Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Thực trạng của các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.53 KB, 45 trang )

Thực trạng của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại việt nam
I. Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN tại Việt nam
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ khá lâu,
trải qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trờng khác nhau mà
nhìn chung là chịu sự ảnh hởng của hai nhóm nhân tố chính là cuộc trờng kỳ kháng
chiến kéo dài gần một thế kỷ và những quan điểm chính trị thời kỳ hậu chiến tranh.
Giai đoạn trớc năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống trị của
thực dân Pháp thì cũng đã tồn tại một số lợng đáng kể các doanh nghiệp mà lúc đó là
các cơ sở, các xởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp, các
nghề thủ công truyền thống. Các mặt hàng giai đoạn nay phần lớn vẫn ở dạng nguyên
sơ nhng cũng đáp ứng đợc nhu cầu củ nhân dân trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thời
kỳ đô hộ, thậm chí nhiều hàng còn đợc gửi đi triển lãm ở một số nớc phơng Tây thời
bấy giờ.
Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả nớc bớc
vào giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn tại cả ở vùng ta và
vùng địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã đóng góp vai trò đáng kể,
vừa phục vụ nhu cầu thời chiến của nhân dân, vừa đáp ứng nhu cầu hậu cần cho
kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây dựng lại đất
nớc trên con đờng xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất nhanh và nhiều trong
giai đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đờng lối chính trị hình thức hợp tác xã, tổ
hợp tác kinh doanh đợc khuyến khích phát triển, còn các DNVVN dới hình thức sở
hữu t nhân thì bị loại trừ, trong khi đó loại hình DNVVN t nhân ở miền Nam lúc đó
lại rất phát triển.
Sau khi thống nhất đất nớc năm 1975 và đến trớc đại hội VIII. Điểm đáng lu ý
trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế t nhân là hình thức bị kỳ
thị và các DNVVN dới hình thức sở hữu t nhân buộc phải quốc hữu hoá, DNVVN
của t nhân bị cải tạo, xoá bỏ, không khuyến khích phát triển. Nếu muốn tồn tại thì
phải tồn tại dới dạng khác nh dới hình thức hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công
t hợp danh.


Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một bớc ngoặt,
Đại hội VI đã đa ra chủ trơng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa
nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác nhau, thay đổi quan điểm với
kinh tế t nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi trọng. Chủ trơng này đã tạo điều kiện thuận
lợi cho hàng loạt cơ sở sản xuất t nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công
nghiệp, dịch vụ, thơng mại ra đời và phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nớc đã ban hành nhiều văn bản pháp
quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp t nhân,
hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nớc. Đáng chú ý là Nghị quyết 16 của Bộ chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định 27, 28, 29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá
thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình; Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dới vốn
pháp định, Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/98 về định hớng chiến lợc và chính
sách phát triển DNVVN và một loạt các Luật nh: Luật công ty, Luật doanh nghiệp t
nhân mà nay hai Luật này đã đợc gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999), Luật hợp
tác xã, Luật doanh nghiệp Nhà nớc, Luật khuyến khích đầu t trong nớc(1994), Luật
đầu t nớc ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi trờng thuận lợi cho các doanh nghiệp
phát triển.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa ph-
ơng nghiên cứu về DNVVN nh: Bộ kế hoạch và đầu t (MPI), Viện nghiên cứu quản
lý kinh tế trung ơng(CIEM), Phòng thơng mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), Hội
đồng liên minh các hợp tác xã Việt Nam(VCA), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; nhiều cuộc hội thảo trong nớc và quốc tế bàn
về chính sách hỗ trợ DNVVN đã đợc tổ chức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế,
các dự án hỗ trợ về tài chính và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện Friedrich
Ebert (FES) của CHLB Đức, Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật bản (JBIC), Tổ
chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Dự án hỗ trợ của phòng hợp tác quốc tế Nhật bản
(JICA), Chơng trình phát triển dự án Mekong về DNVVN (MPDF). Bên cạnh đó,
Cũng có rất nhiều trung tâm ra đời với mục đích hỗ trợ các DNVVN, đó là Trung tâm
xúc tiến DNVVN thuộc Phòng Thơng mại và Công nghiệp Việt nam (SME
PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu

chuẩn-Đo lờng-Chất lợng (SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt, Trung tâm dịch vụ và
hỗ trợ DNVVN (BPSC) ở số 7 Nguyễn Thái Học, Câu lạc bộ DNVVN Hà
nội( HASMEC) ở số 418 Bạch Mai
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp không ít
những khó khăn, vớng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế của
đất nớc, chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 về chính sách
trợ giúp, phát triển DNVVN trong đó quy định rõ khái niệm, tiêu chí xác định
DNVVN ở Việt Nam, khẳng định tầm quan trọng của DNVVN trong chiến lợc phát
triển kinh tế xã hội của đất nớc và các biện pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN
phát triển. Chính phủ còn giao cho MPI đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các
ngành và địa phơng tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo Chiến lợc và chính sách
phát triển DNVVN, đề xuất giải pháp thực hiện để chính phủ xem xét và phê duyệt .
Nghị định cũng quy định việc thành lập Cục Phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu t, để giúp Bộ trởng Bộ Kế hoạch - Đầu t thực
hiện chức năng quản lý Nhà nớc về xúc tiến phát triển DNVVN; thành lập Hội
đồng khuyến khích phát triển DNVVN làm nhiệm vụ t vấn cho Thủ tớng Chính phủ
về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển DNVVN; thành lập Trung tâm hỗ trợ
kỹ thuật DNVVN thuộc các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp, nhằm thực hiện các chơng trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu
quả; khuyến khích, tạo điều kiện để các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh nghiệp
đã có và thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển khai các hoạt
động kể cả thu hút các nguồn lực từ nớc ngoài để trợ giúp một cách thiết thực, trực
tiếp cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị mở rộng thị trờng, đào tạo, công
nghệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNVVN.
Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lợng doanh nghiệp của các thành
phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lợng DNVVN trong khu vực Nhà
nớc giảm liên tục, thì số lợng DNVVN trong khu vực t nhân trong công nghiệp
(doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lợng lao động trên tổng số, đóng góp cho
GDP và tỷ trọng trong tổng đầu t xã hội cũng tăng nhanh (Xem bảng 5). Quan niệm
về kinh tế t nhân cũng có nhiều đổi mới, không còn cái nhìn kỳ thị nh trong giai đoạn

