CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ
CỦA CÁC DỰ ÁN FDI TẠI VIỆT NAM
I. Tổng quan về FDI của Việt nam qua 20 năm tiến hành hoạt động thu hút
đầu tư nước ngoài (1987 – 2007):
1. Tình hình thực hiện các dự án FDI:
1.1. Số lượng dự án, lượng vốn FDI được cấp mới và thực hiện:
Từ năm 1988, khi Luật đầu tư nước ngoài của Việt nam được ban hành, đến cuối
năm 2007, cả nước đã có hơn 9.500 dự án FDI được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng
ký khoảng 98 tỷ USD (bao gồm cả vốn tăng thêm). Nếu trừ đi các dự án đã hết thời hạn
hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện đang có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng
vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Tình hình về số dự án được cấp mới cũng như vốn đăng kí
và quy mô vốn đăng kí bình quân trên một dự án thời kì này được mô tả trong hình sau:
Hình 2.1 – Vốn FDI đăng kí và vốn thực hiện 1988-2007. Đơn vị: tỉ USD
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài
Hình 2.2 – Số lượng dự án FDI cấp mới 1988-2007
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài
Qua 2 hình trên, ta có thể nhận xét như sau: trải qua 20 năm thu hút đầu tư nước
ngoài, nguồn vốn FDI vào Việt nam trải qua các thời kì chính như:
Từ năm 1988 đến năm 1990: đây là giai đoạn mới bắt đầu thực thi Luật Đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên ta vẫn còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong công
tác quản lý Nhà nước với hoạt động đầu tư cũng như sự quan tâm của nhà đầu tư nước
ngoài đến môi trường đầu tư của Việt nam chưa nhiều, mới chỉ mang tính thăm dò nên
số lượng dự án đầu tư nước ngoài vẫn còn rất ít, chỉ có 214 dự án được cấp phép với
tổng vốn đăng ký cấp mới gần 1,6 tỷ USD). Các dự án trong thời kì này quy mô vẫn
còn nhỏ, bình quân mỗi dự án chỉ khoảng 7,4 triệu USD với các đối tác chủ yếu đến từ
Châu Á: Hồng Công, Đài Loan.
Trong thời kỳ 1991-1996: đây có thể coi là thời kì bùng nổ của nguồn vốn FDI
vào Việt nam, được xem là làn sóng đầu tư nước ngoài đầu tiên vào Việt nam. Trong
thời kì này, bên cạnh những sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài vào những năm 1990, 1992
đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân hợp tác với nước ngoài đồng thời cho phép
nhà đầu tư có thể mở tài khoản ở nước ngoài thay vì bắt buộc phải mở tại Việt nam.
Bên cạnh đó, việc Việt nam bình thường hóa quan hệ với Hoa Kì năm 1995 và tham gia
vào ASEAN đã thu hút sự quan tâm chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài với môi
trường đầu tư – kinh doanh tại Việt Nam với chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một
số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì
vậy, đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần
kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất
nước. Số dự án được cấp mới là 1397 dự án với tổng vốn đăng kí là 16,2 tỉ USD. Năm
1995 thu hút được 408 dự án với vốn đăng kí 7,6 tỷ USD, tăng gấp 5,8 lần năm 1991
(1,3 tỷ USD). Năm 1996 là năm đỉnh cao trong giai đoạn này với số vốn đăng ký lên tới
9,7 tỉ USD, tăng 28% so với năm trước.
Với các đối tác đầu tư chính đến từ khu vực Đông Á và Đông Nam Á nên cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã có ảnh hưởng lớn tới dòng vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt nam. Thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này bị giảm sút do chính
sách của các nước trong khu vực ngưng đầu tư ra nước ngoài để khôi phục lại nền kinh
tế trong nước cộng với các doanh nghiệp tư nhân gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh
do tác động của khủng hoảng nên trong giai đoạn 1997 – 1999 nên chỉ có 961 dự án
được cấp phép với tổng vốn đăng kí là 13,11 tỉ USD và quy mô vốn đăng kí giảm dần,
năm sau giảm hơn năm trước. Vốn đăng kí năm 1998 chỉ bằng 81.8% năm 1997 và năm
1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998. Giai đoạn này, Việt nam chịu ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ ít hơn so với các nước khác trong khu vực nhưng những
quy định trong sửa đổi luật đầu tư nước ngoài năm 1996 nhằm siết chặt hơn đối với nhà
đầu tư nước ngoài đã khiến ta bỏ lỡ cơ hội thu hút các nhà đầu tư từ các nước đang bị
khủng hoảng: Thái Lan, Singapo...chuyển vốn sang. Đồng thời, nhiều dự án đã được
cấp giấy phép đầu tư trong những năm trước cũng phải dừng triển khai do nhà đầu tư
gặp khó khăn về tài chính.
