (Tôi đặt tên là lớp 12A7), nếu bạn giảng dạy
nhiều học phần có thể mô tả thêm trong mục Phần, bạn có thể tạo chủ đề cho lớp
học bằng cách điền vào dòng Chủ đề).


Click vào đây để
vào tiện ích Google
Classroom

Hình 2. Đăng kí tạo lớp học mới trên Tiện ích Google Classroom.
 Bước 3: Thêm học sinh vào lớp học (Dựa trên danh sách gmail theo thứ tự
đã được chuẩn bị sẵn).
 Bước 4: Tạo chủ đề bài học và tải phần bài E-learning lên Google
Classroom.
7.2.4. Phát phiếu học tập và hướng dẫn HS tự học ở nhà.
Giáo viên có thể phát phiếu học tập bằng giấy và yêu cầu các em vào gmail
trong Google Classroom để học bài mới qua bài giảng E-learning.
Thực tế, tôi đã soạn phiếu học tập, in ra và phát cho học sinh. Phiếu học tập bao
gồm các bước cơ bản: hướng dẫn học sinh vào google classroom để lấy bài giảng
Elearning, các bước thực hiện và các nhiệm vụ cần làm ở nhà.
(Mẫu phiếu học tập tôi phát cho học sinh ở phần phụ lục số 2 trang 28)
7.2.5. Dạy học trên lớp.
Tất cả các công đoạn từ số 1 đến số 4 đều là sự chuẩn bị ở nhà của cả giáo viên và

học sinh. Giờ học thực tế thường có cấu trúc như sau:
- Kiểm tra đánh giá kết quả tự học ở nhà của học sinh (10 phút)
- Giải đáp các thắc mắc và hợp thức hóa, hệ thống hóa kiến thức mới (10 phút)
- Để củng cố thêm kiến thức cho học sinh, tôi cũng dùng một số trò chơi vận
động theo từng nhóm để học sinh có sự tương tác, phát huy năng lực hợp tác và để


khắc sâu kiến thức (20 phút).
- Cuối giờ học, tôi lại tiếp tục đưa ra tình huống mang tính vấn đề và yêu cầu HS
về nhà thực hiện nghiên cứu tiếp bài giảng E-learning Tiết 21 Bài 14 Phong trào
cách mạng 1930 - 1935 (Tiết 2) đã được đăng tải trên Google Classroom của lớp
học và phát phiếu hướng dẫn tự học cho bài học mới (5 phút).
Nội dung của phần dạy trên lớp được thể hiện rất rõ trong phụ lục số 1 về giáo
án trên lớp, trang 26


8. Những thông tin cần bảo mật (Không có).
9. Điều kiện để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
 Điều kiện:
 Điều kiện về con người: HS lớp 12 Trường THPT Bình Xuyên – Huyện
Bình Xuyên- tỉnh Vĩnh Phúc.
Giáo viên: có năng lực ứng dụng CNTT, biết soạn bài giảng E-learning, biết sử
dụng thông thạo Gmail, có vốn tiếng Anh nhất định, có tư duy đổi mới và yêu
nghề, tâm huyết với nghề.
Học sinh: Có phương tiện là máy tính hoặc điện thoại thông minh có nối mạng.
Biết sử dụng máy tính, điện thoại thông minh, dùng thành thạo gmail, có sự nhiệt
tình, ham học hỏi…

 Điều kiện về cơ sở vật chất: Phòng lớp học, đồ dùng, máy tính, máy chiếu,
các thiết bị dạy và học nói chung, tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình, các tài