bao cấp, với t tởng giáo điều và tả khuynh, coi kinh tế t nhân là một loại hình kinh tế
tiêu cực, là tàn d của chế độ cũ, là bóc lột, ăn bám, Đến nay, kinh tế t nhân thực sự
đã đợc coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt nam .
Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế t nhân và hộ
cá thể, đã trải qua 2 bớc ngoặt tính từ giai đoạn đổi mới. Bớc ngoặt thứ nhất có thể
xem nh cởi trói cho doanh nghiệp là vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 khi nhà
nớc ban hành Luật Đầu t nớc ngoài(1989), Luật khuyến khích đầu t trong nớc(1994),
Luật doanh nghiệp t nhân, Luật công ty(1990), tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của
nhiều loại hình doanh nghiệp. Theo VCCI thì trong giai đoạn 1991-1999, mỗi năm
nền kinh tế Việt nam tăng thêm 3.388 doanh nghiệp.
Có thể xem xét tình hình tổng hợp của khu vực kinh tế t nhân (đại diện cho
các DNVVN) qua một số các chỉ tiêu chính nh số lợng các doanh nghiệp t nhân, số l-
ợng và tỷ lệ lao động so với xã hội, mức đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội
(GPP), đầu t phát triển mức độ đóng góp vào đầu t phát triển cả nớc trong vài năm
gần đây theo bảng dới đây. Trong khi mà cha có một nguồn nào cung cấp số liệu
thống kê chính thức riêng cho khu vực DNVVN thì các số liệu thống kê về khu vực
kinh tế t nhân có thể xem nh đại diện cho các DNVVN, vì nh nói từ phần đặc điểm
các DNVVN tại Việt nam, khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến
các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
B¶ng : Sè liÖu kinh tÕ vÒ khu vùc kinh tÕ t nh©n
(®¹i diÖn cho c¸c DNVVN).
Sè liÖu vÒ khu vùc kinh tÕ t nh©n
Ðvt
1996 1997 1998 1999 2000
1. Số lượng đơn vị
1.1.Doanh nghiệp của tư nhân DN
20.272 21.032 20.578 22.767 29.519
- Công nghiệp DN
5.832 6.073 5.927 6.049 6.979
- Thương nghiệp dịch vụ DN

12.695 13.010 12.494 14.234 17.506
- Các ngành khác DN
1.745 1.949 2.157 2.484 5.034
1.2. Hộ cá thể hộ
2.016.259
1.949.836
1.981.306 2.054.178 2.137.713
- Công nghiệp hộ
616.855 608.250 583.352 608.314 645.801
- Thương nghiệp dịch vụ hộ
1.102.619 1.022.385 1.058.542 1.088.606 1.109.293
- Các ngành khác hộ
296.785 319.201 339.412 357.258 382.619
2. Lao động
- Tổng số người
3.865.163 3.666.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844
- Tỷ lệ so với tổng lao động xã hội %
11,2 10,3 10,3 10,9 12
2.1.Doanh nghiệp của tư nhân DN
354.328 395.705 435.907 539.533 841.787
- Công nghiệp DN
233.078 252.657 273.819 322.496 498.847
- Thương nghiệp dịch vụ DN
60.936 63.050 62.470 96.720 151.433
- Các ngành khác DN
60.314 79.998 99.618 120.317 191.507
2.2 Hộ cá thể DN
3.510.835 3.271.120 3.381.035 3.557.922 3.802.057
- Công nghiệp DN
1.524.708 1.403.205 1.350.152 1.464.013 1.622.381

- Thương nghiệp dịch vụ DN
1.531.638 1.388.701 1.455.351 1.501.636 1.584.391
- Các ngành khác DN
454.489 479.214 575.532 592.273 595.285
3. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP)
- Tổng số toàn quốc tỉ đồng
272.036 313.623 361.017 399.943 444.140
Trong ú doanh nghip ca t nhõn
v cỏ th
t ng 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337
T l trong tng GDP ton quc %
28,48 27,89 27,32 26,51 26,87
3.1 Doanh nghip t ng
19.602 21.920 25.304 27.975 31.733
- Cụng nghip t ng
4.609 5.278 6.367 7.179 8.626
- Thng nghip dch v t ng
7.565 8.564 10.238 11.203 12.397
- Cỏc ngnh khỏc t ng
7.428 8.078 8.699 9.593 10.710
- T l trong tng GDP %
7,21 6,44 7,01 6,99 7,14
3.2 Cỏ th t ng
57.879 65.555 73.321 78.054 87.604
- Cụng nghip t ng 9.261 10.658 11.804 12.662 15.491
- Thng nghip dch v t ng 17.381 19.728 22.878 24.865 27.393
- Cỏc ngnh khỏc t ng 31.237 35.169 38.639 40.527 44.720
- T l trong tng GDP
%