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục
hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 tỉ USD, tăng 21% so với năm 1999;
năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6%
so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002.
Tính chung trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt
20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001
của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung
trong 5 năm 2001-2005, vốn đầu tư nước ngoài cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao
hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%) đi kèm với số lượng dự án đăng kí
cũng tăng dần qua các năm, nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Điều
này báo hiệu cho làn sóng đầu tư thứ hai vào Việt nam.
Chỉ tính trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đã
tăng đáng kể (32,3 tỷ USD), đi kèm với đó là sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn
đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ
cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao
cấp .v.v.).
Cùng với sự tăng lên của vốn cấp mới, vốn thực hiện cũng có xu hướng tăng qua
các năm nhưng tốc độ tăng chậm hơn trong khi vốn cấp mới có xu hướng tăng mạnh.
Trong cả giai đoạn 1991-1995, vốn thực hiện mới chỉ đạt 7.1 tỉ USD thì đến giai đoạn
1996-2000, dù cho có ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế khu vực vẫn đạt mức
13.5 tỉ USD tăng 89% so với giai đoạn trước. Lượng vốn cấp mới tiếp tục tăng 6%
trong giai đoạn 2001-2005 và đến hai năm 2006, 2007, với sự tăng lên của vốn cấp mới,
vốn thực hiện đạt 8.7 tỉ USD, chỉ bằng 27% vốn cấp mới nhưng vốn thực hiện vẫn tăng
12% của năm 2007 so với 2006 và có xu hướng tăng lên trong giai đoạn tiếp theo do
trong hai năm này, có nhiều dự án đăng kí có quy mô lớn.
1.2. Tình hình tăng vốn đầu tư:
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có
hiệu quả đã tiến hành mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất
là từ năm 2001 trở lại đây số lượng cũng như quy mô dự án tăng vốn tăng nhanh qua
từng năm. Tính đến hết năm 2007, đã có hơn 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng
vốn tăng thêm hơn 19,5 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Số dự
án tăng vốn cũng như vốn tăng thêm qua các năm được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.1 – Quy mô, số lượng dự án FDI tăng vốn giai đoạn 1988 – 2007
Số dự án tăng vốn Vốn tăng thêm (triệu USD)
Tổng số 4103 19541.3
1988 – 1990 1 0.3
1991 – 1995 317 2133
1991 9 9
1992 13 50
1993 60 240
1994 84 516
1995 151 1318
1996 – 2000 804 3950
1996 162 788
1997 164 1173
1998 162 884
1999 163 629
2000 153 476
2001 – 2005 2116 7083
2001 241 632
2002 366 1136
2003 374 1128
2004 497 2052
2005 638 2135
2006 486 3906
2007 379 2469
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài
Trong giai đoạn 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài còn ít và nhà đầu tư nước ngoài mới chỉ bước đầu tiến
hành làm ăn tại Việt nam. Trong 5 năm 1991-1995, số dự án tiến hành tăng vốn là 317
với quy mô 2.13 tỉ USD thì đến giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi cả về số dự án
cũng như về quy mô vốn tăng thêm. Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm tăng
gấp đôi so với giai đoạn trước, đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng
69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD
bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ
USD, mỗi năm trung bình tăng 35%. Cùng với đó, quy mô bình quân của các dự án tiến
hành tăng vốn cũng tăng, trong 2 năm 2006 và 2007 quy mô bình quân của 1 dự án tiến
hành tăng vốn khoảng 7 triệu USD, tăng hơn so với giai đoạn 2001 – 2005 (3.3 triệu
USD) cho thấy nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất –
kinh doanh tại Việt nam đã tin tưởng, có ý định làm ăn lâu dài tại Việt nam.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản –JETRO tại Việt Nam
có trên 70% doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở
rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà đầu tư
nước ngoài vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
1.3. Quy mô dự án :
Qua các thời kỳ, quy mô dự án đầu tư nước ngoài có sự biến động theo lượng
vốn FDI vào Việt nam, điều đó thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của
các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư – kinh doanh tại Việt Nam. Quy
mô vốn đầu tư bình quân của một dự án đầu tư nước ngoài được thể hiện tại bảng , qua
bảng ta thấy quy mô bình quân của một dự án FDI tăng dần qua các giai đoạn, tuy có
giai đoạnbị giảm sút do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ
1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức
quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-
1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số
lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong
5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án
trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn
2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn
đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy
mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn
đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn có quy mô hàng tỉ USD (Intel, Panasonic,
Honhai, Compal, Piaggio....).
