Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN vận dụng kĩ thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.23 KB, 30 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
1. 1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay cuộc sống đang thay đổi và tiến lên từng giờ. Đó là sự phát
triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của nền văn minh tin học, sự phát triển
của nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. Đây là cơ
hội và cũng là thách thức đối với đất nước ta. Trong khi đó chúng ta đang gặp
nhiều khó khăn trở ngại do chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo còn đang
thấp hơn so với yêu cầu của sự phát triển đó.
Mặt khác, trong xu thế hội nhập với thế giới, bên cạnh những nền văn hoá
tiến bộ, có rất nhiều mảng văn hoá đen vẫn còn len lỏi và dễ dàng lan nhanh
trong giới trẻ. Điều đó dẫn đến bản sắc dân tộc đang dần mất đi, mà nhiều người
Việt Nam lại đang quên đi nguồn gốc, lịch sử dân tộc. Vì vậy, một trong những
vấn đề trọng tâm của nước ta là đầu tư phát triển nhân tố con người, tức là đầu
tư cho giáo dục và đào tạo để tạo ra những con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành nhân cách và phẩm chất
năng lực của công dân, nhất là bản lĩnh văn hoá vững vàng trước sự hội nhập.
Môn lịch sử có vai trò không nhỏ góp phần thực hiện nhiệm vụ trên.
Có thể nói học môn lịch sử ngoài việc để “ cho tường gốc tích nước nhà
Việt Nam” thì lịch sử còn cung cấp cho học sinh nhiều kĩ năng quan trọng khác
như: phân tích, đánh giá, nhận xét, tổng hợp đánh giá quá khứ hiện tại, tương lai
một cách đúng đắn phù hợp với thời cuộc. Nhưng thực tế hiện nay cho thấy chất
lượng học môn lịch sử của học sinh các trường THPT nói riêng, các cấp học nói
chung còn nhiều điều đáng bàn, đặc biệt là ở miền núi. Những năm gần đây kết
quả thi tốt nghiệp THPT và xét đại học môn lịch sử quá thấp đã đặt ra cho chúng
ta một vấn đề: Tại sao lại như vậy? làm cách nào để khắc phục tình trạng này?
Về phía học sinh, các em không thích học môn lịch sử vì cho rằng đó là
môn phụ, không quan trọng lại có quá nhiều mốc thời gian và sự kiện khô khan,



khó nhớ. Vì vậy các em không hứng thú trong học tập môn này, hoặc chỉ học
qua loa đối phó. Vậy phải làm sao để thu hút được học sinh có hứng thú và
chuyên tâm hơn trong học môn lịch sử?
Xuất phát từ thực tế đó, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Vận dụng kĩ thuật
kể chuyện trong giờ học lịch sử lớp 10”. Qua thời gian thực hành và thấy có
hiệu quả, vì vậy tôi nêu ra để đồng nghiệp cùng tham khảo.
1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện tổt đề tài, sáng kiến kinh nghiệm đã thực hiện các nhiệm vụ
- Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử. tài liệu gây hứng thú
trong dạy học lịch sử.
- Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp.., rút kinh nghiệm giờ dạy
- Tìm hiểu các trò chơi kiến thức trên truyền hình: Theo dòng lịch sử, Đường lên
đỉnh Olimpia...
- Sách giáo khoa, sách giáo viên lịch sử lớp 10.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh để điều chỉnh và bổ sung hợp
lí.
1.3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng.
Học sinh cả khối 10 nói chung nhưng chủ yếu là học sinh các lớp xã hội
b. Phạm vi và thời gian nghiên cứu .
Sáng kiến kinh nghiệm sử dụng các kiến thức trong chương trình lịch sử
lớp 10 ban cơ bản.
Thời gian nghiên cứu trong 1 năm học 2018- 2019
1.4. Mục đích nghiên cứu
Làm cho tiết học bớt khô khan, nặng nề mà trở nên nhẹ nhàng hấp dẫn và
hiệu quả.
Giúp cho học sinh hứng thú, ham thích môn lịch sử.
Rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cơ bản của bộ môn.
2. Tên sáng kiến

Vận dụng kĩ thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử lớp 10


3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Hoàng Thị Duyên
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Đồng Đậu, huyện Yên Lạc
- Số điện thoại:0975695415Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Hoàng Thị Duyên giáo viên Trường THPT Đồng Đậu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh
Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Sáng kiến có thể được sử dụng để xây dựng giáo án dạy học theo phương pháp
đổi mới dạy và học, lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tích tích cực chủ động
sáng tạo để chiếm lĩnh kiến thức trong môn Lịch sử.
- Khi xây dựng sáng kiến vận dụng kĩ thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử
+ Giáo viên: Chủ động sử dụng phương pháp dạy học mới. Giáo viên tự xây
dựng nội dung phù trình độ nhận thức của từng lớp từ đó phát huy khả năng
sáng tạo của giáo viên.
+ Học sinh: Hiểu, lý giải, xâu chuỗi tìm ra các mối quan hệ, tác động, ảnh hưởng
của các nội dung ; tăng cường khả năng vận dụng các kiến thức đã học vào giải
quyết những vấn đề khác trong học tập và thực tiễn. Tâm lí thoải mái cho học
sinh trong các buổi học, các em được chủ động làm việc trong các giờ học.
Thông qua hoạt động trao đổi giữa các học sinh rèn luyện cho các em kĩ năng
hợp tác trong giải quyết các vấn đề.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Sáng kiến được chúng tôi áp dụng từ tháng 9 năm 2018 tại trường THPT
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài
a. Thuận lợi.
- Tình hình chung về giảng dạy môn lịch sử ở trường: Đội ngũ giáo viên trẻ,

khoẻ, nhiệt tình, tận tâm trong giảng dạy. Có những giáo viên có kinh nghiệm
nên thông qua công tác dự giờ, thao giảng đã đóng góp ý kiến giúp cho bản thân
rút nhiều kinh nghiệm quý báu để vận dụng khi lên lớp.