21,28 20,90 20,31 19,52 19,72
4. Vn u t phỏt trin
- Tng s ton xó hi t ng 131.171 147.633
Trong ú: Doanh nghip ca t
nhõn v cỏ th
t ng 31.542 35.894
T l trng tng s ton xó hi
%
24,05 24,31
4.1 Doanh nghip ca t nhõn t ng 5.628 6.627
% Trong tng s ton xó hi
%
4.29 4.49
4.2. Cỏ th t ng 25.914 29.267
T l trong tng s ton xó hi % 19,76 19,82
Ngun: Tng cc Thng kờ
Bớc ngoặt thứ hai bắt đầu kể từ khi Luật doanh nghiệp đợc ban hành
vào1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực có 14.417
doanh nghiệp mới đợc thành lập với tổng vốn đăng ký đến hơn 24.000 tỷ (tơng đơng
với 1,65 tỷ USD, trong đó 17.000 là vốn đăng ký mới và 7000 là vốn đăng ký bổ
sung của các doanh nghiệp đang hoạt động, tức là tăng hơn ba lần nếu xét về số lợng
doanh nghiệp và hộ kinh doanh, và tăng hơn năm lần nếu xét về số vốn so với năm
1999. Năm 2001, có thêm hơn 21.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật
doanh nghiệp, tăng 1,46 lần so với năm 2000, tổng số vốn huy động đợc của các
doanh nghiệp đạt khoảng 35.000, tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm 2000. Có thể
thấy tình hình năm 2001 nh sau:
Bảng : Tổng hợp số doanh nghiệp khu vực kinh tế t nhân dến
năm 2001
Loại DN
31/12/9

8
31/12/9
9
Đên 31/12/2000 Đến 30/9/2001
Tổng
số
đăng

Đang
hoạt
động
Báo
nghỉ
KD
Tổng
số
đăng

Đang
hoạt
động
Báo
nghỉ
KD
Cty TNHH
9.375 13.850 21.031 20.255 776 29.160 28.356 804
Cty cổ phần
582 933 1.718 1.668 50 2.986 2.928 58
DNTN
18.751 22.794 28.719 27.277 1.442 33.925 32.459 1.466

Tổng số
28.708 37.577 51.468 49.200 2.268 66.071 63.743 2.328
Nguồn: Bộ Tài chính
Về cơ cấu của các DNVVN hiện nay, xuất phát từ điều kiện lịch sử kinh tế xã
hội, DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế, trong đó phần lớn tập
trung trong ba lĩnh vực chính: các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp, các DNVVN
trong thơng mại dịch vụ và các DNVVN hoạt động ở khu vực nông thôn. Sau đây sẽ
nghiên cứu cụ thể các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực kể trên.
1. DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp
Từ sau năm 1986, do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh
trong lĩnh vực công nghiệp ra đời, các DNVVN lúc này tồn tại dới nhiều hình thức
khác nhau nh công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp t nhân, kinh tế hộ gia
đình, kinh tế quốc doanh. Số lợng DNVVN cũng tăng dần.
Về cơ cấu phân bố theo vùng: Các DNVVN chủ yếu tập trung ỏ Miền Nam
Việt nam (81%), Số DNVVN tập trung ở miền Bắc chỉ chiếm 12,6% tổng số các
DNVVN trong công nghiệp.
Về ngành nghề kinh doanh: Các DNVVN trong công nghiệp tồn tại ở 4
nhóm ngành chính sau là
+ Nhóm ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống: ngành này trong thời gian
qua đã có những thay đổi mạnh mẽ, các giá trị công nghiệp và văn hóa đã hình thành,
những mặt hàng của ngành này đã trở thành một trong các mặt hàng có thế mạnh của
Việt nam. Tuy nhiên do góc độ truyền thống và văn hóa, sự hội nhập của nhóm
ngành này hạn chế bởi tính chất manh mún, quy mô nhỏ, khác biệt văn hóa, cho nên
thị trờng xuất khẩu rất khó khăn đòi hỏi phải tìm đợc những phân đoạn thị trờng
ngách.
+ Nhóm ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô: nh khoáng sản, hải sản,
lâm sản. Trong những năm qua, sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung,
DNVVN nói riêng vẫn dựa rất lớn vào nhóm ngành này-đây là thực trạng cần đợc
đánh giá và điều chỉnh để hình thành chiến lợc cơ cấu ngành bảo đảm hiệu quả cao
của quá trình hội nhập. Việc tham gia hội nhập bằng tài nguyên khai thác một mặt