liệu chuyên môn và tài liệu đổi mới phương pháp giáo dục,… Các phần mềm như
M-Powerpoint, Camtasia, Ispring suit, … Máy tính hoặc điện thoại thông minh có
kết nối mạng,…
 Thời gian: trong năm học
 Sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo, các đồng
nghiệp đặc biệt là sự quan tâm, tạo điều kiện về thời gian, phương tiện học tập cho
con em mình của các bậc phụ huynh.
 Kiến nghị: Để sáng kiến có thể áp dụng vào thực tiễn, tôi xin có một số kiến
nghị sau:
 Đối với các cấp quản lí giáo dục:
 Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng phòng học bộ môn lịch sử, mua sắm
trang thiết bị dạy học hiện đại như máy chiếu, máy vi tính, kết nối mạng internet...để
giáo viên dễ dàng tổ chức các hoạt động dạy học một cách hiệu quả nhất. Hỗ trợ giáo
viên các công cụ để tạo bài giảng mô hình lớp học đảo ngược.
 Bên cạnh đó cũng cần xây dựng được một hệ thống bài giảng Elearning chuẩn
hóa đầy đủ để thực hiện việc dạy học được hiệu quả.


 Tổ chức các đợt tập huấn trên diện rộng cho giáo viên về cách ứng dụng CNTT
vào dạy học: cách soạn bài giảng Elearning, sử dụng các phần mềm giáo dục cơ
bản,...
 Bốn là, thay đổi cách đánh giá năng lực người học: người dạy có thể tạo bài tập,
rà soát và cho điểm dễ dàng thông qua Google Drive.
 Năm là các cơ sở giáo dục cần tạo tối đa điều kiện thuận lợi cho các giáo viên
dám mạnh dạn thực hiện các ý tưởng về phương pháp dạy học mới.
 Đối với giáo viên nói chung và giáo viên Lịch sử nói riêng:
Cần chú trọng việc nâng cao ý thức tự giác học tập của người học bằng cách
thay đổi phương pháp giảng dạy ngay từ các bậc đào tạo cấp tiểu học, THCS.
(Hiện nay, các cuộc thi online như Olympic toán và Tiếng Anh sẽ là nền tảng quan
trọng để học sinh từ bậc tiểu học được làm quen với máy tính và mạng internet

phục vụ cho mục đích học tập). Việc chuyển từ lối giảng dạy theo cách truyền đạt
kiến thức sang giảng dạy tích cực, bồi dưỡng năng lực người học. phải được áp
dụng một cách tích cực và triệt để.
Với giáo viên dạy sử, cần phải tâm huyết, yêu ngành, yêu nghề, không ngừng tự
học, tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên cập nhật những phương
pháp dạy học mới. Từ đó biết sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học
hiện đại để phát triển năng lực cho các em, đồng thời tạo hứng thú học tập cho học
sinh và nâng cao chất lượng môn học lịch sử trường THPT.
Đặc biệt, giáo viên phải không ngừng nâng cao kĩ năng sử dụng công nghệ thông
tin trong dạy học góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao hiệu quả bài học lịch
sử. Giáo viên tích cực tìm đọc các tài liệu tham khảo, có sự hiểu biết về các vấn đề
thực tiễn hiện nay: ô nhiễm môi trường, xung đột trên thế giới, biển đảo, xu thế
toàn cầu hóa...làm cho giờ học thêm hấp dẫn, sinh động hơn.
 Đối với học sinh:
Cần chủ động hơn nữa trong học tập: chủ động trong việc tự học, tự nghiên cứu,
chủ động lĩnh hội kiến thức …
Ngoài ra, học sinh cần tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong việc học tập
như sưu tầm tài liệu liên quan đến bài học, thiết kế bài học bằng những hình thức khác
nhau để tạo hứng thú cho mình và cho các bạn xung quanh.
 Đối với phụ huynh:


Cần kết hợp, hỗ trợ giáo dục con em trong những thời gian ngoài giờ lên lớp; tạo
điều kiện về phương tiện học tập (máy tính hay điện thoại có kết nối mạng internet),
quan tâm đến việc tự học ở nhà của học sinh. Và có sự liên hệ mật thiết với giáo viên
để hiệu quả học tập của học sinh trở nên tốt hơn.
10. Đánh giá lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến theo ý kiến tác giả.
10.1.1. Tính hiệu quả.
10.1.1.2. Hiệu quả thực tiễn