- Tình hình trường lớp, học sinh:
Đa số học sinh chăm ngoan, lễ phép, vâng lời thầy cô. bên cạnh đó học sinh
cũng được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, các sách bài tập lịch sử...
Nhà trường xây dựng đầy đủ thư viện điện tử và sách tham khảo để phục vụ
cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh.
- Ưu điểm khi sử dụng kĩ thuật kể chuyện trong dạy học lịch sử:
Giáo viên có thể sưu tầm các câu chuyện, các giai thoại lịch sử từ các
cuốn truyện, từ nguồn tư liệu của thư viện nhà truờng để sử dụng cho bài dạy
thêm phong phú, sinh động, tiết học trở nên hấp dẫn
b. Khó khăn khi thực hiện đề tài:
- Về phía giáo viên: mặc dù đã cải cách chương trình giảng dạy nhưng
vẫn còn một số bài quá dàn trải dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức đối với cả
giáo viên truyền thụ lẫn việc lĩnh hội kiến thức của học sinh. Giáo viên phải
dành nhiều thời gian nghiên cứu chắt lọc những kiến thức trọng tâm dể bài dạy
có hiệu quả. Ngoài ra giáo viên phải dành nhiều thời gian để sưu tầm các câu
chuyện lịch sử liên quan đến bài dạy.
- Về phía học sinh: Nhiều học sinh coi môn lịch sử là môn học phụ, môt
số khác chỉ học để xét tốt nghiệp THPT nên chưa có hứng thú, sự yêu thích, tập
trung đối với môn học.
Đa số các em vẫn còn thói quen học vẹt, không nắm sâu được kiến thức vì
vậy sẽ mau quên kiến thức cũ, hoặc có nhớ thì cũng không thực sự chính xác các
sự kiện lịch sử.
7.2. Giải pháp và tổ chức thực hiện lồng ghép kể chuyện lịch sử.
7.2.1. Kĩ thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử
Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của giáo

viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều
khiển quá trình dạy học. Các kĩ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của
phương pháp dạy học. Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học
có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của học sinh vào


quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học
sinh.
Kĩ thuật kể chuyện được sử dụng trong dạy học nói chung và trong dạy
học lịch sử nói riêng. Bằng việc dùng lời nói kết hợp hình ảnh để diễn tả một
cách sinh động, hấp dẫn về một câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Câu
chuyện được kể trong giờ học lịch sử có liên quan đến những mảnh sự kiện, biến
cố lịch sử, nhân vật lịch sử hoặc để giải thích cho một cái tên, một địa danh, một
khái niệm, một thuật ngữ có liên quan đến nội dung bài học.
Mỗi sự kiện, nhân vật, địa danh đều có ý nghĩa riêng về mặt ngôn ngữ,
văn hóa lịch sử. Việc ghi nhớ chúng theo những câu chuyện thú vị đi kèm, giúp
học sinh nhớ dữ liệu không phải bằng cách "học thuộc" mà là nhận thức giá trị
của chúng.
Giáo viên sử dụng kĩ thuật kể chuyện không đơn thuần là để minh hoạ mà
còn để cụ thể hoá kiến thức, tái hiện nội dung kiến thức để tạo biểu tượng lịch
sử, rút ra bài học lịch sử. Việc lồng ghép kể các câu chuyện, các giai thoại lịch
sử trong bài dạy sẽ được học sinh có thêm cơ sở để nắm vững bản chất sự kiện,
ghi nhớ sự kiện, có ấn tượng mạnh và ngưỡng mộ về nhân vật. Qua đó, thực
hiện tốt việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hình thành thói quen tư duy,
ghi nhớ sự kiện thông qua việc liên tưởng tới các câu chuyện được kể, khắc sâu
hơn nội dung lịch sử, vấn đề lịch sử. Từ đó, mang lại hiệu quả rõ rệt cho giờ học
lịch sử
7.2.2. Những nguyên tắc cần tuân thủ trong sử dụng câu chuyện, giai thoại
lịch sử trong dạy học lịch sử
Để sử dụng các câu chuyện, các giai thoại lịch sử trong dạy học lịch sử

một cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hứng thú
học tập cho học sinh, đỏi hỏi giáo viên phải tuân thủ 1 một số nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc đảm bảo tính cơ bản, khoa học.
- Có nhiều giai thoại, nhiều câu chuyện lịch sử nhưng điều quan trọng là
giáo viên phải xác định đúng những câu chuyện có liên quan đến các sự kiện mà
bài học cần đáp ứng.


- Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức.
Nội dung câu chuyện đưa vào dạy học phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi,
hoàn cảnh và trình độ nhận thức của học sinh. Ngôn ngữ phải trong sáng, sễ
hiểu, biểu cảm....
- Nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh.
Giáo viên cần phải lựa chọn các câu chuyện lịch sử cho phù hợp với
những kiến thức sự kiện lịch sử cơ bản, phục vụ cho bài học để từ đó học sinh
hiểu sâu sắc bài học, kích thích sự ham học, khơi dậy nội lực của mình. Giáo
viên sử dụng phương pháp kể chuyện không đơn thuần là để minh hoạ mà còn
để cụ thể hoá kiến thức, tái hiện nội dung kiến thức để tạo biểu tượng lịch sử, rút
ra bài học lịch sử. Nên kể chuyện kèm theo tranh ảnh minh họa để tăng sự hấp
dẫn, lôi cuốn học sinh.
7.2.3. Nội dung kể chuyện có thể lồng ghép trong giờ học lịch sử lớp
7.2.3.1. Trong chương trình chính khoá
Phần1: lịch sử thế giới nguyên thủy, cổ đại và trung đại
Chương 1: Xã hội nguyên thủy
Giáo viên giảng giải kết hợp với kể chuyện chứng minh về sự xuất hiện
loài người theo quan điểm duy vật biện chứng, sưu tầm những câu chuyện về
khảo cổ học với phương pháp khoa học hiện đại để chứng minh con người xuất
phát từ loài vượn cổ qua di tích hóa thạch. Có thể liên hệ đến Việt Nam và
chứng minh Việt Nam là một trong những cái nôi của loài người qua việc tìm
thấy công cụ lao động của người tối cổ ở Thanh hóa .

Chương 2: Các quốc gia cổ đại
Kể chuyện liên quan đến các thành tựu văn hóa như lịch sử, chữ viết, kiến
trúc…, giáo viên kể những câu chuyện liên quan về kim tự tháp ở Ai Cập, Vạn
lý trường thành ở Trung Quốc, đấu trường La Mã…; kể về các vị hoàng đế
Pharaông và những kì quan thế giới. Từ đó, giúp học sinh hiểu được những tài
năng và sự sáng tạo của con người thời cổ đại. Bồi dưỡng lòng tự hào về truyền
thống lịch sử của các dân tộc phương Đông trong đó có Việt Nam.
Chương 3: Trung Quốc thời phong kiến


Kể chuyện liên quan đến sự hình thành và phát triển chế độ phong kiến
Trung Quốc, từ khi nhà Tần sáng lập năm 221 TCN và kết thúc vào năm 1911
dưới triều đại Mãn Thanh, giáo viên sử dụng chuyện kể về quy luật thịnh suy
của chế độ phong kiến Trung Quốc thông qua các vị hoàng đế như Tần Thủy
Hoàng, Võ Tắc Thiên, Chu Nguyên Chương… hoặc về học thuyết Nho giáo tồn
tại hàng ngàn năm của Khổng Tử và sự ảnh hưởng của nó ra bên ngoài. Sự xuất
hiện và thành tựu của thơ Đường và tiểu thuyết Minh- Thanh…Giúp học sinh
hiểu được những ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt Nam
Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến
Giáo viên có thể sưu tầm các câu chuyện về văn hóa truyền thống Ấn Độ:
Sự ra đời của chữ viết, nguồn gốc và sự phát triển của đạo Phật, đạo Bàla
môn,Đông Nam Á thời phong kiến, giúp học sinh hiểu được Ấn Độ là một nước
có nền văn minh lâu đời, phát triển cao, cùng với Trung Quốc có ảnh hưởng sâu
rộng ở châu Á và Thế giới.
Chương 5: Đông Nam Á thời phong kiến
Kể chuyện liên quan đến sự hình thành của vương quốc Lào và
Campuchia, về văn hóa Đông Nam Á thời phong kiến. Thông qua việc tìm hiểu
quá trình phát triển của lịch sử, tính chất tương đồng về địa lý- lịch sử văn hóa
của khu vực và sự gắn bó lâu đời của các dân tộc ở Đông Nam Á, giáo dục học
sinh tinh thần đoàn kết, hợp tác lẫn nhau giữa các dân tộc trong khu vực.