đạt hiệu quả kinh tế - xã hội thấp, mặt khác còn làm cho nguồn tài nguyên, nhất là tài
nguyên không tái tạo bị suy kiệt, ảnh hởng nghiêm trọng cân bằng sinh thái.
+ Nhóm ngành chế biến, lắp ráp: mặc dù mang lại ý nghĩa xã hội trong việc
tạo ra nhiều chỗ làm việc song giá trị thụ hởng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở giá trị gia
công (phải mua nhiều yếu tố đầu vào từ bên ngoài). Từ đó, tác dụng tích lũy, thúc
đẩy nền kinh tế hạn chế. Đặc biệt sẽ chịu nhiều rủi ro của các biến động tiền tệ của
khu vực và quốc tế.
+ Nhóm ngành chế tạo sản phẩm kỹ thuật cao: (máy móc, điện tử, hóa chất,
thiết bị đo lờng, động cơ...) có thể coi là mới bắt đầu. Hiện tại nhóm ngành này còn
phụ thuộc nhiều vào đầu t tài chính, công nghệ kỹ thuật và trình độ quản lý của nớc
ngoài. DNVVN thuộc lĩnh vực công nghiệp Việt Nam còn thể hiện sự đuối sức ở
nhóm ngành này, bởi không chỉ lý do tài chính mà còn vì sự tụt hậu của năng lực
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Đây chính là nhóm ngành mà trong
chiến lợc lâu dài của quá trình hội nhập cần đợc đặc biệt quan tâm. Chúng cần đợc
phân công và hợp tác một cách khoa học và hiệu quả để tham gia nhiều nhất nguồn
lực vào quá trình cạnh tranh khu vực và quốc tế
Về lao động: Có quy mô khá nhỏ, phần lớn các DNVVN có số công nhân<
100 ngời( chiếm hơn 90%). Theo con số của tổng cục thống kê thì trong lĩnh vực sản
xuất cơ bản các DNVVN chiếm 36% tổng số lao động. Trong lĩnh vực xây dựng là
51%.
Về công nghệ: cũng không khác so với tình hình chung của các doanh nghiệp
Việt nam, nói chung là lạc hậu, lỗi thời, tỷ lệ đổi mới công nghệ thấp.
Trình độ công nghệ lạc hậu, yếu kém thể hiện ở năng lực vận hành, tiếp thu công
nghệ, đổi mới công nghệ thấp. Khả năng nghiên cứu triển khai tạo sản phẩm mới
cũng không tốt.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Toàn bộ các DNVVN ( cả Nhà nớc cũng
nh ngoài quốc doanh và kể các các doanh nghiệp có vốn đầu t nớ ngoài) tạo ra
khoảng 31% giá trị tổng sản lợng công nghiệp hàng năm. Trong đó, bộ phận bộ phận
DNVVN ngoài quốc doanh tạo ra 25% giá trị sản lợng công nghiệp.
Bảng : Giá trị tổng sản lợng công nghiệp năm 1998

Doanh nghiệp trong công
nghiệp
Tổng số
(Tỷ đồng)
Ước tính phần của DNVVN trong từng loại
doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nớc trong
công nghiệp
69.588,4 20% 12.917,7
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 33.148,2 60% 19.888,9
Doanh nghiệp có vốn nớc ngoài 47.948,0 5% 2.397,4
Tổng 150.684,6 31% 46.712,04
Nguồn: Giải pháp phát triển các DNVVN tại Việt nam-GS-TS Nguyễn Đình
Hơng chủ biên-NXB chính trị quốc gia.
Trong 8 tháng đầu năm nay(năm 2002), tốc độ tăng trởng sản xuất công
nghiệp của khu vực ngoài quốc doanh đạt 19,2% so cùng kỳ năm trớc (tốc độ tăng tr-
ởng công nghiệp chung đạt 14,5%) so với mức chung14%, khu vực nhà nớc là
11,7%, khu vực nớc ngoài tăng 13,1%. Có thể thấy tình hình đóng góp của các
DNVVN qua tình hình đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 8 tháng
đầu năm 2002 nh sau:
Bảng : Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào mức tăng sản lợng
công nghiệp 8 tháng đầu năm 2002
Thc hin (T ng) Thỏng
8/2002 so
vi thỏng
8/2001
8 thỏng u
nm 2002 so
vi cựng k
2001 (%)

7 thỏng u
nm 2002
c tớnh
thỏng 8/2002
Cng dn 8
thỏng u
nm 2002
Tng s 149219
23636 172855 114.2 114.0
Phõn theo khu vc v thnh phn kinh t
Khu vc doanh nghip Nh
nc
59798 9379 69177 111.1 111.7
Trung ng
a Phng
39634
20164
6212
3617
45846
23331
111.7
109.7
112.6
110.2
Khu vc ngoi quc doanh 35846
5792 41638 119.6 119.2
Khu vc cú vn u t
nc ngoi
53575 8465 62040 114.2 113.1

Du m v khớ t 15402
2100 17502 87.7 96.1
Cỏc ngnh khỏc 38173
6365 44538 126.8 121.6
Nguồn
Về thị trờng: Một thị trờng nội địa đông dân với sức tiêu thụ lớn là cơ hội rất
tốt cho các DNVVN ở Việt nam. Tuy vậy, với tình hình nhập lậu tràn lan nh hiện nay
thì cơ hội cạnh tranh là rất khó cho các DNVVN nói chung và các DNVVN trong
công nghiệp nói riêng. Cạnh tranh xét cả theo nghĩa cạnh tranh đối với hàng nhập lậu
với giá rẻ, và cạnh tranh với cả doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.Thêm vào đó là
khả năng tiếp cận thị trờng cha cao, chất lợng sản phẩm hạn chế .
Chính phủ cũng không ngừng có những bớc tiến tích cực trong việc tiếp thu
những kinh nghiệm quý báu từ bên ngoài nói chung và từ các quốc gia đang phát
triển nói riêng. Hoạt động hợp tác cùng phát triển, chia sẻ kinh nghiệm giữa Việt
nam và các nớc không ngừng đợc tăng cờng và củng cố. Việt nam hiện đã có nhiều
quan hệ với các nớc về phát triển lĩnh vực DNVVN, đáng kể trong số đó là Italia,
Đức, NhậtNgày 22/5/2000, tại Hà nội đã diễn ra Hội thảo DNVVN trong lĩnh
vực công nghiệp - kinh nghiệm của Italia và Việt nam do Bộ Công nghiệp, Văn
phòng đại diện của UNIDO và Đại sứ quán Italia tổ chức, qua đó phía Italia cũng
chia sẽ với Việt nam những kinh nghiệm quý báu của mình trong việc phát triển
DNVVN. Ngày 6/12/2000 cũng tại Hà Nội, Phòng thơng mại và công nghiệp Việt
Nam phối hợp với Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (ZDH) của Cộng hòa Liên bang Đức
tổ chức hội thảo" Hợp tác giữa Chính phủ và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển
DNVVN"
Bên cạnh đó có dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN trong lĩnh vực công
nghiệp sản xuất đá ốp lát đã triển khai ngày 4/12/2000 do Trung tâm xúc tiến hợp tác
quốc tế (ICPC), Liên minh các hợp tác xã Việt nam, Liên minh Châu Âu và Liên
đoàn thủ công nghiệp và dịch vụ Italia (Confartigianato) cùng phối hợp thực hiện. Dự
án có nguồn vốn 140.000 EURO trong đó phía EU tài trợ 80%, mục tiêu của dự án
này là nhằm tạo ra một liên hiệp xuất khẩu cho các DNVVN trong lĩnh vực đá ốp lát