1.4. Số lượng dự án phải rút giấy phép đầu tư, giải thể trước thời hạn:
Tính đến hết năm 2007, đã có 1359 dự án đầu tư nước ngoài bị giải thể trước
thời hạn với số vốn đăng kí giải thể khoảng 15,5 tỉ USD. Tính bình quân trong giai
đoạn 1988 – 2007, số lượng dự án bị giải thể chiếm 14% so với tổng số dự án đăng kí
và 16% về quy mô vốn đăng kí bị giải thể, được thể hiện qua hình sau:
Hình 2.3 – Tỷ lệ dự án giải thể và cấp mới trên tổng số dự án đăng kí
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài và tính toán của tác giả
Số lượng cũng như tỉ lệ của các dự án bị giải thể so với số dự án cấp mới qua
từng năm trong giai đoạn 1988 – 2007 được thể hiện trong bảng sau:
16%14%
84%%86%%
Bảng 2.2 – Số lượng dự án bị giải thể giai đoạn 1988 -2007
Số dự án cấp
mới
Số dự án bị giải thể
Số dự án bị giải thể/
cấp mới %
Tổng số 9564 1359 14.24
1988 – 1990 214 6 2.80
1991 – 1995 1397 237 16.96
1991 151 37 24.50
1992 197 48 24.37
1993 274 34 12.41
1994 367 60 16.35
1995 408 58 14.22
1996 – 2000 1730 402 23.24
1996 387 54 13.95
1997 358 85 23.74
1998 285 101 35.44
1999 311 85 27.33
2000 389 77 19.79
2001 – 2005 3791 413
10.89
2001 550 93 16.91
2002 802 111 13.84
2003 748 94 12.57
2004 723 53 7.33
2005 968 62 6.40
2006 – 2007 2432 165 6.78
2006 987 88 8.92
2007 1445 77 5.33
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài và tính toán của tác giả
Qua bảng trên ta có thể thấy, đi kèm với số dự án cấp mới ngày càng lớn thì số
lượng dự án bị giải thể trước thời hạn liên tục tăng qua từng thời kì.
Trong 3 năm đầu thu hút đầu tư nước ngoài 1988 – 1990, số dự án bị giải thể
bình quân mỗi năm chỉ có 2 dự án và tỉ lệ số dự án bị giải thể/dự án cấp mới chỉ là 2,8%
cho thấy chất lượng của các dự án FDI được cấp phép trong thời kì này là cao. Mặt
khác, cũng có thể do các dự án mới chỉ bắt đầu đi vào hoạt động, chưa nảy sinh nhiều
khó khăn cho nhà đầu tư.
Giai đoạn 1991 – 1995: đi kèm với lượng vốn FDI vào Việt nam tăng nhanh, số
dự án đăng kí cấp mới cũng tăng gấp 7 lần so với giai đoạn 1988 – 1990 (1397 dự án so
với 214 dự án) nhưng đồng thời số dự án bị giải thể trước thời hạn cũng tăng gấp 39.5
lần so với giai đoạn trước. Bình quân mỗi năm trong giai đoạn này có 47 dự án phải tiến
hành giải thể trước thời hạn. Đây là giai đoạn mà bên cạnh số dự án đầu tư thu hút được
ngày càng nhiều thì môi trường đầu tư cũng bộc lộ một số hạn chế, nhà đầu tư trong
quá trình chuẩn bị đã chưa tính toán được hiệu quả theo báo cáo nghiên cứu khả thi dẫn
tới thua lỗ, phải giải thể trước thời hạn.