Chương 6: Tây Âu thời trung đại
Kể chuyện giúp học sinh thấy được quá trình hình thành xã hội phong
kiến châu Âu, hiểu khái niệm “lãnh địa” và đặc trưng của kinh tế lãnh địa, sự
xuất hiện và vai trò của thành thị trung đại. Về các cuộc phát kiến địa lý và hệ
quả hay những thành tựu của văn hóa phục hưng. Thông qua các tư liệu lịch sử
giáo dục cho học sinh tinh thần dũng cảm, khám phá cái mới, tinh thần đoàn kết
các dân tộc, giúp học sinh hiểu được giá trị của lao động, căm ghét bọn bóc lột.
Giáo dục học sinh biết quý trọng các di sản văn hóa dân tộc trên thế giới, đồng
thời có các hiểu biết về văn hóa châu Âu


Phần 2: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX
Chương 1: Việt Nam từ thời nguyên thủy đến thế kỉ X.
Giáo viên kể về các nền văn hóa cổ đại trên đất nước Việt Nam, những nét
chính về đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang- Âu Lạc, thời bắc
thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập. Sưu tầm các câu chuyện về tấm
gương của vị anh hùng dân tộc: Qua cuộc khởi ngnghĩa Hai Bà Trưng, kết hợp
với chuyện kể đánh đuổi Tô Định trả thù chồng đền nợ nước, thể hiện được tinh
thần và khí tiết của người phụ nữ Việt Nam
Về nội dung Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng,
giáo viên khắc sâu nghệ thuật quân sự độc đáo như cho quân đóng cọc, lợi dụng
nước thủy triều để đánh giặc.
Chương 2: Quá trình hình và phát triển của nhà nước thế kỉ X-XV
Khái quát quá trình hình thành nhà nước phong kiến Việt Nam qua các
triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê. Thông qua chuyện về các nhân
vật lịch như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn… giúp học sinh hiểu rõ hơn
về giai đoạn lịch sử này. Giáo viên cũng có thể kể chi tiết Thái hậu Dương Vân
Nga khoác áo long bào lên vai Lê Hoàn, chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh
sang nhà Tiền Lê hoặc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
Giáo viên thông qua nội dung bài học về các cuộc kháng chiến chống

ngoại xâm, kết hợp với nghệ thuật đánh giặc, ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước
của Lý Thường Kiệt, Lê Lợi; đặc biệt, chuyện ba lần đánh bại quân Mông
nguyên, qua đó giáo dục lòng tự hào dân tộc, truyền thống đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, về những thành tựu văn hóa của dân tộc.
Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII.
Giáo viên kể chuyện về người anh hùng áo vải Quang Trung và phong
trào Tây Sơn, chuyện về các thành tựu văn hóa thế kỉ XVI- XVIII…qua đó, giáo
dục lòng yêu nước, đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ sự toàn vẹn của đất nước. Tự
hào về tinh thần đấu tranh của người nông dân Việt Nam.
Chương 4: Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX.


Giáo viên giúp học sinh hiểu tình hình chung về các mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa ở nước ta nửa đầu thế kỉ XIX dưới vương triều Nguyễn thông qua các
tư liệu lịch sử.
Phần 3: Lịch sử thế giới cận đại
Chương 1: Các cuộc cách mạng tư sản.
Tư liệu về lịch sử nước Mĩ, vì sao mà Mĩ làm cách mệnh, kể chuyện về
nhân vật Oasinhtơn người chỉ huy cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang
thuộc địa Anh ở Bắc mĩ, góp phần khai sinh ra nước Mỹ
Rôbexpie- linh hồn của cách mạng tư sản Pháp.
Giúp học sinh có những nhận thức đúng về mặt tích cực và hạn chế của
Cách mạng tư sản. Biết trân trọng những quan điểm tiến bộ của Triết học ánh
sáng trong cuộc tấn công vào thành trì phong kiến, dọn đường cho cách mạng
bùng nổ, về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng.
Chương 2: Các nước Âu- Mĩ từ đầu thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX.
Giáo viên có thể kể về sự ra đời của máy hơi nước, đầu máy xe lửa, tàu
thủy Phơn-tơn, về công cuộc thống nhất Đức, Ý, về Bi-xmac, Ga-đi-ban-đi, …
về các thành tựu của khoa học- kĩ thuật cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và vai trò
của nó đối với sự phát triển của lịch sử.

7.2.3.2. Một số hình thức kể chuyện lịch sử trong chương trình ngoại khoá.
Trong bài ngoại khóa môn lịch sử, giáo viên có thể tổ chức một buổi
tham quan học tập ở bảo tàng lịch sử đối với học sinh ở các trung tâm thành phố.
Đối với học sinh các trường do điều kiện về kinh tế, về địa lý gặp nhiều khó
khăn, giáo viên có thể tổ chức một bài ngoại khóa với hình thức kể chuyện lịch
sử về một nội dung, sự kiện, vấn đề hoặc nhân vật lịch sử.
* Thứ nhất: sử dụng các câu chuyện, các giai thoại lịch sử để tạo biểu tượng về
nhân vật lịch sử.
Đi cùng với các sự kiện lịch sử thường gắn với 1 nhân vật lịch sử cụ thể.
Những anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Huệ… Những nhân vật này có vai trò rất lớn với lịch sử dân tộc do
vậy trong dạy học giáo viên không thể lướt qua, bỏ qua mà phải khắc hoạ, tạo