của Việt nam.Qua dự án này, các DNVVN sẽ nắm bắt đợc những thông tin cần thiết
về hoạt động xuất nhập khẩu, kỹ năng sản xuất và cung cách làm ăn của các nớc EU,
mở ra hớng mới cho xuất khẩu của Việt nam sang EU.
2. DNVVN trong lĩnh vực thơng mại dịch vụ.
Ngành thơng mại dịch vụ, với những lợi thế riêng của nó nh vốn đầu t ít, khả
năng thu hồi vốn nhanh, mức lợi nhuận hấp dẫn, thị trờng đa dạng...đã và đang thu
hút đợc một số lợng không nhỏ các DNVVN.
Về vốn: Với đặc trng là thị trờng cung ứng vốn chủ yếu là thị trờng tài chính
phi chính thức, các chủ doanh nghiệp sử dụng vốn tự có, hoặc vay mợn của ban bè,
ngời thân...nên các DNVVN gặp khó khăn rất nhiều trong vấn đề vốn. Các DNVVN
trong dịch vụ cũng nằm trong tình trạng chung của các DNVVN là khó có khả năng
tiếp cận đến nguồn vốn của ngân hàng.
Về lao động: Nếu nh một trong những đặc điểm nổi bật của các DNVVN nói
chung là thu hút nhiều lao động thì các DNVVN trong lĩnh vực thơng mại dịch vụ lại
không hoàn toàn nh vậy. Xuất phát từ tính đặc thù của ngành thơng mại dịch vụ là
ngành ít đòi hỏi lao động. Các DNVVN cha thực sự góp phần quan trọng vào việc
giải quyết lực lợng lao động d thừa nhiều ở nớc ta hiện nay.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của các DNVVN trong lĩnh vực thơng mại dịch vụ tuy cha phải là cao nhng lại
cao hơn hiệu quả hoạt động của các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp. Theo thống
kê của Tổng cục thống kê năm 1998 thì trong khi bình quân một lao động trong các
DNVVN công nghiệp tạo ra doanh thu 14,6 triệu VND với mức lãi 0,4 triệu VND thì
con số này tại các DNVVN thơng mại dịch vụ là 75,8 triệu và 1,3 triệu tiền lãi, tức là
bằng 407% và 125% so với cách DNVVN công nghiệp. Hạn chế ỏ đây là mặc dù
doanh thu rất cao nhng lãi thì không hơn bao nhiêu so với các DNVVN công nghiệp.
Về cơ cấu: Các DNVVN thơng mại dịch vụ tập trung quá đông ở các thành
phố, đô thị và kinh doanh một số ngành nh nhau. Một số các công ty đi sâu chuyên
doanh mặt hàng ngành hàng nhng vẫn còn trùng lặp. Một số các công ty thực hiện
chuyên doanh ổn định, còn tuyệt đại đa số thì kinh doanh tổng hợp.
Về kinh doanh:Thiếu sự hợp tác kinh doanh giữa các DNVVN, quản lí chồng

chéo không có sự đồng nhất theo đầu mối ngành nghề nên hiệu quả kinh doanh thấp.
Hoạt động của các DNVVN không mang tính bổ sung, hợp tác mà mang tính cạnh
tranh gay gắt do sự tập trung quá đông các DNVVN tại cùng một địa điểm, cùng một
lĩnh vực kinh doanh.
3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn.
Với đặc trng là một nền kinh tế nông nghiệp đi lên thì hiển nhiên là trong
chiến lợc phát triển DNVVN để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc thì vai trò của
các DNVVN ở khu vực nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng. Bộ mặt của các
DNVVN đã thay đổi phần nào qua dự án VIE/816 do UNDP tài trợ trong vòng 4 năm
từ 11/1997 đến 2001.Hiện nay, các ngành nghề nông thôn thu hút hơn 5 triệu lao
động nông nhàn và 11 triệu lao động phi nông nghiệp. Năm 2000, đã tạo ra hơn 4000
tỷ đồng giá trị sản lợng, 90% tiêu thụ nội địa và 10% xuất khẩu.
Các DNVVN ở khu vực nông thôn với đại diện phổ biến là các doanh nghiệp
hộ gia đình và các doanh nghiệp t nhân
Về vốn: Vốn bình quân rất thấp cả về tơng đối và tuyệt đối so với các
DNVVN nói chung.Theo báo cáo của Viện bảo hộ lao động và các vấn đề xã hội -
NXB Khoa học và Kỹ thuật , Hà nội , 1998 thì :Với doanh nghiệp hộ gia đình vốn
bình quân là 921 USD, với doanh nghiệp t nhân thì là 2.153 USD, vốn thấp không chỉ
hiểu là nh cầu về vốn ở các DNVVN khu vực nông thôn thấp mà còn hiểu ở sự thiếu
hỗ trợ tín dụng.
Về thị trờng và tiêu thụ sản phẩm: Thị trờng chủ yếu đợc phân làm hai loại là
thị trờng địa phơng và thị trờng ở các thành phố lớn.
Một điểm sáng trong quá trình phát triển các DNVVN ở nông thôn, nhằm bắt
tay vào tìm tiếng nói chung cho các DNVVN khu vực này, ngày 16/8/2002 tại Hà
nội, Đại hội thành lập Hiệp hội các DNVVN khu vực nông thôn Việt nam do
VCCI tổ chức đã khai mạc với sự tham gia của hơn 100 DNVVN khu vực nông thôn.
Hiệp hội các DNVVN khu vực nông thôn ra đời nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh, phát triển ngành nghề nông thôn, hỗ trợ bảo vệ lẫn nhau, đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh, nghiên cứu khoa học, thông tin kinh tế, thị trờng, xúc tiến thơng mại,
đầu t, thúc đẩy quan hệ hợp tác thơng mại trong nớc và quốc tế, giữ gìn và phát triển