Trong giai đoạn 1996 – 2000: đây là giai đoạn mà Việt nam chịu ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu Á nên số lượng các dự án FDI phải giải thể
trước thời hạn gia tăng do nhà đầu tư nước ngoài không đủ năng lực tài chính để thực
hiện dự án, trung bình trong giai đoạn này, mỗi năm có 80 dự án bị giải thể với số vốn
bị giải thể là 6,7 tỉ USD, số lượng dự án bị giải thể này đã tăng gấp 2 lần so với giai
đoạn trước.
Giai đoạn 2001 – 2005: đây là giai đoạn hồi phục trong thu hút đầu tư nước
ngoài của Việt nam, đi kèm với số lượng dự án đăng kí mới ngày càng nhiều thì số
lượng dự án bị giải thể cũng tăng hơn so với giai đoạn trước, bình quân mỗi năm có 83
dự án bị giải thể. Từ năm 2001 đến 2003, số lượng dự án phải giải thể bình quân mỗi
năm là 100 dự án với số vốn đăng kí bị giải thể là 4.021 tỉ USD.
Hai năm 2006 và 2007: bắt đầu từ năm 2004, số dự án bị giải thể giảm dần, chỉ
còn khoảng 60 dự án mỗi năm nhưng đến hai năm 2006 và 2007, số dự án bị giải thể lại
tăng lên 80 dự án mỗi năm. Điều này cho thấy, dù môi trường đầu tư đã được cải thiện
nhưng trong công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI, các nguyên nhân khách quan từ
phía cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư trong quá trình cấp phép cũng như nguyên
nhân chủ quan từ bản thân các nhà đầu tư khi tiến hành tìm hiểu cơ hội đầu tư cũng như
khi lập dự án nghiên cứu khả thi đã không có những dự báo chính xác về thị trường
cũng như khả năng tài chính của mình khiến cho dự án khi đi vào triển khai gặp nhiều
khó khăn, trong nhiều trường hợp gặp thua lỗ phải giải thể trước thời hạn. Vì vậy, việc
xem xét lại quá trình chuẩn bị đầu tư là cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi
số lượng dự án FDI thu hút được ngày càng nhiều cũng như các dự án có quy mô lớn
ngày càng tăng, lên đến hàng tỉ USD thì việc xem xét thật kĩ càng của nhà đầu tư cũng
như cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư trở nên rất quan trọng.
2. Hiệu quả kinh tế - xã hội từ những dự án FDI được thực hiện trong thời
gian qua (1988-2007):
2.1. Những thành công trong thu hút FDI và hiệu quả kinh tế - xã hội mà các
dự án FDI được cấp phép mang lại :
2.1.1. Những thành công của Việt nam trong thu hút FDI:
Số lượng dự án FDI ngày càng tăng qua các năm. Nếu như trong giai đoạn đầu
của quá trình thu hút đầu tư nước ngoài 1988 – 1990, số lượng dự án FDI mới chỉ là
214 thì qua các năm sau, số lượng dự án không ngừng tăng lên cho tới thời điểm trước
năm 1997. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, số lượng dự
án FDI vào Việt nam bị suy giảm trong giai đoạn 1997 – 1999 và dần hồi phục vào
khoảng 2000 – 2003. Từ năm 2004 đến nay, số lượng dự án FDI đăng kí mới tăng lên
rất nhanh. Năm 2007 là năm chứng kiến lượng vốn FDI đăng kí tăng kỉ lục với 20,3 tỉ
USD vốn đăng kí, trong đó chủ yếu là đăng kí mới. Số lượng dự án FDI đăng kí mới
năm 2007 là 1400, gấp 7 lần so với cả giai đoạn đầu thu hút đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, dù có giai đoạn đi xuống do tác động của khủng hoảng tài chính
tiền tệ châu Á nhưng những năm gần đây quy mô vốn đăng kí cũng như số lượng dự án
FDI tăng nhanh nên quy mô vốn bình quân trên một dự án cũng tăng theo. Nếu như các
dự án FDI trước đây đa phần là các dự án có quy mô nhỏ và vừa thì trong những năm
gần đây đã có những dự án rất lớn, có quy mô hàng tỉ USD như dự án xây dựng khu đô
thị Nam Thăng Long với vốn đầu tư trên 2 tỉ USD, dự án xây dựng nhà máy kiểm định
chip bán dẫn của Intel (1 tỉ USD), dự án xây dựng nhà máy thép của công ty thép
POSCO (1,126 tỉ USD) và sẽ còn tiếp tục tăng lên trong thời gian tới.