biểu tượng về các nhân vật đó, sử dụng phương pháp kể chuyện có tác dụng tạo
biểu tượng về nhân vật lịch sử một cách sinh động, đậm nét từ đó giáo dục học
sinh kính trọng, noi gương các anh hùng dân tộc.
Giáo viên có thể kể chuyện kết hợp với tranh ảnh để tạo biểu tượng.
Trong bài nội khoá do thời gian có hạn giáo viên tạo biểu tượng về những nét
chính, tiêu biểu đủ để khắc hoạ nên nhân vật đó.
Ví dụ 1: giáo viên tạo biểu tượng về Trần Hưng Đạo.
Trần Hưng Đạo (? - 20 tháng 8,năm 1300), còn được gọi là Hưng Đạo đại
vương hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương, là một nhà chính trị, quân sự, tôn
thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với
việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên- Mông năm
1285 và năm 1288.
Ví dụ 2: Tạo biểu tượng về Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Lê Lợi là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã thành lập một
đội quân người Việt và lãnh đạo đội quân này chiến đấu chống lại sự chiếm
đóng của quân đội nhà Minh (Trung Quốc) từ năm 1418 cho đến lúc đánh đuổi

hoàn toàn quân Minh ra khỏi Đại Việt vào năm 1428. Ông cũng thành công với
các chiến dịch quân sự đánh dẹp các tù trưởng ở biên giới phía Bắc Đại Việt và
quân đội Ai Lao. Ông là Vua của nước Đại Việt từ năm 1428 cho tới năm 1433.
Ông được coi là vị vua huyền thoại của Đại Việt với tài năng quân sự, khả năng
cai trị và lòng nhân ái đối với cả kẻ thù
* Thứ hai: Sử dụng các giai thoại lịch sử để giải thích từ đó rút ra bản chất một
sự kiện, một hiện tượng lịch sử.
Để cho học sinh nắm được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử tức là
trả lời được câu hỏi vì sao thì giáo viên sử dụng các mẩu chuyện, các giai thoại
lịch sử rồi từ đó nêu tình huống có vấn đề.
Ví dụ1: Kể chuyện về đời sống của bầy người nguyên thủy


Bầy người nguyên thủy

Bầy người nguyên thủy là tập hợp một nhóm người từ 5 đến 7 gia đình.
Mỗi gia đình có đôi vợ chồng và con nhỏ chiếm một góc lều hay góc hang. Bấy
giờ chưa có những quy định xã hội nên người ta gọi những hợp quần xã hội đầu
tiên này là “ bầy người nguyên thủy”. Bầy người nguyên thủy có người đứng
đầu, có phân công lao động giữa nam và nữ, cùng chăm sóc con cái. Họ vẫn còn
sống trong tình trạng “ăn lông ở lỗ”- một cuộc sống tự nhiên, bấp bênh triền
miên hàng triệu năm. Giáo viên có thể kết hợp lời nói kể về việc con người phát
hiện ra lửa( từ các vụ cháy rừng hoặc núi lửa phun trào, con người biết dùng lửa
để sưởi ấm và nướng chín thức ăn), sau đó biết giữ lửa, tạo ra lửa bằng cách cọ
xát hai hòn đá vào nhau. Sự xuất hiện của lửa đã thể hiện bước tiến lớn trong đời
sống bầy người nguyên thủy.
Có nhiều hình thức tổ chức ngoại khóa, trong đó, kể chuyện lịch sử là một
hình thức ngoại khóa hấp dẫn, dễ làm và có hiệu quả giáo dục cao. Giáo viên có
thể cho học sinh chọn các chủ đề hoặc vấn đề mình yêu thích, sau đó chuẩn bị
theo nhóm rồi trình bày trước lớp.

Kể chuyện lịch sử không phải là thông báo khô khan, kể chuyện lịch sử
phải đưa người nghe sống lại quá khứ, như đang được chứng kiến tận mắt. Để
làm được điều này trước hết học sinh phải chuẩn bị kỹ càng, phải đọc thuộc


truyện, kể không những khúc chiết, rõ ràng tái hiện lại được nội dung sự kiện
lịch sử mà còn cuốn hút, hấp dẫn người nghe.
Có nhiều cuốn sách trong đó có nhiều câu chuyện lịch sử liên quan đến
các bài học. Đó là các tác phẩm : Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, viết về các
nhân vận lịch sử, các công trình văn hoá nổi tiếng thế giới như công trình vườn
treo Ba-Bi-lon, cung A phòng, khu lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng…các trang Web về
lịch sử, học sinh có thể tham khảo.
Ví dụ 2: Bài 20- lịch sử lớp 10: “ Xây dựng và phát triển văn hoá dân
tộc trong các thế kỷ X- XV”. Để học sinh hiểu được vì sao thời Lý phật giáo
được coi là quốc giáo. Giáo viên kể câu chuyện sau:
“ Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp ( Từ Sơn- Bắc Ninh) sinh năm Giáp
Tuất ( 974), là con nuôi của thiền sư Lý Khánh Văn từ năm 3 tuổi và truyền
thuyết vẫn cho rằng ông là con ruột của Vạn Hạnh, anh ruột Khánh Văn.
Cũng theo truyền thuyết bố Lý Công Uẩn nhà nghèo đi làm ruộng ở chùa
Tiên Sơn (An Phong, Bắc Ninh) phải lòng một tiểu nữ rồi làm nàng có thai, bị
nhà sư đuổi đi nơi khác.
Hai vợi chồng đi đến rừng Báng, dừng lại nghỉ. Người chồng khát nước
đến chỗ giếng nước giữa rừng uống chẳng may xảy chân ngã chết đuối. Vợ chờ
lâu không thấy đến xem thì đất đã đùn lấp giếng. Người phụ nữ xin vào ngủ nhờ
ờ Chùa Ứng Tầm gần đấy. Sư trụ trì chùa Ứng Tâm đêm trước nằm mơ thấy
Long thần về báo mọng rằng “Ngày mai dọn chùa cho sạch có Hoàng đế đến”.
Tỉnh dậy nhà sư sai chú Tiểu quét dọn chùa sạch sẽ. Khi đó chỉ có người đàn bà
mang thai đến. Đêm đấy bỗng nhà chúa phát sáng, hương thơm toả ra ngào ngạt,
sư trụ trì dạy xem thì người đàn bà đã sinh được 1 cậu con trai, 2 bàn tay có 4
chữ “Sơn hà xã tắc”. Sau đó trời bỗng nổi trận mưa to, gió lớn, người mẹ saukhi

sinh chú bé thì chết và chú bé được nhà chùa nuôi nấng, khi chú bé được 8, 9
tuổi được theo học sư Vạn Hạnh ở Chùa Tiên Sơn. Chú bé đó là Lý Công Uẩn.
Vốn thông minh bẩm sinh, lại được nhập thân văn hoá ở 1 đất vùng văn
minh, văn hiến, lại được sự dậy dỗ của vị cao tăng xuất chúng, Lý Công Uẩn


thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng Triều Lý làm rạng danh
nước Đại Việt.
Tóm lại trên đây là một số phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử
trong dạy học lịch sử chúng tôi đưa ra nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng cao
hiệu quả bài học, truyền đạt kiến thức mới. Trong quá trình vận dụng đòi hỏi
giáo viên phải có sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể
của từng lớp học, tiết học....
7.2.4. Một số câu chuyện, giai thoại lịch sử sử dụng trong dạy học lịch sử
lớp 10
Trên cơ sở xác định nội dung cơ bản của bài, của chương và nguồn
giai thoại lịch sử, chuyện kể lịch sử thu thập được chúng tôi chọn lọc một số
mẩu chuyện, giai thoại phù hợp với kiến thức cơ bản với nội dung bài dạy đã
xác định.
Bài 3- Lịch sử lớp 10: “Các quốc gia cổ đại phương Đông” giáo
viên kể câu chuyện: người Ai Cập cổ đã xây dựng Kim tự tháp như thế nào?