các làng nghề truyền thống, đầu t thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nâng cao năng
suất cây trồng, vật nuôi, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông thôn. Hiệp hội cũng đã thông qua nhiệm kỳ 2002-2007, tập trung
vào một số lĩnh vực phổ biến nh thông tin kinh tế, trao đổi góp ý về các cơ chế, chính
sách, đào tạo và t vấn, tổ chức phát triển DNVVN ở các địa phơng, tạo nhịp cầu giao
thơng phát triển.
II. Tác động của các chính sách vĩ mô đến sự phát triển của các
DNVVN
Một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự tồn tại và phát triển
của các DNVVN là vấn đề cơ chế chính sách, môi trờng hành lang pháp lý cho hoạt
động của các DNVVN. Dới đây là những nét chính khái quát về ảnh hởng của một số
chính sách vĩ mô đến hoạt động và phát triển của DNVVN Việt nam.
1. Tác động của chính sách thơng mại
Trớc hết, về vấn đề khởi sự tiến hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
các DNVVN cũng đã đợc cởi trói qua quy định mới về việc tiến hành đăng ký kinh
doanh thành lập doanh nghiệp đợc quy định tại Luật doanh nghiệp. Luật doanh
nghiệp đợc Quốc hội thông qua ngày 20/6/1999, có hiệu lực từ 1/1/2000 đã luật hoá
các quy định thành lập doanh nghiệp theo hớng bãi bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ
đầu t chỉ đăng ký kinh doanh với hồ sơ hết sức đơn giản, xoá bỏ mọi kiểm tra kiểm
soát trớc khi thành lập, tạo điều kiện cho phép chủ đầu t nhanh chóng tiếp cận thị tr-
ờng, việc giám sát kiểm tra của nhà nớc chuyển sang giai đoạn sau đăng ký kinh
doanh. Luật doanh nghiệp cũng xoá bỏ vốn pháp định ở hầu hết các ngành nghề ( chỉ
còn áp dụng đối với một số ngành nghề nh Ngân hàng, Bảo hiểm..) đã tạo điều kiện
cho các DNVVN ra đời thuận lợi, giảm tối thiểu các chi phí cho việc thành lập doanh
nghiệp.
Kế đó, sự đổi mới chính sách thơng mại theo hớng mở cửa, không ngừng đa
phơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, tăng cờng thu hút vốn đầu t nớc ngoài
với chiến lợc vốn đầu t trong nớc có vai trò quyết định, vốn đầu t nớc ngoài có vai trò
quan trọng đã là một trong những nhân tố quyết định trong đổi mới kinh tế, đóng góp
đáng kể vào tình hình đổi mới kinh tế ở Việt nam trong những năm gần đây.

Chính sách thơng mại của Việt nam đã đạt đợc những tiến bộ đáng kể trong
suốt giai đoạn vừa qua, đặc biệt với sự ra đời của Luật Thơng mại có hiệu lực từ 1-1-
1998 và nghị định số 57/CP hớng dẫn thi hành Luật Thơng mại ngày 31/7/1998 đã
cải thiện đáng kể các điều kiện tiếp cận thơng mại quốc tế của các DNVVN. Thêm
vào đó là việc tham gia vào hàng loạt các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới
nh ASEAN(1995), APEC(1998)và đặc biệt là ký đợc Hiệp định thơng mại song ph-
ơng với Hoa kỳ vào 20/7/2001 và mở đờng cho việc gia nhập WTO đã đợc cụ thể hoá
bằng nhiều biện pháp cải tổ thơng mại theo hớng tự do hơn, hội nhập hơn cũng là
những thuận lợi và cũng là chứa đựng những thách thức không nhỏ đối với doanh
nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng.
a. Điều kiện tham gia xuất nhập khẩu của các DNVVN đợc cải thiện theo
cơ chế thông thoáng hơn.
Điều kiện tham gia hoạt động xuât nhập khẩu đã thực sự đợc mở ra cho tất cả
các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Nghị định 57/CP đã cho phép
tất cả các doanh nghiệp đợc tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi kinh
doanh đã đăng ký mà không cần phải có giấy phép xuất nhập khẩu. Có thể xem đây
là một bớc tiến tích cực của Việt nam trong quá trình tự do hoá thơng mại.
Trớc đó, Theo quy định của Nghị định 33/TTG của Thủ tớng chính phủ về
quản lí nhà nớc đối với hoạt động xuất nhập khẩu ban hành ngày 19/4/1994, các
DNVVN muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải có giấy phép mà muốn
có giấy phép thì phải đáp ứng các điều kiện nh:
Thứ nhất, phải là một pháp nhân có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện
hành và hoạt động đúng theo phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng ký.
Thứ hai, mức vốn lu động không đợc dới 200.000 USD vào thời điểm đăng ký
kinh doanh, trừ những doanh nghiệp ở miền núi và ở những vùng kinh tế khó khăn
khác, hoặc những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu đợc khuyến
khích đòi hỏi mức vốn thấp. Trong những trờng hợp đó, số vốn lu động phải tơng đ-
ơng 100.000 USD.
Thứ ba, có bằng chứng xác nhận rằng doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên có
đủ khả năng thích hợp để ký kết và thực hiện hợp đồng ngoại thơng.