Trong quá trình thực hiện dự án FDI tại Việt nam, nhiều nhà đầu tư nước ngoài
đã kinh doanh có lãi, tỏ ra tin tưởng vào môi trường đầu tư tại Việt nam. Từ đó, họ có
những cam kết làm ăn lâu dài, nhiều dự án đã tăng vốn khi tiến hành triển khai như dự
án xây dựng nhà máy kiểm định chip của Intel vốn dự tính ban đầu là 650 triệu USD đã
xin tăng vốn lên 1 tỉ USD.
2.1.2. Hiệu quả mà các dự án FDI được thực hiện mang lại với kinh tế - xã hội của Việt nam:
Các dự án FDI được thực hiện đã có những đóng góp tích cực cho phát triển
kinh tế, xã hội của Việt nam. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cùng với khu vực tư
nhân trong nước là khu vực năng động nhất trong nền kinh tế, gia tăng số lượng sản
phẩm xuất khẩu, tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động, đồng thời góp phần tăng tính
cạnh tranh trong nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện của mình, những khó khăn,
vướng mắc với nhà đầu tư nước ngoài dần được tháo gỡ thông qua những sửa đổi của
hệ thống luật về đầu tư đã giúp cho môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi, từ đó lại thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu thực hiện dự án tại Việt nam.
Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá về hiệu quả của nguồn vốn FDI tới phát triển
kinh tế - xã hội, có thể tổng hợp lại ở một số điểm như:
Về mặt kinh tế:
- Các dự án FDI được cấp phép và đi vào hoạt động là nguồn vốn bổ sung
quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng
kinh tế:
Tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI ngày càng tăng qua các năm, nếu như năm
1992 mới chỉ là 2% GDP thì đến năm 2007 là 16.2% cho thấy vai trò ngày càng lớn của
nguồn vốn FDI với nền kinh tế Việt nam.
- Các dự án FDI được cấp phép và đi vào hoạt động góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp:
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
luôn cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, từ đó góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ,tỷ trọng của khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp tăng lên qua các năm (từ
23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
- Thông qua các dự án FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ:
Các dự án FDI thường gắn liền với chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt
nam, từ đó góp phần phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn
thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe
máy... Điển hình sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án
sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực
công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech, Honhai.v.v)
- Tác động lan tỏa của đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế:
Sự tham gia của các dự án FDI đã làm tăng tính cạnh tranh của môi trường trong
nước. Đồng thời, qua sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong cung cấp hàng hóa, dịch vụ phụ trợ đã làm tăng
năng lực kinh doanh cho các doanh nghiệp trong nước.
Về mặt xã hội:
Các dự án FDI đi vào hoạt động đãgóp phần quan trọng trong việc tạo việc làm,
tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực. Theo số liệu đến hết năm 2007, khu
vực đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm cho trên 1.2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu
lao động gián tiếp khác. Với công nghệ sản xuất hiện đại hơn so với công nghệ hiện có
trong nước, các dự án FDI đã tạo ra năng suất lao động cao hơn, góp phần cải thiện
phúc lợi xã hội.Lao động trong các dự án FDI cũng được đào tạo để nắm vững công
nghệ mới cũng như trong quản lý, từ đó trình độ nguồn nhân lực trong nước được nâng
cao, có khả năng tiếp thu công nghệ tiên tiến, hiện đại hơn.
Về mặt môi trường:
Các dự án FDI với công nghệ hiện đại hơn và tuân theo quy định về môi trường
tại nước đi đầu tư ( có điều kiện khắt khe hơn) nên có những quan tâm về môi trường
tốt hơn so với tiêu chuẩn của Việt nam. Theo kết quả điều tra năm 2002 (của Viện Quản
lý kinh tế trung ương), đa số các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn
môi trường Việt Nam và có kết quả môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp
trong nước (có 77% doanh nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường
thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam)
2.2. Những hạn chế trong quá trình thu hút FDI và tác động của các dự án
FDI gặp thất bại trong quá trình thực hiện tới hiệu quả thu hút FDI:
2.2.1. Những hạn chế trong quá trình thu hút FDI:
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng những dự án FDI đã và
đang hoạt động tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau:
- Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực,
ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự
án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng
thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Vì vậy, thời gian qua chỉ một số địa phương
có điều kiện thuận lợi: TP.HCM, Hà nội...thu hút nhiều các dự án FDI trong khi các tỉnh
miền núi là những vùng khó khăn hơn, cần được phát triển thì ít có dự án. Trong các
ngành cũng xảy ra tình trạng tương tự, các dự án FDI chủ yếu trong lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ trong khi các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp rất ít.
- Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Trong các dự án FDI, do khác biệt về ngôn ngữ cũng như trình độ quản lý, tác
phong làm việc nên số lượng các tranh chấp trong khu vực này vẫn rất cao, nhiều khu
công nghiệp ở TP.HCM, Bình Dương đã xảy ra tình trạng công nhân biểu tình, gây thiệt
hại cho doanh nghiệp nhưng vẫn chưa có một tổ chức đứng ra giải quyết triệt để vấn đề
này.
- Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ của phía Việt nam
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các dự án FDI thường cao hơn mặt
bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta. Tuy vậy, một số trường
hợp các nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự
yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu và năng lực thẩm tra về công nghệ của
phía Việt nam trong các dự án FDI nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị
có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Điển hình là giá cả
đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy
một số nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên
doanh với Việt Nam.
2.2.2. Tác động của các dự án FDI gặp thất bại trong quá trình thực hiện tới
hiệu quả thu hút FDI ở giai đoạn sau:
Qua những phân tích ở mục 1.4 ta có thể thấy số lượng các dự án FDI bị giải
thể ngày càng tăng. Trong nền kinh tế thị trường, việc các dự án kinh doanh thua lỗ,
phải giải thể là chuyện bình thường nhưng số lượng dự án bị giải thể trước thời hạn hay
số dự án bị thu hồi giấy phép đầu tư có xu hướng tăng thì đòi hỏi các bên phải có sự
nhìn nhận chuẩn xác. Đây có thể là những nguyên nhân xuất phát từ môi trường đầu tư
quốc tế, từ phía chủ đầu tư đã không có đủ năng lực triển khai thực hiện dự án và từ
phía cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư của Việt nam đã không đủ khả năng để thẩm
định lựa chọn ra những dự án tốt và nhà đầu tư nước ngoài có đủ năng lực để thực hiện
dự án đó. Với đặc trưng của các dự án đầu tư phát triển là sử dụng một lượng vốn cũng
như nguồn lực lớn của nền kinh tế thì những thất bại trong thực hiện dự án FDI mang
lại những tác động to lớn tới nền kinh tế - xã hội, không chỉ là sự lãng phí vốn, thời
gian, công sức của nhà đầu tư mà còn là sự lãng phí về các nguồn lực tự nhiên: tài
nguyên thiên nhiên, đất đai… cũng như nguồn lực con người của đất nước mà đi kèm
với đó là những tác động tới vấn đề xã hội phải giải quyết việc làm cho công nhân trong
các dự án này làm ảnh hưởng tới môi trường đầu tư và tâm lý của những nhà đầu tư
đang quan tâm tới Việt nam, từ đó ảnh hưởng tới thu hút FDI trong thời gian tiếp theo.
Hiện nay, số lượng cũng như quy mô dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư
ngày càng lớn nhưng chất lượng của các dự án FDI được thực hiện mới là yếu tố quyết
định đến thu hút FDI trong tương lai. Hiện tại, chỉ số ICOR của Việt nam trong giai
đoạn 2001-2006 là 4,4 , đây là mức cao so với Trung Quốc 4,0 và so với các nước Đông
Á và Đông Nam Á ở giai đoạn phát triển tương tự như Việt nam ( chỉ ở khoảng 3).
Chính vì vậy, các dự án FDI được hoạt động hiệu quả sẽ sử dụng được tối đa các nguồn
lực đồng thời tăng được tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Đây cũng là mong muốn
không chỉ của nhà đầu tư mà của cả với Việt nam là nước nhận đầu tư.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là tìm ra những nguyên nhân khiến cho dự án FDI bị thất
bại trong quá trình thực hiện, tìm cách khắc phục các nguyên nhân đó nhằm tăng hiệu
quả trong thực hiện các dự án FDI.