Tôi đang dạy 02 lớp là lớp 12A6 và 12A7 đều là hai lớp ban Khoa học xã hội
(12A6 là khối C, 12A7 là khối D1). Về năng lực học tập môn Lịch sử của hai lớp
này tương đối đồng đều. Theo kết quả khảo sát chuyên đề đầu năm, điểm trung
bình môn sử của hai lớp như sau:
Lớp
Lớp 12A6
Lớp 12A7
ĐTB KS
6.89
6.93
Trong quá trình thử nghiệm phương pháp mới, tôi chọn lớp 12A7 thực hiện
phương pháp lớp học đảo ngược, còn lớp 12A6 là áp dụng phương pháp dạy học
truyền thống.
Sau bài học, tôi cho học sinh làm bài kiểm tra đánh giá thì nhận được kết quả
như sau: (theo kết quả điểm kiểm tra sau bài học trong phụ lục số 4 trang 33):
Lớp
Lớp 12A6
Lớp 12A7
Điểm kiểm tra
6.97
7.76
TB
 Sau khi áp dụng kinh nghiệm trên vào phần lịch sử thế giới lớp 12 ở trường
THPT Bình Xuyên, tôi nhận được những kết quả khả quan như sau:
- Học sinh chú ý và hứng thú hơn trong giờ học lịch sử, những trường hợp làm
việc riêng hay ngáp dài không còn nữa.
- Do đã nắm được trước nội dung bài học nên trong giờ, học sinh thảo luận sôi
nổi, tích cực, thường xuyên giơ tay để được trả lời các câu hỏi.



- Các em có ý thức tự giác học bài, làm bài và chuẩn bị bài mới tốt hơn.
- Điểm kiểm tra lịch sử của các em cao hơn.
So với lớp 12A6 (theo phương pháp truyền thống) thì chất lượng học tập của lớp
12A7 sau tiết dạy thực nghiệm được tăng lên đáng kể.
Kết quả bài kiểm tra sau giờ học:
Kết quả
Lớp
12A6

Tổng
số HS
36

Khá giỏi
SL
25

%
69,44%

Trung bình

Dưới TB

SL

%

SL


%

8

22.22%

3

8,33%

12A7
38
32
84.21%
6
15.79%
0
0
→ Kết quả trên cho thấy mặc dù hai lớp HS có trình độ tương đối đồng đều,
nhưng khi áp dụng phương pháp dạy học mới, lớp 12A7 học sinh có kết quả bài
kiểm tra tốt hơn (tỉ lệ khá giỏi là 84,21% trong khi lớp đối chứng 12A6 chỉ có
69,44%), và đặc biệt lớp thực nghiệm (12A7) không có học sinh bị điểm dưới
trung bình.
10.1.2. Tác dụng của mô hình Lớp học đảo ngược với việc bồi dưỡng khả năng tự
học của HS.
Trong các lớp học truyền thống, vai trò của người thầy được đặt định quá cao,
thầy giảng, trò nghe một phần cũng vì áp lực thời gian và quan niệm DH đơn thuần
là chuyển giao tri thức. Mô hình lớp học đảo ngược có sự hỗ trợ của E-learning đã
tạo điều kiện giải phóng người thầy khỏi áp lực về thời gian, có nhiều cơ hội tương
tác, động viên và thách thức để HS tiến bộ hơn.

 Hình thành thói quen tự lực nghiên cứu tài liệu trước khi tới lớp
Hoạt động TH ở nhà trên E-learning sẽ giúp HS hình thành thói quen tự lực
nghiên cứu tài liệu trước khi đến lớp. Để hình thành được thói quen này, HS cần
phải nhận biết, hiểu, phân tích, tổng hợp, so sánh sự vật hiện tượng được tiếp xúc;
suy xét từ nhiều góc độ, có hệ thống trên cơ sở những lý luận và hiểu biết đã có mà
tự mình lĩnh hội kiến thức. Đây là bước khởi đầu để rèn luyện thói quen tích cực
khám phá, tìm tòi mọi nơi, mọi lúc, mọi trường hợp và với nhiều đối tượng khác