Thêm vào đó, trớc khi Nghị định 57/CP đợc ban hành thì các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế t nhân muốn đợc thành lập nh tổ chức xuất nhập khẩu thì phải
có giấy phép của Thủ tớng Chính phủ theo Điều 11 của Luật công ty.
Rất nhiều các DNVVN không đáp ứng đợc các điều kiện kể trên và chỉ có thể
xuất khẩu các sản phẩm cuả mình thông qua một công ty đợc phép kinh doanh xuất
nhập khẩu. Bên cạnh việc phải trả cho công ty xuất nhập khẩu trung gian này một
khoản phí thông thờng là từ 0,5% đến 1% giá trị hợp đông xuất nhập khẩu, Các
DNVVN còn phải chịu thêm rủi ro khi tiết lộ thông tin quan trọng và bí mật về các
hợp đồng ngoại thơng và họ thậm chí còn bị các công ty chuyên doanh xuất nhập
khẩu đó chiếm mất đối tác nớc ngoài.
Nghị định 57/CP chỉ yêu cầu các DNVVN phải tiến hành hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu trong phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng ký.Với một số l-
ợng lớn các công ty có khả năng tham gia trực tiếp vào thơng mại quốc tế thì những
chi phí và khó khăn trong giao dịch sẽ đợc giảm đáng kể. Đến ngày 2/8/2001 thì tất
cả mọi pháp nhân ( doanh nghiệp và cá nhân) đã đợc xuất khẩu hầu hết mọi hàng hoá
mà không phải xin phép qua việc Chính phủ ban hành sửa đổi nghị định thực hiện
Luật thơng mại theo Nghị định 44/2001/ND-CP, ngày 2-8-2001.
Bên cạnh đó, cũng trong năm 2001 Chính phủ đã tiếp tục tăng cờng hỗ trợ
xuất khẩu cho các DNVVN qua Quyết định 133/2001/QD-TTg ngày 10/9/2001 về
việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển nhằm hỗ trợ các tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp và các cá nhân tham gia xuất khẩu.
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
ngoại thơng của các DNVVN. Nhng nó cũng có những thiếu sót, những tồn tại mà
cha thực sự hỗ trợ các DNVVN. Điển hình là việc Bộ Thơng mại và Tổng cục Hải
quan đã ban hành ngay sau nghị định 57/CP thông t hớng dẫn quy định các doanh
nghiệp muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải có mã số hải quan, muốn
có mã số hải quan thì phải nộp đơn đăng ký cho Bộ Tài chính, từ đó phát sinh thêm
nhiều thủ tục khó khăn.
b. Cơ chế tự do hoá thơng mại qua việc nới lỏng kiểm soát phi thuế quan.
Bên cạnh những giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN thể hiện

trong điều kiện tham gia, Nhà nớc cũng quản lí xuất nhập khẩu bằng cách ban hành
các danh mục hàng hoá thơng mại bị cấm, hoặc hạn chế nhập khẩu theo hạn ngạch,
hoặc ban hành các danh mục hàng hoá bị tạm ngừng xuất nhập khẩu, quy định mới
nhất về các loại hàng hoá xuất nhập khẩu đợc nêu rõ tại Nghị định 73/2002/NDCP
ngày 20/8/2002 của Chính phủ về danh mục các loại hàng hoá trong kinh doanh xuất
nhập khẩu phfu hợp với tinh thần nêu rõ trong Nghị định 57/CP về danh mục hàng
hoá cấm xuất nhập khẩu, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu quản lí bằng hạn
ngạch, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu cần có giấy phép đặc biệt( danh mục
sẽ đợc điều chỉnh theo từng năm). Bên ngoài những loại hàng hoá nêu trên là các
hàng hoá đợc phép xuất nhập khẩu. Nh vậy, nguyên tắc ở đây là nguyên tắc không
cấm( ngoài những mặt hàng cấm thì đợc tự do xuất nhập khẩu) chứ không nh trớc
kia, chỉ ban hành các mặt hàng đợc phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này tạo
điều kiện thuận lợi cho các DNVVN trong việc tìm hiểu nguồn hàng, mặt hàng để
kinh doanh xuất nhập khẩu thành công. Qua đó càng thấy rằng Nghị định 57/CP thực
sự là một bớc tiến quan trọng của chính phủ trong việc tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng trong việc tiếp cận thị trờng quốc tế.
Điều nổi bật gần đây nhất là vào năm 2001, Chính phủ đã công bố kế hoạch
quản lí xuất nhập khẩu trong 5 năm thay vì kế hoạch xuất nhập khẩu trong từng năm
nh các năm trớc đó, điều này tạo điều kiện ổn định và thuận lợi hơn cho hoạt động
kinh doanh nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng của các DNVVN. Quy định mới
nhất đó là Quyết định 46/2001 ngày 4/4/2001 của Chính phủ về kế hoạch xuất nhập
khẩu trong giai đoạn 2001-2005.
Thủ tục kiểm tra Hải quan đã có một số cải tiến, lúc này doanh nghiệp tự kê
khai tính thuế xuất nhập khẩu, tự chịu trách nhiệm, thời gian giải phóng hàng đã đợc
rút ngắn, đã thực hiện hệ thống hành lang xanh với các nớc ASEAN qua việc Tổng
cục Hải quan hớng dẫn áp dụng tại Thông báo số 1184/TCHQ-GSQL ngày 20/1/1996
và 1599/TCHQ-KTTT ngày 13/8/1996).
Để phù hợp với tiến trình tự do hoá thơng mại, hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung và tiến trình hội nhập CEPT/AFTA nói riêng. Chính phủ đã phê chuẩn lộ trình
tham gia giảm thuế AFTA trong giai đoạn 2001-2006, theo đó hầu hết các dòng thuế