Kim tự tháp- Ai Cập (nguồn: Google )

Trong số 67 Kim tự tháp còn lại ở Ai Cập thì Kim tự tháp Khê-ốp là
Kim tự tháp lớn nhất ( Mỗi cạnh đáy dài 232m, bốn mặt hình tam giác cân, đỉnh


chóp nhọn cao 146,6m. Thể tích của Kim tự tháp là 2,5 triệu mét khối đá và có
trọng lượng khoảng 6,5 triệu tấn), chúng ta thử xem người Ai Cập cổ đã xây

dựng nó như thế nào? Công việc đầu tiên là phải đến những dãy núi ở giáp Hồng
Hải, thậm chí phải sang cả bên bán đảo A Rập để khai thác đá. Tiếp đó, những
đoàn người khác đến làm đường, sau đó lại có những người đến vận chuyển
những khối đá lớn đó đến sông Nin, rồi đi tiếp đến vùng xây Kim tự tháp. Công
việc đó phải sử dụng đến hàng vạn lao động, chia thành từng tốp, mỗi tốp ba
tháng trong vòng 10 năm trời. Vì chưa có những công cụ và phương tiện hỗ trợ
nên có thể họ đã dùng những phương pháp sau: Xây dựng những con đường dốc
bằng gạch và cát, hoặc những sàn ván bằng xà gỗ ngắn đặt nghiêng, chạy vòng
xung quanh tháp. Sau đó, người ta đặt những tảng đá lên mặt dốc và buộc dây
kéo đi bằng cách cho trượt trên những tấm gỗ lớn. Sau khi xong một tầng, người
ta lại làm đường dốc cao lên cho ngang tầng mới và kéo đá lên tầng trên. Và cứ
như thế cho đến khi lên đỉnh nhọn, cuối cùng người ta dỡ dần đường dốc từ tầng
trên xuống tầng dưới và lớp đá bọc ở bên ngoài. Hai triệu tảng đá, mỗi tảng nặng
hàng tấn đã được kéo lên như thế.
Kim tự tháp không phải là khối đá đặc mà bên trong còn có hành
lang, đường hầm, giếng sâu, phòng chứa quan tài, buồng để đồ đạc…Cửa vào
Kim tự tháp Khê-ốp hướng về phương Bắc, không sát liền mặt đất, mà ở cách
mặt đất 17,42m. Cửa bị bịt kín sau khi đưa quan tài của nhà vua vào lăng mộ,
qua cửa đến một hành lang tối và hẹp, rộng gần 1m, cao khoảng 1,5m. càng đi
vào trong càng nhằng nhịt, đi lên, đi xuống, có đoạn đường dẫn đến một cái
giếng sâu, có đoạn bị tắc bởi bức tường đá.
Bài 4 - Lịch sử lớp 10: “Các quốc gia cổ đại phương tây Hy lạp và Rô
ma” để cho học sinh biết về nhà khoa học vật lý nổi tiếng là Ác - si - mét. Giáo
viên kể đoạn chuyện sau:
“Ác - si - mét (287-212 TCN) quê ở Xi-ra- quy- dơ, một thành bang Hy
Lạp ở đảo Xi rin. Tương truyền rằng vua của thành bang Xi- ra- quy dơ có một
cái vương miện làm bằng vàng, ông nghi ngờ người thợ kim hoàn được giao làm
mũ ăn bớt vàng nhưng không làm cách nào để biết được. Một hôm nhà vua gọi



Ác – si – mét đến và hỏi có thể biết được tỷ lệ vàng ở trong mũ không ?. Lúc đó
Ác - si - mét chưa trả lời được, nhưng sau đó nhờ một lần tắm trong bể nước,
ông đã phát minh được nguyên lý quan trọng về thuỷ lực đó là: tất cả mọi vật thả
xuống nước đều phải chịu một lực đẩy từ dưới lên trên bằng trọng lượng nước
phải chuyển đi, ông đã giải được bài toán của nhà vua. Vui mừng về phát minh
đó, từ trong bồn tắm không mặc quần áo ông chạy ra phố và kêu to: “ ơ rê ca! ơ
rê ca!. Nghĩa là “ Ta đã tìm ra rồi “ trong sự cười trêu của người dân. Sau đó ông
đem vương miện thả xuống bồn nước đầy rồi đong lượng nước tràn ra, nhờ đó
nhà vua biết được số vàng đã bị ăn bớt.
Một lần Ác - si - mét đã nói một câu “hãy cho tôi một điểm tựa chắc
chắn tôi sẽ cất cả quả đất lên”. Nhà vua vô cùng tức giận cho rằng ông là kẻ kiêu
ngạo khoác lác. Nhà vua liền thách Ác - si - mét hãy làm cho con thuyền lớn vừa
mới đóng xong có thể xuống được mặt nước. Nếu không thực hiện được sẽ chịu
tội chết. Ác - si - mét nhận lời, ông đã dùng gỗ đặt các điểm tựa, rồi dùng ròng
rọc cùng đòn bẩy. Sau đó một mình ông đã từ từ nâng đòn băy lên và con thuyền
từ trên bãi cát đã trượt xuống mặt biển trong tiếng hò reo tán thưởng của người
dân. Nhà vua vô cùng khâm phục và kính trọng Ác - si – mét.
Ác - si - mét còn phát minh ra máy ném đá, gương 6 mặt để đốt thuyền
địch khi đất nước có chiến tranh.
Khi đất nước ông bị quân La Mã tàn phá, quân giặc xông vào bắt ông
khi ông đang vẽ một đồ án khoa học. Trước khi bị sát hại ông đã quát quân
giặc:” Chúng mày muốn làm gì thì làm nhưng không được phá đồ án của tao”.
Bọn giặc ngu dốt đã đâm chết ông.