nhau, nâng cao dần lên HS sẽ chủ động, tự lực nghiên cứu, độc lập tự giác trong
học tập và tăng dần là học được nề nếp làm việc khoa học.
Để TH đạt hiệu quả thì HS cần kiên trì, có thái độ học tập nghiêm túc, phải tự
giác và có quyết tâm. Khi đã thành thói quen thì HS sẽ thích thú với TH, từ đó biết
cách TH. HS tự học bằng hành động của chính mình, “hành để học, học để hành”,
qua quan sát mà học các phân tích, tư duy, tự mình biết cách phát hiện ra tính chất,
bản chất sự vật/hiện tượng. Cuối cùng là học cách tổng hợp, khái quát và diễn đạt
ra bằng lời kiến thức đã học.
 Hình thành thói quen đặt câu hỏi
Bằng cách tự chịu trách nhiệm với việc học của mình và nguồn học liệu sẵn sàng
trên E-learning, HS hoàn toàn có thể xem lại khi cần hoặc sử dụng các trợ giúp cá
nhân có sẵn để tìm ra câu trả lời đúng đắn. Với những vấn đề chưa hiểu, HS chủ
động hỏi thầy về những gì mình có nhu cầu. Khi biết mình cần hỏi gì, hỏi đúng
trọng tâm chính là HS đã biết cách đặt câu hỏi
 Tạo nhu cầu trao đổi, tương tác với bạn, với thầy
Tri thức ban đầu qua TH của HS có thể chưa hoàn toàn đúng vì vậy, trong học
tập HS cần bộc lộ sản phẩm học của mình qua thảo luận, biện luận, phản biện về
các sản phẩm mới kiến tạo, để mỗi HS được chia sẻ thông tin, học hỏi lẫn nhau;
qua diễn đạt (lập luận) và hỏi lại (phản biện) tự soi xét lại sản phẩn mới học được
của mình, bổ sung, chỉnh sửa và rút kinh nghiệm về cách học. Theo tháp nhu cầu
Maslow, HS sẽ hào hứng, có nhiều động lực tham gia học tập hơn khi được thể

hiện trước mọi người
Ngoài ra, khi tham gia làm việc nhóm hiệu quả sẽ tác động tốt đến nhân cách
cũng như năng lực của chính HS đó bao gồm: biết cách cùng nhau suy nghĩ, có khả
năng tự điều chỉnh, có khả năng hợp tác, biết cách tranh luận và thuyết phục, học
cách tôn trọng người khác, biết lắng nghe quan điểm của người khác, tích lũy kinh
nghiệm làm việc nhóm. Chú ý rằng hoạt động nhóm chỉ có thể đạt hiệu quả tốt nếu
GV phân chia công việc, nhiệm vụ hợp lý. Mỗi cá nhân HS phải hoàn thành nhiệm
vụ của mình trong chuỗi nhiệm vụ chung của cả nhóm cộng tác. Từng nhiệm vụ
nhỏ của từng người là một mô đun đã được phân chia sẵn chờ người học hoàn


chỉnh. Qua đó, không có hiện tượng người làm ít, người làm nhiều mà là sự phối
hợp nhau cùng hoàn thành công việc chung.
Thông qua thảo luận nhóm, HS biết cách tự thể hiện mình, bộc lộ suy nghĩ của
bản thân, nuôi dưỡng tự tin. Qua trao đổi, thảo luận, GV kịp thời phát hiện được
lỗi, thiếu sót trong quá trình tư duy, lập luận của HS để kịp thời chấn chỉnh, rèn
luyện cho các em cách tư duy khoa học đồng thời cũng hướng dẫn cả cách diễn
đạt, trình bày vấn đề. Do đó, HS thay vì chỉ học từ thầy mà còn học từ bạn, từ tài
liệu sách vở.
 Hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ
Trong mô hình lớp học đảo ngược, giờ học ở lớp sẽ được GV tận dụng tối đa tổ
chức cho HS vận dụng, thực hành kiến thức, thảo luận nhóm hoặc triển khai các dự
án, giải quyết các vấn đề mở. Trong các hoạt động này, HS được rèn luyện các kĩ
năng phát biểu ý kiến trước nhiều người (nhóm học tập, lớp, các GV), kĩ năng
tham gia, trao đổi ý kiến trong học tập dưới hình thức thảo luận, xemina, thực hành
theo nhóm, biết sử dụng các nghi thức ngôn ngữ và giao tiếp với từng cá nhân khác
nhau với tư cách cá nhân hay tư cách là người đại diện cho nhóm. Trong hoạt động
nhóm, HS sẽ học được các kĩ năng đối thoại, thương lượng và giải quyết những bất
đồng, xung đột quan điểm, học được kĩ năng biểu đạt bằng ngôn ngữ và hành
động, biết thông cảm, đồng cảm, biết lắng nghe người khác. Ngoài ra, HS có thể