3. Một số nguyên nhân chủ yếu khiến nhiềudự án FDI gặp thất bại trong
quá trình thực hiện:
Trên thực tế, các dự án FDI trong quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc, lâm vào tình trạng dự án treo, nhiều trường hợp phải giải thể, rút giấy phép đầu tư
do nhiều nguyên nhân, có thể là những nguyên nhân từ phía môi trường đầu tư thay đổi,
sự thay đổi trong chính sách đầu tư của công ty mẹ… nhưng nguyên nhân quan trọng là
do công tác chuẩn bị đầu tư đối với dự án FDI chưa tốt. Các dự án FDI bị giải thể trước
thời hạn là do cả các nhân tố khách quan và chủ quan tác động, trong đó có một số
nguyên nhân như:
Hình 2.4 – Nguyên nhân khiến nhiều dự án FDI phải giải thể trước thời hạn
Từ hình trên, ta có thể thấy, một trong những nguyên nhân khiến dự án FDI bị
giải thể là do môi trường pháp lý của Việt nam vẫn còn chưa hoàn thiện, còn có nhiều
thay đổi, thiếu tính minh bạch và có thể dự đoán được, đặc biệt là các điều kiện có liên
quan tới ưu đãi đầu tư và thuế thu nhập doanh nghiệp khiến cho nhà đầu tư khi tiến
hành lập dự án đã không lường trước được những thay đổi này, nhất là khi dự án đã
được cấp giấy chứng nhận đầu tư và đi vào triển khai.
Bên cạnh đó, thủ tục hành chính trong cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như các
thủ tục xin giao đất, thuê đất tuy đã có nhiều thay đổi nhưng còn phiền hà, vẫn còn có
Dự án FDI phải giải thể trước thời hạn
Thủ tục hành
chính
Do thay đổi của
môi trường pháp
lý
Chuẩn bị đầu
tư chưa tốt
Các nguyên
nhân khác
những tiêu cực liên quan tới thỏa thuận về đất đai cho dự án, nhiều dự án phải kéo dài
thời gian chuẩn bị cũng như triển khai khiến nhà đầu tư bỏ lỡ cơ hội đầu tư.
Ngoài ra còn do cácnguyên nhân khác như nhà đầu tư thay đổi phương thức kinh
doanh, nhà đầu tư nước ngoài thiếu thiện chí, vi phạm pháp luật… dẫn tới dự án không
thể tiếp tục triển khai như đã định hoặc bị rút giấy chứng nhận đầu tư.
Trong các nguyên nhân trên thì nguyên nhân chính khiến cho nhiều dự án FDI bị
giải thể trước thời hạn là do công tác chuẩn bị đầu tư chưa tốt, đây có thể là nguyên
nhân chủ quan từ phía nhà đầu tư nhưng cũng bao gồm cả nguyên nhân khách quan do
sự hỗ trợ từ phía Việt nam trong giai đoạn này chưa tốt, nhất là yếu tố thông tin tới nhà
đầu tư còn thiếu khiến nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn khi chuẩn bị. Nguyên nhân chủ
quan là từ phía nhà đầu tư khi lập dự án đã không tính tới các rủi ro có thể gặp phải,
nghiên cứu thị trường không chuẩn xác khiến khi dự án đi vào hoạt động thì thực tế
diễn ra khác biệt hoàn toàn so với trong dự án ban đầu hay trong các liên doanh là sự
yếu kém của phía Việt nam sự chuẩn bị cần thiết trước khi tiếp cận đối tác nước ngoài
cũng như kinh nghiệm đàm phán thấp, thiếu thông tin về nhà đầu tư nước ngoài cũng
như không đủ năng lực thẩm định dự án nên các cuộc đàm phán thường kéo dài, chất
lượng hợp đồng thấp, hồ sơ dự án phải sửa đổi nhiều lần dẫn tới thua thiệt về lợi ích
cho phía Việt nam.
Chuẩn bị đầu tư là hoạt động của bản thân nhà đầu tư trong quá trình thực hiện
dự án nhưng đồng thời với quá trình này các điều kiện từ phía môi trường đầu tư của
Việt nam cũng có ảnh hưởng tới kết quả chuẩn bị tốt hay không của dự án FDI. Phần
sau đây sẽ tập trung tìm hiểu về thực trạng công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI tại
Việt nam, tập trung vào thực tế trong công tác chuẩn bị đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài cũng như sự hỗ trợ trong công tác này từ phía Việt nam trong quá trình nhà đầu tư
chuẩn bị cho dự án FDI.