Acsimet ( nguồn : Google)

Ví dụ: Bài 5 – Lịch sử lớp 10: “Trung Quốc thời phong kiến”, phần 1 “Sự
hình thành nhà Tần – Hán”. Để học sinh hiểu vị vua có công thống nhất Trung
Quốc nhưng khét tiếng tàn bạo là Tần Thuỷ Hoàng. Giáo viên kể đoạn truyện về

Tần Thủy Hoàng

Tần Thủy Hoàng và công cuộc thống nhất Trung Quốc ( nguồn : Google)

“ Sau khi tiêu diệt 6 nước thời Chiến quốc và thống nhất Trung Quốc (221
tr. CN), Tần Vương Chính bỏ danh hiệu “Vương” và thay bằng thay danh hiệu


“Hoàng Đế” và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế Trung ương tập quyền.
Tần thuỷ hoàng thi hành đường lối pháp trị “mọi việc đều dùng pháp luật để
quyết định không dùng nhân đức, ân nghĩa” để cai trị nhân dân. Ông ta còn thích
chém giết để ra uy, chẳng hạn hai nhà nho Hầu Sinh và Lư Sinh được Tần Thuỷ
Hoàng giao cho nhiệm vụ đi tìm thuốc trường sinh bất lão, hai người này đã lên
án sự chuyên quyền của y và bỏ trốn. Tần Thuỷ Hoàng sai tra xét tất cả các nhà
nho. Kết quả 460 người bị phát giác phạm điều cấm, bị đưa ra chôn sống ở Hàm
Dương. Có lần một vẫn thạch rơi xuống ở Đông Quận, có người khắc lên hòn đá
mấy chữ “Thuỷ hoàng đế chết thì đất bị chia”, Tần Thuỷ Hoàng cho tra hỏi
nhưng không ai chịu nhận, y đã cho sai bắt tất cả những người ở gần đấy giết đi
và đốt cháy hòn đá.
Sự thống trị tàn bạo của Tần Thuỷ Hoàng đã làm cho cả xã hội căm phẫn.
Do đó mặc dù được bảo vệ nghiêm ngặt nhưng hai lần bị ám sát hụt.
Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn hóa truyền thống Ấn Độ, giáo viên kể câu
chuyện về cuộc đời của Đức Phật Thích ca.
Theo truyền thuyết, Đức phật Thích ca có tới 547 tiền kiếp trước khi đầu
thai làm con vua Suddhodama của Vương tộc Sakya. Mẫu thân của Ngài là
hoàng hậu Maya, một người phụ nữ rất đẹp thông minh và hiền hậu., đã nằm mơ
thấy con voi trắng sáu ngà đi vào mạn sườn bên phải của bà, sau đó hoài thai
sinh ra hoàng tử mất, Hoàng tử Sít đac-ta Gô-ta-ma được giao cho bà dì nuôi
nấng. Hoàng tử được dạy dỗ chu đáo, được học tập mọi kiến thức khoa học.
Hoàng tử tỏ ra có một trí tuệ thiên bẩm phi thường, nhưng đồng thời cũng có

tấm lòng thương cảm sâu xa đối với chúng sinh. Để ngăn hoàng tử không nghĩ
đến việc tu hành, Đức vua đã bố trí cho ngài sống trong cảnh vương giả vô cùng
xa hoa lộng lẫy. Khi Sít-đác-ta 16 tuổi, người đã lấy cô em họ của mình là công
chúa Yasodara cũng vừa tròn 16 tuổi làm vợ.
Mặc dù sống trong cảnh nhung lụa, được mọi người chiều chuộng
nhưng Sít-đác-ta vẫn không ngừng suy tư về cuộc đời trần thế. Trong những lần
ra ngoài thành Ngài đã lần lượt chứng kiến cảnh khổ ải của đời người qua hình
ảnh một người già, một người ốm và một người chết. Khi về cung, Sít-đác-ta


được tin Hoàng phi mới sinh con trai nhưng chẳng những người không thấy vui
mà lại càng băn khoăn lo nghĩ về khiếp luân hồi: sinh, lão, bệnh, tử. Lại một lần
nữa, Hoàng tử nhìn thấy một tu sĩ khất thực, dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung
dung, tự tại. Hoàng tử như bừng tỉnh và quyết tâm xuất gia tìm đạo, mong tìm
con đường cứu vớt con người thoát khỏi những trầm luân đau khổ của khiếp
luân hồi.
Ngay sau hôm đứa con ra đời, vào khoảng nửa đêm, khi mọi người đã ngủ
say, Hoàng tử lặng lẽ nhìn con và vợ lần cuối, rồi đánh thức người đánh xe dậy,
cùng mình cưỡi con ngựa Canthana yêu quý, rời khỏi hoàng cung. Khi đã ra
ngoài thành, Sít-đác-ta trút bỏ bộ y phục hoàng tộc, mặc bộ quần áo của người tu
hành, dùng kiếm cắt mớ tóc dài của mình, rồi giao mớ tóc và bộ quần áo hoàng
tộc cho người đánh xe đem về trao cho Đức vua cha. Con ngựa Canthana vì đau
khổ phải chia tay với ông chủ của nó đã lăn ra chết ngay tại chỗ.
Từ đây, Sít-đác-ta trở thành đạo sĩ Gô-ta-ma, hay vi hiền triết Sakya ( tức
Thích ca Mâu Ni). Lúc đầu, Gô-ta-ma đã đi qua nhiều nơi, tìm gặp nhiều thầy
học đạo. Sau đó, Ngài đã cùng 5 người đạo sĩ khổ hạnh thực hành phép tu ép xác
trong suốt 6 năm trời. Mỗi ngày đạo sĩ Gô-ta-ma chỉ ăn một nhúm cơm, một
chút vừng, thân thể của Ngài ngày càng khô héo, chỉ còn da bọc xương, đầu óc
choáng váng, tóc rụng đầy người, mà vẫn không tìm được chân lý giải thoát.
Ngài quyết định thay đổi đường lối tu hành, trở lại ăn uống bình thường. Năm

người bạn cùng tu hành khổ hạnh cho là Ngài đã xa rời đạo lý, bèn bỏ Ngài ra
đi.
Một hôm đạo sĩ Gô-ta-ma đến ngồi dưới gốc cây bồ đề ở ngoại vi thành
phố Gaia, thuộc vương quốc Magadha. Sau khi nhận bố thí một bát cháo sữa do
một cô gái chăn bò dâng biếu, Ngài xuống sông tắm gội sạch sẽ, trong lòng cảm
thấy khoan khoái. Ngài trở lại ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề và nguyện sẽ
không đứng dậy nếu không tìm thấy đạo. Màn đêm buông xuống, quỷ Marat và
đồng bọn đã hiện ra, dùng trăm phương ngàn kế để bức hại và quyến rũ đạo sĩ,
nhưng đều không làm lay chuyển được Gô-ta-ma. Đạo sĩ tiếp tục ngồi thiền định
suốt đêm, trí óc ngày càng trở nên sáng suốt, đến canh cuối cùng của đêm đó,


Gô-ta-ma đã tìm ra chân lí “ tứ diệu đế”, thấy được nguyên nhân của nỗi khổ
trần thế và phương cách diệt trừ nỗi khổ. Bình minh ló rạng, chim chóc ca vang,
đạo sĩ Gô-ta-ma đã đắc đạo, trở thành Đức Phật Thích Ca, lúc này Ngài 35 tuổi.
Bài 11: Tây Âu thời hậu kì trung đại, giáo viên có thể kể câu chuyện về
chuyến hành trình vòng quanh thế giới của Magienlan.