học thêm các kĩ năng biểu thị tính thân thiện và ân cần với bạn bè trong học tập, tự
phê bình và phê bình, kĩ năng làm việc cùng nhau trong nhóm hợp tác. Khi được
rèn luyện các kĩ năng trên, HS sẽ dần hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ
Ngoài ra, GV có thể hướng dẫn HS cách tổng hợp, đánh giá, bằng nhiều hình
thức khác nhau: bằng lời văn, bảng biểu, sơ đồ, bản đồ tư duy…bằng ngôn ngữ của
chính HS, diễn đạt theo cách hiểu của các em, chứ không phải là chép lại nội dung
trong tài liệu.
 Hình thành thói quen vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề
Năng lực giải quyết vấn đề bao gồm khả năng trình bày giả thuyết; xác định
cách thức giải quyết và lập kế hoạch giải quyết vấn đề; khảo sát các khía cạnh, thu
thập và xử lý thông tin; đề xuất các giải pháp, kiến nghị các kết luận. Thực tế cho


thấy nhiều HS có thể thu thập thông tin phong phú nhưng không biết hệ thống và
xử lý như để làm phát hiện ra con đường tiệm cận giả thiết. Điều này đòi hỏi GV
cần hướng dẫn cẩn thận và kiên trì ngay từ những hoạt động đầu của giải quyết vấn
đề. Dạy cho HS có thói quen, có kĩ thuật giải quyết vấn đề là một yếu tố quan trọng
trong việc dạy cách học cho HS.
Khi có kĩ thuật GQVĐ, HS có thể áp dụng vào rất nhiều trường hợp trong học
tập cũng như trong cuộc sống để lĩnh hội các tri thức cần thiết cho mình. Nên xem
kĩ thuật GQVĐ vừa là công cụ nhận thức, nhưng đồng thời là mục tiêu của việc
dạy cho HS phương pháp tự học.
Để hình thành cho HS thói quen vận dụng kiến thức, giải quyết vấn đề trong
những tình huống khác nhau thì HS cần phải nhận biết, hiểu, phân tích, tổng hợp,
so sánh sự vật hiện tượng được tiếp xúc; suy xét từ nhiều góc độ, có hệ thống trên
cơ sở những lý luận và hiểu biết đã có của mình; phát hiện ra các khó khăn, mâu
thuẫn xung đột, các điểm chưa hoàn chỉnh cần giải quyết, bổ sung, các bế tắc,
nghịch lý cần phải khơi thông, khám phá, làm sáng rõ... Đây là bước khởi đầu của
sự nhận thức có tính phê phán đòi hỏi nỗ lực trí tuệ cao. Việc thường xuyên rèn
luyện năng lực này tạo cho HS thói quen hoạt động trí tuệ, luôn luôn tích cực khám