sẽ đợc giảm xuống còn 20% vào cuối 2003 và xuống còn 5% vào 2006.
Ngày 4/9/2002, Bộ Thơng mại đã ban hành Quyết định số 1062/2002/QĐ-
BTM về việc bổ sung Phụ lục 3 quy chế cấp C/O hàng hoá ASEAN của Việt nam
Form D để hởng các u đãi của Hiệp định về chơng trình u đãi thuế quan có hiệu lực
chung( CEPT). Đây thực sự là một bớc tiến đáng kể vì nh vậy hàng hoá của các
doanh nghiệp Việt nam trong đó phần lớn là các DNVVN sẽ đợc hởng thêm những u
đãi để tăng tính cạnh tranh trên thơng trờng khu vực. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng
đang tiến hành xây dựng lại Biểu thuế xuất nhập khẩu để áp dụng cho tất cả hàng hoá
xuất nhập khẩu vào Việt nam, chuẩn bị áp dụng Danh mục thế quan áp dụng trong
ASEAN -AHTA (ASEAN Hamornised Tariff Nomenclature).
Hai mặt hàng chủ chốt là gạo và phân bón trong hoạt động xuất nhập khẩu đã
đợc Chính phủ công khai cho phép tự do hoá xuất nhập khẩu vào năm 2001. Trớc đó,
việc xuất nhập khẩu hai mặt hàng này chủ yếu đợc thực hiện qua các doanh nghiệp
nhà nớc đợc uỷ quyền. Đến năm 1998, Bộ Thơng mại đã cho phép các doanh nghiệp
thuộc khu vực t nhân tham gia xuất nhập khẩu phân bòn, và đến năm 1999, Bộ Thơng
mại đã công khai việc lựa chọn các doanh nghiệp để có thể tham gia vào hoạt động
xuất nhập khẩu gạo qua Quyết định 273/1999/Qđ-TTg ngày 24/12/1999 cho phép
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Và mới nhất là quyết định bãi bỏ phân bổ hạn
ngạch xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón theo Quyết định 46/2001/QD-TTg
ngày4/4/2001. Việc tự do hoá là một cơ hội rất lớn cho các DNVVN, xét về mặt hàng
gạo , Việt nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và gạo đ-
ợc xem nh mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam. Còn về phân bón , có ý nghĩa
rất quan trọng với một nớc với 75% dân số làm nông nghiệp nh Việt nam.
Bên cạnh những động thái tích cực nh vậy vẫn có một số vấn đề phát sinh nh:
Thứ nhất, hiện nay Việt nam vẫn áp dụng mức tính giá tối thiểu với 20 nhóm
mặt hàng, cha đáp ứng đợc yêu cầu của Hiệp định hợp tác Hải quan ASEAN và ph-
ơng pháp xác định giá trị tính thuế nhập khẩu theo nguyên tắc của GATT.
Thứ hai, việc Chính phủ ban hành danh mục các mặt hàng bị cấm hoặc hạn
chế xuất nhập khẩu tạm thời quá bất ngờ mà không đợc báo trớc hoặc nêu lí do một
cách thoả đáng gây nên những cơn sốt về cầu ( nh: xe máy...), đồng thời làm các

DNVVN bị động trong công tác xuất nhập khẩu, mất uy tín trên thị trờng thế giới.
Thứ ba, việc quy định ngữ nghĩa của một số mặt hàng cha đợc rõ ràng, gây
khó hiểu, hiểu lầm thậm chí hiểu sai. Chẳng hạn nh đồ chơi trẻ em có ảnh hởng xấu
đến giáo dục và nhân cách, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng gây ra sự bất đồng vì
một số nhân viên hải quan coi một số hàng hoá đã qua tân trang là mới mặc dù chúng
đã qua sử dụng. Đó là những vấn đề mà có thể nói sẽ không bao giờ hết . Nhng nhìn
chung thì mặt tích cực của Nghị định 57/CP vẫn là nổi bật, hỗ trợ đáng kể cho các
DNVVN trong việc tiếp cận thị trờng quốc tế.
c. Việc kiểm soát ngoại hối theo hớng nới lỏng dần.
Việc nới lỏng kiểm soát ngoại hối trong những năm gần đây phần nào đã tác
động tích cực tới khả năng tiếp cận thị trờng quốc tế của các DNVVN Việt nam. Cụ
thể là theo quy định thi ngoại tệ vào Việt nam đợc chuyển đổi thành VND, hoặc giữ
trong một tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng. Quyết định 173 yêu cầu các DNVVN bán
80% ngoại tệ cho ngân hàng, sau đó nếu yêu cầu cần ngoại tệ thì phải mua lại và
thông thờng với giá cao hơn đáng kể. Đến năm 1999, Tỷ lệ kết hối ngoại tệ đã đợc
giảm xuống 50% thu nhập ngoại tệ theo Quyết định số 180/1999/QD-NHNN1 ngày
30/3/1999, tiếp đó là giảm xuống 40% thu nhập ngoại tệ vào năm 2001 theo Quyết
định 61/2001/QD-TTg ngày 25-4-2001, đó thể hiện những nỗ lực của Chính theo h-
ớng tự do hoá, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNVVN trong ngoại hối, nhng
điều đó vẫn còn phải đợc cải thiện hơn.

×