Hành trình vòng quanh thế giới của Magienlan

Chuyến hải hành trong khoảng thời gian 1519–1522 của Magellan đã đi
vào lịch sử như là chuyến đi đầu tiên bằng đường biển của con người từ Đại Tây
Dương đến Thái Bình Dương (cái tên có nghĩa "biển bình yên" này được đặt bởi
Magellan; đồng thời nơi nối giữa hai Đại dương được mang tên Eo biển
Magellan), và là chuyến đi đầu tiên băng qua Thái Bình Dương. Chuyến đi này
cũng đánh dấu sự kiện con người lần đầu tiên đi vòng quanh Trái Đất thành
công, mặc dù chính bản thân Magellan cũng không hoàn thành chuyến đi của
ông do bị giết trong Trận chiến Mactan ở Philippines. Tuy nhiên, do Magellan
đã từng đi theo hướng đông đến Bán đảo Mã Lai trong một chuyến hải hành
trước đó, nên ông trở thành nhà thám hiểm đầu tiên đi qua tất cả đường kinh

tuyến của quả địa cầu. Trong số 237 thủy thủ khởi hành trên năm con tàu, chỉ
còn lại 18 người hoàn thành chuyến đi và xoay xở để quay trở về Tây Ban Nha
vào năm 1522, dưới sự dẫn dắt của nhà hàng hải xứ Basque Juan Sebastián
Elcano, người đã nhận trách nhiệm chỉ huy thủy thủ đoàn sau cái chết của


Magellan. Mười bảy thủy thủ nữa sau đó cũng về được Tây Ban Nha: mười hai
người bị Bồ Đào Nha bắt ở Cape Verde vài tuần trước đó trong khoảng thời gian
giữa năm 1525 và 1527, năm người sống sót còn lại trở về trên con tàu Trinidad.
Bài 16: Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập, giáo viên
có thể kể chuyện về Hai bà Trưng.
Hai Bà Trưng, Trưng Trắc và Trưng Nhị, hai chị em sinh đôi là con gái
Lạc tướng Mê Linh, đất bản bộ cũ của vua Hùng. Chồng Bà Trưng Trắc là Thi
Sách, con trai lạc tướng Chu Diên. Lãnh thổ Mê Linh và Chu Diên liền cõi, hai
gia đình lạc tướng là thông gia, khiến thanh thế của họ càng thêm mạnh, uy danh
càng thêm lớn.
Chính sách cai trị hà khắc, tàn bạo của nhà Đông Hán càng thôi thúc vợ
chồng Trưng Trắc-Thi Sách hiệp mưu tính kế nổi dậy chống nhà Hán. Theo
truyền thuyết và sử cũ, Thái Thú Tô Định đã giết chết Thi Sách trước khi cuộc
khởi nghĩa nổ ra. Hành vi bạo ngược của Tô Định càng làm cho
Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị thêm quyết tâm tiến hành cuộc
khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ, rửa nợ nước, trả thù nhà, dựng lại cơ
nghiệp xưa cho các Vua Hùng
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng lập tức được sự hưởng ứng của các lạc tướng và
nhân dân quận Giao Chỉ rồi toàn miền Nam Việt và Âu Lạc cũ. Xuất phát từ
Hát Môn, Hai Bà đánh phá đô uý trị của giặc ở Hạ Lôi (Mê Linh) sau đó kéo
quân từ Mê Linh xuống Tây Vu đánh chiếm Cổ Loa, từ Cổ Loa, quân của Hai
Bà vượt sông Hoàng, sông Đuống đánh chiếm Luy Lâu (nay ở Lũng Khê, Thuận
Thành, Bắc Ninh) là châu trị và quận trị của bọn đô hộ nhà Hán
Hoảng sợ trước khí thế ngút trời của nhân dân Âu Lạc, bọn địch không

dám chống cự bỏ chạy tháo thân về nước. Thái thú Tô Định cũng lẻn trốn về
nước. Chỉ trong vòng hai tháng, nghĩa quân Hai Bà Trưng giải phóng toàn bộ đất
nước (65 quận, huyện, thành), giành chủ quyền về tay dân tộc.
Mùa hè năm Canh tý (40) Bà Trưng Trắc được tướng sĩ tôn lên làm vua,
hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở quê nhà là lỵ sở huyện Mê Linh cũ. Bà
Trưng Nhị được phong là Bình khôi Công chúa. Các tướng sĩ khác đều được


phong thưởng chức tước, tiền bạc, ruộng đất. Dân cả nước được xá thuế hai năm
liền.
Mùa hè năm 42 (niên hiệu Kiến Vũ thứ 17), nhà Đông Hán phong Mã
Viện làm phục Ba tướng quân, thống lĩnh quân sĩ sang đánh nước ta do tương
quan lực lượng quá chênh lệch nên sau đó, hai bà Trưng đã phải rút chạy và sau
đó trẫm mình xuống dòng sông Hát để giữ khí tiết
Bài 19: Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giáo viên kể câu chuyện
về tình đoàn kết trong nội bộ quý tộc nhà Trần .
Do hiềm khích năm Đinh Dậu (1237) đến khi trưởng thành thì Quốc Tuấn
và Quang Khải cũng không ưa nhau, nhiều việc trở nên nghi kị nhau. Như có
lần, Quang Khải phải đi cùng Thánh Tông khỏi kinh sư, gặp sứ thần phương Bắc
tới, không có ai chủ trì, Thái Tông định hỏi Quốc Tuấn thay vào, thì Quốc Tuấn
trả lời dè chừng, không muốn đả động đến Quang Khải.
Thế nhưng vào một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống
thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại gặp Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc
Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải: “Mình mẩy cáo bẩn, xin
tắm giùm”. Nói rồi, ông cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và
nói: “Hôm nay được tắm cho Thượng tướng”.
Quang Khải cũng đùa vui, nói: “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho”.
Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng
văn, tướng võ, giúp rập Hoàng đế, hai ông đứng hàng đầu, một người là Thượng
tướng Thái sư, một người là Quốc công Tiết chế, đều ảnh hưởng lẫn nhau.

Từ đó, mối hiềm khích giữa hai người lãnh đạo được xóa bỏ, quý tộc nhà Trần
đoàn kết cùng nhau chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên đến
thắng lợi cuối cùng.
Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc thế kỉ X- XV, giáo viên có
thể kể câu chuyện về chùa Một Cột.