phá, tìm tòi ở mọi nơi, mọi lúc, mọi trường hợp và với nhiều đối tượng khác nhau,
nâng cao dần lên HS sẽ có thói quen vận dụng kiến thức có hiệu quả. Đồng thời
việc vận dụng những điều đã học vào thực tiễn mang lại hiệu quả cao cũng sẽ có
tác động ngược lại, tạo cho họ lòng ham học, hứng thú với TH, nhờ đó kết quả học
tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Việc TH, tự rèn luyện hình thành cho HS thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập
giải quyết vấn đề khó khăn trong học tập, trong cuộc sống, giúp cho họ tự tin hơn
trong việc lựa chọn cuộc sống cho mình. HS sẽ dễ dàng thích ứng và không bị lạc
hậu với người khác. Tự học thúc đẩy lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao vươn
tới những đỉnh cao của khoa học, sống có hoài bão, ước mơ.
 Hình thành các kĩ năng khai thác, sử dụng các phương tiện CNTT và
truyền thông hiện đại hiệu quả


Khi học với E-learning, HS được rèn luyện các kĩ năng CNTT từ cơ bản nhất
như cách thức sử dụng máy tính, cách tìm và nghiên cứu tài liệu số hóa, cách lưu
trữ, sử dụng các mail, văn bản điện tử để trao đổi thông tin và giao tiếp học tập trên
Internet. Rèn luyện các KN khai thác và sử dụng ICT hiệu quả làm cho thế hệ trẻ
có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa
học và công nghệ hiện đại; có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác
phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật cao.
10.1.3. Bài học kinh nghiệm.
Từ thực giảng dạy có sử dụng phương pháp lớp học đảo ngược và bài giảng
E-learning, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân:
- Người giáo viên luôn phải cố gắng trong quá trình tự học, tự đào tạo, có ý chí
cố gắng để thích ứng với sự phát triển của công nghệ thông tin trong thời đại ngày
nay.
- Biết tìm tòi, khám phá và ứng dụng vào giảng dạy những tiện ích của phần
mềm dạy học, những công cụ hữu ích như Google Classroom, …
- Với phương pháp dạy học mới – lớp học đảo ngược, việc ứng dụng công nghệ

thông tin khiến giờ học trở nên linh hoạt, hấp dẫn, thú vị. Các yếu tố này tác động
đến nhận thức, thái độ và việc rèn luyện kĩ năng của học sinh một cách tích cực và
góp phần đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Kết quả khả quan
của học sinh lớp 12A7 tại trường THPT Bình Xuyên sau học kì I mà tôi thực hiện
áp dụng là minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định trên.
- Trước khi đến lớp, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy, phải chuyên
tâm, tâm huyết nghiên cứu cẩn thận, tìm tòi, sáng tạo để tạo ra những bài giảng lịch
sử hấp dẫn, sinh động, gây hứng thú cho học sinh. Đồng thời điều đó cũng giúp
kiến thức của giáo viên sẽ luôn được củng cố và nâng cao.
- Kết hợp tốt các phương pháp dạy học và nội dung lồng ghép phải phù hợp,
giáo viên phải luôn tạo ra một giờ học thật thoải mái, nhẹ nhàng, không gượng ép
học sinh.


- Nắm bắt được đối tượng học sinh và tình hình thực tế ở địa phương từ đó xây
dựng hệ thống khắc phục phù hợp với năng lực học sinh.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến theo ý kiến của nhà
trường.
Nhà trường cũng nhận thấy sự tiến bộ của HS lớp 12 khi thực hiện những biện
pháp đã nêu trong sáng kiến.
11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu:
ST
Tên tổ chức/ cá nhân
Địa chỉ
Phạm vi áp dụng sáng kiến
T
1

- Phan Thị Hoài- GV

Lịch sử, Tổ Sử- ĐịaGDCD,Trường THPT
Bình Xuyên.

Khu phố I
Hương Canh

Bình
Xuyên - Vĩnh
Phúc

Không chỉ dừng lại ở bài 14 Lịch sử lớp
12 Ban cơ bản, SKKN này còn có thể áp
dụng rộng rãi cho tất cả các môn học từ
khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội,
các cấp học từ mầm non đến Đại học.

Bình Xuyên, ngày 20 tháng 01 năm 2019
Ban giám hiệu nhà trường
Hiệu trưởng

Tác giả sáng kiến

Phan Thị Hoài


×