Chùa Một Cột (nguồn: Google)

Chùa Một Cột còn được gọi với những cái tên khác là chùa Mật, chùa
Diên Hựu hay Liên Hoa Đài.
Theo sử xưa, chùa được vua Lý Thái Tông cho xây dựng vào mùa đông
năm 1049. Tích xưa còn lưu lại câu chuyện vua Lý Thái Tông nằm chiêm bao
thấy Phật Quan Âm tọa thiền trên tòa hoa sen sáng rực, đưa tay dắt vua lên đài.
Tỉnh mộng vua đã cho dựng chùa Một Cột với lối kiến trúc tựa như trong giấc
mơ. Từ đó người ta thấy một ngôi chùa với kết cấu một cột độc đáo, dáng tựa
đài sen vươn lên giữa mặt hồ Linh Chiểu ở kinh thành Thăng Long.
Sau khi dựng chùa, vua Lý Anh Tông thường lui tới cầu nguyện. Không
lâu sau Hoàng hậu hạ sinh một Hoàng tử khôi ngô. Cho rằng công đức Phật ban
cho, vua Lý cho tu sửa lại chùa và dựng thêm một ngôi chùa bên cạnh chùa Một
Cột để tạ ơn. Lúc này quần thể chùa (bao gồm chùa Một Cột và ngôi chùa mới)
có tên là Diên Hựu với ý nghĩa “phước bền dài lâu”.
Không nằm ngoài quy luật của thời gian, trải qua nhiều triều đại, nhiều
biến cố lịch sử chùa có nhiều sự thay đổi. Từ thời Lý, Trần, Lê và sau này là nhà
Nguyễn chùa được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Bởi vậy mà những đặc trưng
văn hóa - kiến trúc trong từng thời kì cũng có sự đổi thay.
Đặc biệt vào năm 1954, thực dân Pháp đã phá hủy chùa Một Cột. Toàn bộ
kiến trúc cũ chùa đều bị mất đi, duy chỉ còn cột trụ dưới lòng hồ Linh Chiểu và



mấy xà gỗ. Ngay sau đó chùa đã được Chính phủ tu sửa lại. Cho đến nay, dù trải
qua thêm vài lần tu bổ nhưng chùa vẫn mang những nét điển hình của kiến trúc
cũ. Nhắc đến những công trình có kiến trúc ấn tượng khó có công trình nào vượt
qua được chùa Một Cột. Tổ chức Kỉ lục Châu Á đã xác nhận chùa Một Cột
là “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất châu Á” năm 2012. Kỉ lục Guiness Việt
Nam cũng ghi nhận chùa Một Cột là “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt
Nam”.
Chùa Một Cột là một công trình kiến trúc xuất sắc thể hiện tính dân tộc
đậm nét. Không gian chùa là bản giao hưởng của tính sáng tạo trong kiến trúc
kết hợp nghệ thuật điêu khắc đá, hội họa, chạm khắc gỗ… Tất cả đều rất dân tộc,
rất Việt Nam!
Bài 23: Phong trào Tây Sơn và sự thống nhất đất nước bảo vệ tổ quốc
cuối thế kỉ XVIII, giáo viên có thể kể câu chuyện về người anh hùng áo vải
Quang Trung.

Quang Trung- Nguyễn Huệ ( Nguồn: Google)

Quang Trung Hoàng đế (1753 – 1792) hay Bắc Bình Vương hoặc Tây Sơn
Thái Tổ, tên thật là Nguyễn Huệ, sau đổi tên là Nguyễn Quang Bình, là vị hoàng


đế thứ hai của Nhà Tây Sơn, sau khi Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thoái vị
và nhường ngôi cho ông. Quang Trung không những là một trong những
vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc mà còn là nhà cai trị tài giỏi, ông đã đưa ra nhiều
chính sách cải cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Tây
Sơn tam kiệt, là những lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội
chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc
và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng Nhà Hậu Lê, chấm dứt tình
trạng phân biệt Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra,

Quang Trung còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ
phía nam, của Đại Thanh từ phía bắc. Bản thân ông đã cầm quân chiến đấu từ
năm 18 tuổi, trong 20 năm liền đã trải qua hàng chục trận đánh lớn, và chưa hề
thua một trận nào.
Nguyễn Huệ được coi là vị anh hùng dân tộc của Việt Nam, nhiều trường
học và đường phố ở các địa phương được đặt tên Quang Trung. Các chính sách
của ông thể hiện tầm nhìn chiến lược của một nhà lãnh đạo tài giỏi.
Bài 26 – Lịch sử lớp 10: “Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỷ XIX và cuộc
đấu tranh của nhân dân”, ở mục II “Phong trào đấu tranh của nhân dân và
binh lính có cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát”. Để học sinh hiểu thêm về tài
năng và đức độ, sự kiên trì của Cao Bá Quát giáo viên kể về câu chuyện “Cao
Bá Quát quê ở Phú Thị - Gia Lâm – Hà Nội (1808 – 1855) là người văn hay chữ
tốt nhưng do chữ xấu nên đi thi hội không đậu. Ông đã quyết tâm học viết chữ
bằng cách cứ tối đến ông dùng dây buộc vào xà mái nhà rồi nối vào bó tóc của
mình. Khi luyện viết những lúc ông ngủ gật thì bó tóc lại giật ngược lên khiến
ông tỉnh dạy và tiếp tục luyện viết. Nhờ lòng quyết tâm và kiên trì ông đã thành
công. Chữ của ông đẹp nổi tiếng và được ca ngợi như chữ của Thánh.
Bài 30 Cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc
Mĩ giáo viên kể chuyện về Washington.


George Washington ( Nguồn: Google)

George Washington ( 22 tháng 2 năm 1732 – 14 tháng 12 năm 1799) là
nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa
Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương
quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục
quân Lục địa năm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp
Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa ông làm tổng thống đầu tiên của
Hoa Kỳ (1789–1797). Phong cách lãnh đạo của ông đã có ảnh hưởng đến thể

thức và lễ nghi cho chính quyền mà được sử dụng từ đó cho đến nay, thí dụ như
dùng một hệ thống nội các và buổi đọc diễn văn nhậm chức. Với tư cách là tổng
thống, ông đã xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ và giàu tài chính mà
đã tránh khỏi chiến tranh, dập tắt nổi loạn và chiếm được sự đồng thuận của tất
cả người Mỹ. Ông hiện nay được biết như vị cha già của nước Mỹ.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không.
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
- Đối với giáo viên:
+. Giáo viên trước hết phải nắm vững nội dung bài dạy lịch sử từ đó nắm vững
các câu chuyện, giai thoại lịch sử làm cơ sở cho việc lựa chọn câu chuyên phù
hợp.
+. Giáo viên phải sử dụng phương pháp kể chuyện như thế nào và mức độ ra sao
để vừa thu hút học sinh vừa phát huy tính tích cực của các em.


×